Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

Vài Suy Nghĩ Về Tượng Pháp Của Đại Ái Đạo Kiều-đàm-di Ở Việt Nam Hiện Nay

Saturday, October 21, 202319:26(View: 2350)
Vài Suy Nghĩ Về Tượng Pháp Của Đại Ái Đạo Kiều-đàm-di Ở Việt Nam Hiện Nay

Vài Suy Nghĩ Về Tượng Pháp Của
Đại Ái Đạo Kiều-đàm-di Ở Việt Nam Hiện Nay

Chúc Phú

 sen



Sau khi hoàng hậu Ma-da (Mayāquá vãng, vua Tịnh Phạn (Suddhodana) tục huyền với Mahāpajāpatī Gotami và bà đã xuất gia sau khi vua Tịnh Phạn băng hà. Đây là sự thật được xác tín bởi nhiều nguồn tư liệu lịch sử. Với cái nhìn sơ khởi, có thể thấy Di mẫuMahāpajāpatī Gotami xuất gia khi đã lớn tuổi. Có lẽ do chưa nắm bắt đầy đủ về yếu tố này cũng như các điều kiện đặc hữu của Di mẫu mà nhiều họa sĩ, điêu khắcgia đã phóng tác nên những tôn tượng được định danh là Di mẫu Kiều-đàm-di nhưng chỉ dựa trên cảm xúc nghệ thuật mà không dựa trên cơ sở lý luận.

Bài viết ngắn này cố gắng phác thảo vài nét về chân dung của Di mẫu Đại Ái Đạo Kiều-đàm-di dựa trênnhững cứ liệu kinh điển khả tín. Qua đó, cung cấp một số dữ kiện quan trọng để các nhà tạo tượng có thêm cơ sở để thể hiện gần đúng về tôn dung của một bậc khai tổ của Ni chúng.

1. Vài nét về lịch sử và chân dung Di mẫu Đại Ái Đạo Kiều-đàm-di


Về tên gọi, kinh điển Pāli đều thống nhất ghi là Mahāpajāpatī Gotami, tuy nhiên ở Hán tạng thì tên của bà được thể hiện rất đa dạng, vì có khi được dịch nghĩa, có lúc được dịch âm, như: Kiều-đàm-di (憍曇彌), Ma-ha Ba-xà-ba-đề (摩訶波闍波提), Đại Ái Đạo Kiều-đàm-di (大愛道憍曇彌), Đại Ái ĐạoCù-đàm-di (大愛道瞿曇彌), Đại Ái Đạo (大愛道), Đại Thắng Sanh Chủ (大勝生主), Đại Sanh Chủ (大生主)… Trong những danh xưng này thì tên gọi Đại Ái Đạo Kiều-đàm-di (大愛道憍曇彌) có lẽ sát với nguyên tác Pāli: Mahāpajāpatī Gotami.

Theo Ký sự về các Trưởng lão Ni (Therī Apadāna), thuộc tác phẩm Thánh nhân ký sự (Apadāna), Di mẫu sinh ra ở thành phố Devadaha, cha tên là Añjana, thuộc dòng Sākya, mẹ tên là Sulakkhaṇā[1]. Như vậy, Di mẫu vốn xuất thân từ hoàng gia, sống với phong cách của hoàng gia.

Có một sự kiện được kinh Cù-đàm-di kinh (瞿曇彌經) thuộc Trung A-hàm ghi nhận về khả năng dệt vải và may vá của Di mẫu.

 Kinh ghi:

Bấy giờ, Ma-ha-ba-xà-ba-đề Cù-đàm-di đem một chiếc mới màu vàng, được dệt bằng kim tuyến đi đến chỗ Đức Phật, cúi đầu đảnh lễ sát chân Phật rồi ngồi sang một bên và thưa:

- Bạch Thế Tôn! Con đã tự tay cắt may chiếc mới màu vàng dệt bằng kim tuyến này cho Thế Tôn. Cúi mong Thế Tôn thương con mà thọ nhận.

Đức Thế Tôn bảo:

- Này Cù-đàm-di, hãy đem này cúng dường cho chúng Tỳ-kheo. Dâng cúng cho chúng Tỳ-kheo là đã cúng dường Như Lai, cũng là cúng dường đại chúng.

Đại Sinh Chủ Cù-đàm-di lại thưa đến lần thứ ba:

- Bạch Thế Tôn! Con đã tự tay cắt may chiếc mới màu vàng dệt bằng kim tuyến này cho Thế Tôn. Cúi mong Thế Tôn thương con mà thọ nhận.

Đức Thế Tôn cũng ba lần bảo:

- Này Cù-đàm-di, hãy đem này cúng dường cho chúng Tỳ-kheo. Dâng cúng cho chúng Tỳ-kheo là đã cúng dường Như Lai, cũng là cúng dường đại chúng[2].

Chi tiết này đã phần cho cho thấy, Di mẫu là người có khả năng lao động, tháo vát.

Kế đến, theo Tiểu phẩm (Culla Vagga), sau khi cầu thỉnh Đức Phật xin được xuất gia tại quê nhàKapilavatthu nhưng bị từ chối, Di mẫu đã đi bộ một khoảng đường rất dài để đến Vesālī. Luật ghi:

Sau đó, Đức Thế Tôn khi đã ngự tại thành Kapilavatthu theo như ý thích đã ra đi du hành đi về phía thành Vesālī. Trong khi tuần du hành, Ngài đã ngự đến thành Vesālī. Tại nơi đó, trong thành Vesālī, Đức Thế Tôn ngự tại Mahāvana (Đại Lâm), giảng đường Kūṭāgāra.

Khi ấy, bà Mahāpajāpati Gotamī đã nhờ người cạo tóc, khoác y phục màu ca-sa cùng với nhiều người nữ dòng Sākya đã ra đi về hướng thành Vesālī, tuần tự đã đi đến thành Vesālī, Mahāvana, giảng đường Kūṭāgāra. Khi ấy, bà Mahāpajāpati Gotamī với hai bàn chân sưng vù, thân hình phủ đầy bụi bặm, khổ sở, buồn rầu, mặt mày ủ dột, đang đứng khóc lóc ở bên ngoài cổng ra vào[3].

Có thể thấy, khoảng cách từ Kapilavatthu đến Vesālī rất xa. Theo tính toán của bản đồ google ngày nay thì khoảng cách đó hơn bốn trăm km. Vào thời Phật, quãng đường đó có thể dài hơn. Chi tiếtbàn chân sưng vù phần nào cho thấy sự vất vả của hành trình này. Ở đây, Tiểu phẩm đã cung cấpthêm một dữ liệu cho thấy sức khỏe và khả năng đi bộ của Di mẫuđặc biệt, đây là lúc Di mẫu đã nhiều tuổi. Vậy thực tế, lúc xuất gia thì Di mẫu khoảng bao nhiêu tuổi?

 Theo Ký sự về các Trưởng lão Ni (Therī apadāna), Di mẫu tự thuật rằng, mình thọ một trăm hai mươi tuổi:

- Bạch đấng Đại Hiền Triết, con đây đã được một trăm hai mươi tuổi tính từ lúc sinh. Bạch đấng Anh Hùng, chừng ấy là vừa đủ. Bạch đấng Lãnh Đạo, con sẽ Niết-bàn[4].

Nếu căn cứ vào niên đại thành lập Ni đoàn, tức vào năm thứ năm sau khi Phật thành đạo[5], cộng với số tuổi của Di mẫu, điều đó đã tỏ xác tín rằng: Nếu cho rằng Đức Phật trải qua bốn mươi lăm năm giáo hóa, theo quan điểm Nam truyền, thì lúc xuất giaDi mẫu đã tám mươi tuổi; nếu cho rằng đức Phật trải qua bốn mươi chín năm giáo hóa theo quan điểm Bắc truyền, thì khi ấy Di mẫu đã bảy mươi sáu tuổi.

Trong thời Đức Phật, đã có nhiều cá nhân sống đến một trăm hai mươi tuổi được kinh điển ghi nhậngồm có các trường hợp như: Phạm chí Tu-bạt (須跋)[6], mẹ của vua Ba-tư-nặc[7], trưởng giảNa-câu-la (那拘羅)[8], ngọai đạo Thương Chủ (商主)[9]… Thế nên Di mẫu thọ đến mức đó cũng có cơ sở.

Từ những dữ liệu được nêu dẫn trên, có thể tóm tắt rằng:

Thứ nhất, Mahāpajāpatī Gotami được sinh ra và lớn lên trong cung của dòng họ Thích, đời sốngvà sinh hoạt mang phong cách hoàng gia.

Thứ hai, bà là một phụ nữ đảm đang, đã thành công trong việc nuôi dưỡng Thái tử Tất-đạt-đa, có khả năng lao động tay chân và có sức khỏe rất tốt.

Thứ ba, vào lúc xuất gia Di mẫu khoảng từ bảy mươi sáu cho đến tám mươi tuổi.

2. Thực tế tượng pháp của Di mẫu Mahāpajāpatī Gotami và những đề nghị ban đầu
Trong khoảng vài thập niên trở lại đây, do nhu cầu của chư Ni và sự thỉnh cầu của quần chúng Phật tử, một số cơ sở chuyên về tượng thờ như Zen Art, Thiên Phú Thạo, Tượng Phật Thanh Phong,  Tượng Phật Trần Gia… đã thiết kế tôn tượng tôn Ni Kiều-đàm-di. Ở đây, tùy theo quan điểm nghệ thuật của từng cơ sở, thậm chí kể cả quan điểm của chủ đầu tư mà đã có những tôn tượng của Di mẫu Kiều-đàm-di được thể hiện với nhiều phong cách khác nhau. Nếu như không có sự thuyết minh của người thực hiện thì khó có thể xác định đây là tôn tượngcủa Di mẫu Kiều-đàm-di vì không có bất kỳ một tiêu chí đặc thù nào dùng để xác định.

Trong khi đó, với tượng Phật Thích Ca thì khác, những đặc tướng riêng có như Nhục kế, tóc xoắn thành hình trôn ốc, phong cách Đại trượng phu(Mahapurisa)… dường như là những tiêu chí cố định để xác định đó là tượng Phật. Trong quá trình khai quật từ những di chỉ Phật giáo ở Mathura tại Ấn Độ hay Gandhara ở Pakistan, nhờ những đặc tướng riêng biệt này mà các nhà nghiên cứu mới có thể xác định được đâu là tượng Phật, đâu là tượng của các bậc Thánh.

Từ kinh nghiệm thực tiễn gần nhất là việc thể hiện tôn tượng Bồ-tát Thích Quảng Đức của UBND. Thành phố Hồ Chí Minh và Thành hội Phật giáo Thành phố Hồ Chí Minh vào năm 2007. Từ cuộc thi sáng tác mẫu tượng đài Bồ-tát Thích Quảng ĐứcHội đồng Nghệ thuật TP.HCM đã chọn được mẫu tượng đài của điêu khắc gia Võ Công Thắng và đã thực hiện thành công tại Công viên Bồ-tát Thích Quảng Đức, ở địa chỉ 72-74 đường Cách Mạng Tháng Tám, quận 3. Tượng đài đã được khánh thành vào ngày 18.9.2010.

Từ kinh nghiệm này, nên chăng chư tôn đức Ni trong Phân ban Ni giới Trung ương kết hợp với Viện Nghiên cứu Phật học Việt Nam, Trường Đại học Mỹ thuật TP. Hồ Chí Minh và những nhà họa sĩ, điêu khắc có tâm huyết với Phật giáo, đứng ra tổ chức một cuộc thi về tôn tượng Đại Ái Đạo Kiều-đàm-di (Mahāpajāpatī Gotami). Từ cơ sở đó, sẽ định hình nên những tiêu chí nghệ thuật đặc thù của tôn dung Đại Ái Đạo Kiều-đàm-di (大愛道憍曇彌, Mahāpajāpatī Gotami).

 Mặt khác, ngay như tên gọi của Di mẫuthể hiện trong những văn bản hành chánh và biểu ngữ lễ hội liên quan đến Di mẫucần phải ghi đầy đủ và thống nhất là Đại Ái Đạo Kiều-đàm-di (大愛道憍曇彌). Vì lẽ, nếu như chỉ ghi là Kiều-đàm-di (憍曇彌), tức chỉ mới đề cập đến họ của Di mẫu, vì trong thực tế có nhiều bậc tôn Ni trong dòng họ Thích cũng được ghi là Kiều-đàm-di (憍曇彌) như Xí-xá Kiều-đàm-di (翅舍憍曇彌)[10], Cát-ly-xá Cù-đàm-di (吉離舍瞿曇彌, Kisa Gotami Kisā-gotamī Kisā-gotamī Kisā-gotamī)[11], Sấu Cù-đàm-di (瘦瞿曇彌)[12]…

3. Kết luận


Tượng pháp, nhất là tượng pháp của những tôn giáo lớn là điều quan trọng, cao quý và thiêng liêngvà có tính thống nhất trong sự đa dạng. Đối với mỗi nghệ sĩ, tùy theo quan điểm nghệ thuật và năng lực của mình đã tạo nên những bức tượng tôn giáo với nét đẹp lay động lòng người. Tuy nhiên, trong sự đa dạng đó vẫn có những đặc điểm chung nhất, mang tính biểu trưng, tùy thuộc vào từng thể loại tượng pháp. Các bộ tượng pháp về Đức Phật Thích CaĐức Phật Di Đà, Bồ-tát Quán Thế ÂmTổ sư Đạt-ma… dù thể hiện trên nhiều chất liệu nhưng vẫn tuân thủ theo những quy cách vốn có để giới Phật giáo nói chung dễ dàng nhận diện.

Do vậy, đối với tôn tượng Đại Ái Đạo Kiều-đàm-di (大愛道憍曇彌), nếu như có sự quan tâm đúng mức ngay từ bây giờ của chư tôn đức hữu quan, tất sẽ tạo nên một mô thức có tính chuẩn mực về tượng pháp, không những cống hiến cho Ni giới Phật Việt Nam nói chung mà còn cho toàn thể Ni chúng trên toàn thể giới.



[1] Tam tạng Thánh điển Phật giáo Việt Nam, tập 9, Kinh Tiểu bộ, tập 5, Thánh nhân ký sự, Indacanda, dịch. NXB.Hồng Đức, 2021,  tr.555.

[2] Nguyên tác: Cù-đàm-di kinh 瞿曇彌經 (T.01. 0026.180. 0721c25-0722a04). Nguyên tác: 爾時,摩訶簸邏闍鉢提瞿曇彌持新金縷黃色衣往詣佛所,稽首佛足,却住一面,白曰:世尊!此新金縷黃色衣我自為世尊作,慈愍我故,願垂納受. 世尊告曰: 瞿曇彌! 持此衣施比丘眾,施比丘眾已,便供養我,亦供養眾.大生主瞿曇彌至再三白曰:世尊!此新金縷黃色衣我自為世尊作,慈愍我故,願垂納受.世尊亦至再三告曰:瞿曇彌!持此衣施比丘眾,施比丘眾已,便供養我,亦供養眾.  Tham chiếuPhân biệtbố thí kinh 分別布施經 (T.01. 0084. 903b23); M.142, Dakkhiṇāvibhaṅga Sutta (Kinh Phân biệt cúng dường).

[3] Tam tạng Thánh điển Phật giáo Việt Nam, tập 11, Hợp phần và Tập yếu, Indacanda dịch, NXB.Tổng Hợp TP.HCM. 2022, tr.903.

[4] Tam tạng Thánh điển Phật giáo Việt Nam, tập 9, Kinh Tiểu bộ, tập 5, Thánh nhân ký sự, Indacanda, dịch. NXB.Hồng Đức, 2021, tr.553. Nguyên tác Pāli: 319. “Sā vīsaṃvassasatikājātiyāhaṃ mahāmune, alamettāvatā vīra nibbāyissāmi nāyaka.”

[5] Theo, Nārada, Mahā Thera, Đức Phật và Phật pháp, Phạm Kim Khánh dịch, NXB.Tổng Hợp TP. HCM, 2019, tr.128.

[6] Du hành kinh 遊行經 (T.01. 0001.2. 0025a01).

[7] Tam tạng Thánh điển Phật giáo Việt nam, tập 3, Kinh Tương ưng bộ, HT.Thích Minh Châu dịch, NXB.Hồng Đức, 2020, tr.116.

[8] Tạp. 雜 (T.02. 0099.107. 033a06).

[9] Tạp. 雜 (T.02. 0099.978. 0253a26).

[10] Biệt Tạp, 別雜 (T.02. 0100. 216. 0454a18).

[11] Tạp, 雜 (T.02. 0099. 276).

[12] Đại bát niết-bàn kinh大般涅槃經 (T.12. 0375.24. 0764b12).

Send comment
Off
Telex
VNI
Your Name
Your email address
(View: 30)
Pháp Lục hòa là pháp được đức Đạo sư nói ra để dạy cho các đệ tử xuất gia của Ngài lấy đó làm nền tảng căn bản cho nếp sống cộng đồng Tăng đoàn
(View: 76)
Đây là bốn phạm trù tâm thức rộng lớn cao thượng không lường được phát sinh từ trong thiền định khi hành giả tu tập trong tự lợi và, lợi tha
(View: 70)
Nhân quả là một định luật tất yếu trong sự hình thành nhân sinh quan và vũ trụ quan qua liên hệ duyên khởi của cuộc sống con người
(View: 174)
Sự thành tựu tối thượng mà những vị đang đi trên con đường độc nhất tiến tới giác ngộ, là khả năng thành tựu tất cả từ hư vô.
(View: 140)
Phật pháp như thuốc hay, nhưng tùy theo căn bịnh.
(View: 173)
Pháp Duyên khởi, tiếng Phạn là Pratīya-samutpāda. Pratīya, là sự hướng đến. Nghĩa là cái này hướng đến cái kia và cái kia hướng đến cái này.
(View: 187)
Phẩm này tiếng Phạn Sadāparibhūta. Sadā là thường, mọi lúc, mọi thời gian; Paribhūta là không khinh thường.
(View: 241)
Ngày xưa, ở thành Xá-vệ có một vị trưởng giả giàu có, tiền tài châu báu vô lượng. Ông thường thứ tự thỉnh các vị sa-môn đến nhà cúng dường.
(View: 523)
Đối với chúng con, bạch Thế Tôn, các pháp lấy Thế Tôn làm căn bản, lấy Thế Tôn làm lãnh đạo, lấy Thế Tôn làm chỗ nương tựa.
(View: 445)
Truyền thống Đại thừa Á Đông thường dịch nghĩa prajñāpāramitā là Huệ đáo bỉ ngạn (zh. 慧到彼岸), Trí độ(zh. 智度), Trí huệ độ người sang bờ bên kia.
(View: 419)
Tin nhân quả làm chúng ta an tâm. Sự hợp lý, trật tự, ý nghĩa của một cuộc đời là do nhận thức được và sống theo nhân quả.
(View: 417)
Không có một chỗ nào để trụ trong giáo pháp Trung đạo. Tâm không có chỗ trụ thì không tự giải quyết được gì vì không có nơi để tập trung, nắm níu.
(View: 383)
Bài giảng hôm nay nói về luật Nghiệp Báo. Nhiều người không sinh ra trong gia đình Phật Giáo, nhưng đã tìm học về Phật Giáo nhờ nghe luật Nghiệp Báo;
(View: 334)
Kamma, Nghiệp, theo đúng nghĩa của danh từ, là hành động, hay việc làm. Định nghĩa cùng tột của Nghiệp là Tác ý (cetana).
(View: 435)
Đối với quỷ sứ, cung trời là địa ngục còn địa ngụcthiên đàng. Đối với thiên thần, cung trời là thiên đàng còn địa ngụcđịa ngục.
(View: 642)
Duyên Khởi hay còn gọi là Định luật Nhân Quả là một nội dung quan trọng bậc nhất trong giáo phápĐức Phật thuyết giảng.
(View: 466)
Là người sống ở thế gian, có ai tránh khỏi một đôi lần gặp bất trắc, tai ương lớn hay nhỏ.
(View: 449)
Hễ nói đến Giáo pháp của đức Phật, chúng takhông thể không nói đến pháp Duyên khởi hay nguyên lý Duyên khởi (Pratìtyasamutpàsa).
(View: 613)
Trong giáo lý của Đức Phật về duyên khởi(Paticca-samuppāda), vòng luân hồi của sinh tử, gọi là samsara, được mô tả như một quá trình
(View: 694)
Bài giảng hôm nay nói về luật Nghiệp Báo. Nhiều người không sinh ra trong gia đình Phật Giáo, nhưng đã tìm học về Phật Giáo nhờ nghe luật Nghiệp Báo;
(View: 492)
Ở đời có người quan niệm rằng, mình sống làm người, sau khi chết mình cũng sẽ tái sinh làm người ở một cõi nào đó, thậm chí có người còn nghĩ mình về sống dưới suối vàng.
(View: 581)
Từ vô ngã bùng nổ thành ngã, và rồi từ ngã bùng nổ giác ngộ trở về lại vô ngã. Cái “big bang Phật Giáo” này xảy ra trong từng sátna.
(View: 755)
Trong nhận thức của quốc vương Koravya, cũng như nhận thức của nhiều người, một người từ bỏ cuộc sống...
(View: 752)
Trong bài này sẽ nói về năm pháp: danh, tướng, phân biệt, chánh trí, như như, từ Kinh Nhập Lăng Già (Đại chánh tân tu Đại tạng kinh,
(View: 807)
Hổm nay chúng ta đã tìm hiểu bài Đại kinh Rừng Sừng Bò, sáu vị thánh nhân trình bày hình ảnh lý tưởng của vị tỳ kheo trí tuệđức hạnh,
(View: 680)
Các học giả tranh luận liệu những lời dạy của Đức Phật được lưu giữ trong kinh điển Pāli có thể được coi là triết học hay không,
(View: 999)
Ở đời không ai mong cầu giải thoát khi đang ở trong lầu son hạnh phúc. Người ta chỉ muốn được giải thoát khi bị nhốt trong hoàn cảnh bi đát nào đó.
(View: 822)
Chúng sinh tuy bình đẳng nhưng căn tính bất đồng. Bình đẳng trên chân lý không phải là mọi người ngang hàng bằng nhau.
(View: 789)
Đạo Phật là đạo giác ngộ, có nguồn gốc từ Ấn Độ, do Thái tử Tất Đạt Đa Cồ Đàm (Siddhārtha Gautama) hình thành và sáng lập.
(View: 766)
Hồi đó, khi Đức Phật cùng với Tăng đoàn du hóa tại nước Xá-vệ thì có rất nhiều người trẻ đã phát tâm đi tu. Tôn giả A-nan được giao trách nhiệm...
(View: 878)
Trí Tuệ Bát Nhã, thần thông quảng đại, nhận thức được thực tướng của vạn Pháp. Trí Tuệ (wisdom) bao gồm cả kiến thức bác học, kiến giác, chứng nghiệm, tâm lý, tâm linh...
(View: 779)
Tôi xin dùng lý luận khoa học cùng triết lý nhân văn để giải thích những điều tâm linh của Phật Giáo.
(View: 1215)
Hình ảnh Thầy Minh Tuệ xuất hiện trên các mạng xã hội y hệt như một trận bão truyền thông, làm dâng tràn những cảm xúcsuy tưởng.
(View: 823)
Hôm nay chúng ta bắt đầu nghiên cứu chương thứ hai, bàn về những sự thực hành kham khổ, tức là các phương pháp đầu đà.
(View: 853)
Như Lai được định nghĩa trực tiếp ba lần trong Kinh Kim Cương bát nhã ba la mật. Ba lần ấy được nói đến theo thứ tự như sau:
(View: 948)
Kinh Lăng-già tên gọi đầy đủ là Thể Nhập Chánh PhápLăng-già, cuối chương १० सगाथकम्। (10-sagāthakam), biên tập bởi Nanjō Bunyū 南條文雄 (laṅkāvatāra sūtra, kyoto, 1923)
(View: 1119)
Bước đầu tiên để bước vào con đường Phật giáoquy y Tam Bảo, và viên ngọc đầu tiên trong ba viên ngọc mà chúng ta tiếp cận để quy yĐức Phật, Đấng Giác Ngộ.
(View: 945)
Đạo Phật là đạo của bi trí dũng. Đạo của trí tuệ, của chánh biến tri, và chánh tri kiến chứ không phải không thấy mà tin tưởng mù quáng.
(View: 835)
Phân biệt phước đức và công đứccần thiết cho việc học và hành đạo Phật.
(View: 920)
Sơ quả hay Tu-đà-hoàn là quả vị Thánh đầu tiên mà người Phật tử có thể chứng đạt ngay hiện đời.
(View: 887)
Cuộc đời và công việc của Bồ tát được nói trong phần cuối đoạn Đồng tử Thiện Tài gặp đức Di Lặc.
(View: 981)
Trong khi các tín ngưỡng về nghiệp và tái sinhphổ biến vào thời của Đức Phật,
(View: 1131)
Đây là ba phạm trù nghĩa lý đặc trưng để bảo chứng nhận diện ra những lời dạy của đức Đạo sư một cách chính xác mà không
(View: 1202)
Đi vào Pháp giới Hoa nghiêmđi vào bằng bồ đề tâm thanh tịnh và được cụ thể hóa bằng nguyện và hạnh.
(View: 891)
Nhị đế là từ được qui kết từ các Thánh đế (āryasatayā) qua nhân quả Khổ-Tập gọi là Tục đế
(View: 987)
Quí vị không giữ giới luật có thể không làm hại người khác, nhưng thương tổn tự tánh cuả chính mình.
(View: 1082)
Lầu các của Đức Di Lặc tượng trưng cho toàn bộ pháp giới của Phật Tỳ Lô Giá Na; lầu các ấy có tên là Tỳ Lô Giá Na Đại Trang Nghiêm.
(View: 1356)
Trong kinh Duy Thức thuộc tạng kinh phát triển, để chỉ cho sự huân tập thành khối nghiệp lực (A Lại Da Thức và Mạc Na Thức,)
(View: 1052)
Tín ngưỡng Dược Sư với đại diệnthế giới Lưu ly nằm ở phương Đông mà nó tương tự với các cõi Tịnh độ khác, đều dùng việc
(View: 1144)
Hai câu hỏi hiện lên trong đầu tôi khi nghĩ về giáo lý vô thường liên quan đến cuộc đời tôi.
(View: 1355)
Lôgic học là một ngành học có mục đích xác định các quy tắc vận hành của tư duy để tìm kiếm sự thực.
(View: 1214)
Trong quá trình hình thành và phát triển xã hội, con người luôn khát khao tìm cầu hạnh phúc, thỏa mãn nhu cầu về vật chấttinh thần.
(View: 1189)
Tuệ là trí tuệ tức cái biết, thức là nhận thức cũng là cái biết. Cả hai đều là cái biết nhưng có đặc điểm khác nhau.
(View: 1364)
Khái niệm Niết-bàn vốn thành hình cách đây hơn 2500 năm. Các học giả và các triết gia khác nhau
(View: 1509)
Ở trên là hai câu đầu trong bài kệ Lục Tổ Huệ Năng khai thị nhân bài kệ của thiền sư Ngọa Luân. Câu chuyện được thuật lại trong Pháp Bảo Đàn Kinh, phẩm Cơ Duyên thứ 7.
(View: 1819)
Chữ “Tăng đoàn” là một thuật ngữ tiếng Phạn, có nghĩa là “cộng đồng” và được sử dụng chủ yếu để chỉ những tín đồ đã xuất gia của Đức Phật,
(View: 1655)
Tóm tắt: Phật giáotôn giáo được biết đến như một hệ thống triết học mang đậm chất tư duy, trí tuệ cùng giá trị đạo đức cao.
(View: 1547)
Mỗi người hiểu về nghiệp theo mỗi kiểu khác nhau tùy vào nhận thức và trải nghiệm bản thân, nhưng phần lớn vẫn chịu ảnh hưởng của cách hiểu trong dân gian về khái niệm của từ này.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM