Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Bố thí không bị năm nhà cuốn trôi

21 Tháng Giêng 201100:00(Xem: 10660)
Bố thí không bị năm nhà cuốn trôi


BỐ THÍ KHÔNG BỊ NĂM NHÀ CUỐN TRÔI


Người thường xuyên thực hành bố thí, cúng dường, giúp đỡ, chia sẻ tạo nên những nhân tốt lành sẽ hưởng được quả báo tốt, đồng thời tránh khỏi các ách nạn bị năm nhà cuốn trôi, đó là:

- Nhà lũ lụt.

- Nhà hỏa hoạn

- Nhà trộm cướp

- Nhà vua quan tịch thu

- Nhà con cái bất hiếu, phá hoại.

1- Nhà lũ lụt:

Chiến tranh, thiên tai, sóng thần, động đất, lũ lụt thường xảy ra trên thế gian này. Nó cướp đi tài sản, của cải vật chất của con người, có khi cả đời người làm lụng cật lực, vất vả, chắt chiu, dành dụm được số tài sản nào đó, qua một cơn thiên tai hay chiến sự là tiêu tan không còn gì cả. Thậm chí có người đến sáu, bảy mươi tuổi mới tạo được ngôi nhà, sắm soạn được một ít vật dụng, một ít của tiền để dành lo an dưỡng tuổi già. Thế mà qua một trận thiên tai, trong nháy mắt đã trở thành trắng tay.

Chúng ta thấy trên đời này có biết bao sự bất ngờ gây nên mất mát đau thương cho con ngườiLý do vì sao? Không gì khác hơn là “nhân quả.” Bởi chúng ta trong nhiều đời, nhiều kiếp đã gây tạo quá nhiều tội lỗi, ví như của cải vật chất ta tạo ra không phải bằng chính sức lực, mồ hôi và hành vi chân chánh của mình, mà ta dùng thủ đoạn để lường gạt, trộm cướp hay bóc lột người khác tạo nên. Vì vậy, đời nay tài sản của ta tuy có nhiều, nhưng phước lực không có, nên chúng không tồn tại với ta lâu dài, mà chúng đi theo các nghiệp nhân xấu của mình gây ra.

 Do đó, chúng ta cần phải biết nhân nào dẫn đến giàu có, được nhiều của cải vật chất, được hưởng đầy đủ phúc lạc thế gian mà không bị năm nhà cuốn trôi.

Chúng ta thấy ở Việt Nam, năm nào cũng bị lũ lụt, nhất là miền Trung và miền Bắc gây biết bao cảnh khổ cho con người, nhưng cùng trong tình huống, có người bị mất mát nhiều, có người mất mát ít, có người vẫn an toàn không hư hao gì cả, người bị mất của, kẻ mất mạng sống v.v…Trong sự mất mát đau thương ấy, nếu ta cứ cho là số trời đã định, không cưỡng lại được thì thật là không đúng. Chúng ta phải tìm hiểu nguyên nhân tại sao có sự sai biệt như thế? Có thể nói ông Trời ở đây là chỉ cho luật nhân quả đang vận hành theo chu kỳ nhân duyên tác động đến nhân xấu mà ta đã làm trong quá khứ “gieo nhân gặt quả.” Hiểu được quy luật này, chúng ta sẽ có phương pháp chuyển hóa, thay đổi được nó. Chúng ta không than trời, trách đất hay oán hận, đổ thừa cho số phận gì cả, mà chúng ta phải tạo tác những hành động thiện lành, tạo nên những nhân tốt ngay từ bây giờ, đồng thời dùng sự hiểu biết chân chánh tạo nên cơ hội cải tạo đời sống hiện tại cho được tốt hơn.

2- Nhà hỏa hoạn:

Hỏa hoạn là tai họa thường do con người gây ra, nhưng sự thiệt hại của nó cũng thật khủng khiếp, khó lường. Chúng ta thấy nhiều gia đình tiêu tan sự nghiệp hay vong mạng chỉ vì cơn phẫn nộ của ngọn lửa vô tình, cả đời làm lụng vất vả tạo nhà, tạo xe, sắm sửa các thứ vật dụng sang trọng, đắt tiền trong gia đình, nhưng chỉ trong một vài giờ hỏa hoạn là trắng tay. Có khi tai họa này do mình gây ra, có khi do sự bất cẩn của nhà hàng xóm gây ra thảm cảnh cho nhiều gia đình một lúc.

3- Nhà trộm cướp:

Gọi là nhà trộm cướp là theo cách sắp xếp cho đủ năm nhà, chứ cho chính xác thì gọi là nạn trộm cướp. Đây là tai nạn xảy ra thường xuyên với con người và nạn này là do người này gây cho người kia. Nếu quý vị nào có đọc báo thì ngày nào, đêm nào cũng có trộm cướp xảy ra nơi này, nơi khác. Từ thành thị đến thôn quê đâu đâu cũng có xảy ra nạn này.

Nói cho rõ về trộm cướp là người làm lụng tạo ra của cải, tài sản bị người khác chiếm đoạt làm của mình. Trộm là lén lấy không cho người chủ sở hữu hay biết. Cướp là dùng sức mạnh ép buộc chủ sợ hữu phải giao nộp tài sản hay dùng vũ lực tiêu diệt chủ sở hữu để chiếm đoạt. Tuy hai cách thức trộm và cướp có khác nhau, nhưng cả hai hành vi đều có mục đích chung là chiếm đoạt của người. Hai hành động này là vi phạm luật pháp, vi phạm đạo đức làm người, trái với lẽ thường tình trong đời sống xã hội loài người, nên đều bị xã hội lên án. Mặc dầu hành vi này bị xã hội lên án gay gắt, luật pháp trừng trị không nới tay, nhưng nó vẫn cứ xảy ra.

Có người sau khi bị trộm cướp lấy đi thì tìm lại được, có người thì không. Vì sao chúng ta lại lâm vào hoàn cảnh như thế? Theo tuệ giác của Như Lai Thế Tôn, tất cả mọi trường hợp xảy ra đều có nguyên nhân sâu xa của nó, không có gì bỗng dưng, khi không, ngẫu nhiên mà xảy ra.

Nguyên nhân thứ nhất là do lòng tham của con người vì hưởng thụ quá mức, sống lười biếng hoặc do nghiện ngập đủ thứ nên làm liều để có tiền tiêu xài.

Nguyên nhân thứ hai là người có tài sản đã gieo nhân trộm cướp, lường gạt, bóc lột, làm những điều phi pháp giành lấy của cải về mình trong đời trước hoặc đời hiện tại, quả báo ấy dẫn đến việc ngày nay bị trộm cướp.

Nguyên nhân sâu xa muốn nói ở đây là “nhân nào quả nấy.” Người trong quá khứ do tham lam đã làm nhiều điều bất thiện, gây đau khổ cho người về phương diện vật chất. Cái nhân tham lam, bất thiện ấy dẫn đến ngày nay tài sản của mình bị lòng tham của kẻ khác dòm ngó, để ý. Họ tìm cách chiếm đoạt tài sản mình bằng nhiều hình thức, tùy theo mức độ của nhân xấu mình đã gieo mà tương ưng cho cách thức và mức độ tài sản của mình bị trộm cướp.

Vì vậy, người ăn lành, ở hiền, chăm làm phước đức sẽ tránh được tai họa của nhà trộm cướp này xảy đến cho mình.

4- Nhà vua quan tịch thu:

Thời phong kiến xưa, vua chúa làm chủ trị vì thiên hạ, mọi quyền hành tập trung vào nhà vua. Vì vậy, người nào phạm tội, vua muốn xử tội thế nào là cấp dưới phải thi hành thế ấy. Theo quan niệm thời ấy, vua là Thiên tử (con trời) thay trời trị vì muôn dân. Từ đó, vua muốn làm gì thì làm, trong triều không ai dám ngăn cản. Khi xét xử quan lại hay dân chúng tham ô gian dối hay nghi ngờ làm tổn hại đến triều đình, vua đứng ra xét xử tùy theo tội mà phán, có nhiều hình phạt rất khắc nghiệt như “tru di tam tộc” (giết sạch ba họ, nội, ngoại và vợ) tru di cửu tộc (giết sạch chín họ) hay tịch thu hết sạch tài sản rồi đày đi nơi hoang vắng xa xôi tự kiếm sống… để trừ hậu hoạ. Tất cả những điều này đến với ai cũng đều do nhân quả nghiệp báo xấu từ trước mà ra. Thấu rõ chỗ này, chúng ta phải ăn ở hiền lành, làm việc phước đức mới mong thoát khỏi bị nạn này.

Ngày nay tuy không còn chế độ phong kiến do vua đứng đầu toàn quyền phán xử, nhưng luật pháp hiện hành vẫn có những điều khoản, khung hình phạt rất nghiêm, rất nặng như án tử hình, tù chung thân hay tịch biên tài sản v.v… Có người không phạm tội, nhưng do tang chứng, vật chứng không thể chối cải, thanh minh không được “tình ngay lý gian” nên phải chịu tội oan. Những trường hợp bị oan nghiệt như vậy là do quả báo nghiệp xấu người ấy đã gây tạo trong kiếp trước, nay mới hội đủ nhân duyên trổ ra.

5- Nhà con cái bất hiếu phá sản:

cha mẹ, ai cũng đều thương con cái của mình, lúc nào cũng muốn cho con được sung túc, đầy đủ, no ấm. Cha mẹ luôn luôn sẵn sàng dang tay đùm bọc, chở che con cái, thậm chí đôi lúc phải làm việc bất thiện để bảo hộ cho con.

Nhiều ông cha, bà mẹ vì muốn cho con được no đủ, nên phải làm lụng đầu tắt mặt tối ít có dịp tiếp xúc dạy dỗ con cái. Vì quá bận bịu lo kinh doanh, buôn bán, tạo ra của cải, để con cái buông lung muốn gì làm nấy, cung cấp tiền bạc không cần tìm hiểu nguyên do. Từ đó, tạo cho con cái tính ỷ lại vào cha mẹ, sự nghiệp gia đình, không lo tu thân, học hành, mặc tình ăn chơi trác táng, sa đọa, kết bè kết bạn với người xấu ác, rồi rơi vào tình trạng nghiện ngập, hút chích…

Chúng ta thấy không ít gia đình, cha mẹ làm lụng vất vả cả đời, chỉ vì thương con mà trong phút chốc bị tan nhà, nát cửa, phải chịu cảnh khổ đau, nghèo đói.

Chúng tôi biết một bà mẹ nọ có hai đứa con trai, bà tuy lớn tuổi nhưng còn nhan sắc xinh đẹp, kiều diễm. Bà cặp bồ với những ông nhà giàu lớn tuổi, rồi lường gạt lấy tiền đem về cung cấp cho hai đứa con. Hai đứa con trai của bà rất ngỗ nghịch, không chịu học hành hay làm ăn gì cả, mà chỉ chờ mẹ đem tiền về tiêu xài mà thôi. Vì không công, rỗi việc, nên chúng thường giao du với đám bạn bè xấu, cuối cùng hai đứa đều sa vào con đường nghiện ngập, hút chích xì ke. Từ đó số tiền chúng cần để chi tiêu mỗi ngày một nhiều hơn. Vì thương con bà tìm đủ phương cách để lường gạt nhân tình của mình đem về chu cấp.

Đến lúc hai đứa bị công an bắt đưa vào trung tâm cai nghiện, thay vì khuyên giải con mình từ bỏ tệ nạn, bà lại lo sợ các con thiếu ma túy bị cơn nghiện hành hạ không chịu nỗi. Bà tìm môi giới, móc ngoặc với cán bộ quản lý trung tâm tiếp tế ma túy để các con sử dụng. Kết quả một đứa bị chết trong trại cai nghiện do dùng thuốc quá liều từ lượng thuốc bà chuyển vào để chúng dùng nhiều ngày. Và chỉ trong chưa đầy hai năm, bà đã phải bán hết nhà cửa, còn nợ nần nhiều người. Cuối cùng bà phải ở nhà mướn.

Vì thương con một cách mù quáng bà phải chịu cảnh tan nhà nát cửa, sống đời bần cùng, người thân không ai dám giúp vì sợ liên lụy.

Làm mẹ cha ai chẳng thương con? Nhưng chúng ta phải thương con như thế nào cho đúng cách để giúp chúng được trưởng thành. Đừng thương con theo kiểu bà mẹ ấy thì thật nguy hiểm cho con, cho mẹ, cho cả gia đìnhxã hội. Chúng ta phải dạy con cái biết giá trị của cuộc sống bằng tinh thần tự lập, không ỷ lại vào gia đình, đặc biệt cần dạy con cái biết nhận thức đúng đắn về nhân quả, nghiệp báo để tạo cho chúng cuộc sống có giá trị, ý nghĩahạnh phúc lâu dài

Để minh họa thêm cho nhà con cái bất hiếu, phá sản, chúng ta cùng nghe câu chuyện nhân gian sau đây:

Trong một làng nọ, nhà ông Nghèo và nhà ông Giàu ở gần nhau. Ông Giàu là một điền chủ khá giả nhất trong làng. Còn ông Nghèo là người làm mướn cho gia đình ông Giàu, nhưng đam mê uống rượu, đánh bài nên tháng nào ông cũng thiếu nợ ông Giàu. Vì vậy ông Nghèo làm mướn cho nhà ông Giàu quanh năm mà nợ vẫn còn. Rồi một ngày chiến tranh xảy ra, làng của hai ông chẳng may rơi vào vùng chiến sự, cả hai ông không thoát kịp nên bị mất mạng khi hai bên giao chiến ác liệt.

Sau khi chết, linh hồn hai ông đều xuống âm phủ chờ Diêm Vương xét xử. Để việc xét xử cho công bằng, Diêm Vương yêu cầu thuộc hạ cung cấp hồ sơ đầy đủ về mọi hoạt động của hai ông trên trần gian.

Ngày xét xử, Diêm Vương cho gọi hai vong hồn đến và phán rằng:

- Ta thấy trên trần gian Nghèo tuy làm lụng vất vả quanh năm, khổ nhọc thật đấy, nhưng phải tội đam mê cờ bạc và nghiện rượu nên xuống đây mà vẫn còn nợ của Giàu. Để thanh toán món nợ này, ta cho hai ngươi được đầu thai trở lại làm người trong một gia đình làm hai cha con với nhau. Vì Nghèo thiếu nợ Giàu nhiều, bây giờ ta cho Giàu làm cha của Nghèo để bắt Nghèo nuôi nấng mà trả nợ.

Nghe Diêm Vương phán vậy, Giàu không chịu, van xin Diêm Vương xét lại. Diêm chúa lại phán:

- Vậy thì ta cho ngươi đầu thai về Trần làm mẹ của Nghèo được không?

 Giàu cũng không chịu, Diêm Vương hỏi:

 - Vậy ngươi muốn như thế nào?

 Giàu trả lời một câu chắc nịch:

 - Dạ, thưa Diêm Vương, con muốn làm con của Nghèo.

Nghe vậy, Diêm Vương hỏi:

- Tại sao ngươi muốn làm con của Nghèo?

- Thưa Ngài, bởi vì làm con là sướng nhất, lúc ấy con tha hồ đòi nợ, con đòi đủ thứ, đòi nợ công khai, đỏi thứ gì Nghèo cũng phải chìu không dám trái ý...

Chúng ta thấy cha mẹ lo cho con thế nào? Có phải là nợ phải trả hay không? Lúc nhỏ thì bên ướt mẹ nằm, bên ráo con lăn, cha mẹ phải lo cho con uống ăn đầy đủ, mỗi khi trái gió trở trời con đau là mẹ đứng ngồi không yên, phải thức suốt đêm lo lắng, chăm sóc không dám than phiền. Lớn lên một chút là phải lo cho ăn học, dù tốn kém bao nhiêu cha mẹ cũng nai lưng ra làm, dù nợ nần cũng cắn răng chịu đựng. Rồi lo công ăn việc làm, dựng vợ gã chồng cho nên bề gia thất, phân chia tài sản cho con … Như vậy có phải là cha mẹ trả nợ cho con không? Trả cho đến khi nào hết nợ mới thôi. Lỡ như kiếp này trả chưa hết thì kiếp sau đầu thai lại trả tiếp.

Câu chuyện trên cho ta một bài học lý thú về trả món nợ đời. Những người nợ nần với nhau kiếp này chưa thanh trả cho nhau, kiếp sau dễ làm cha mẹ con cái của nhau để đòi, để trả với nhau. Muốn đòi được món nợ tiền khiên, tốt nhất là đầu thai làm con đòi nợ. Vì cha mẹ nào cũng thương con, do tình máu mủ ruột rà luyến ái nên cha mẹ chẳng bao giờ bỏ con, chỉ có con bỏ cha mẹ mà thôi. Vì vậy, những người cùng gia đình, họ hàng thân thuộc thương yêu nhau hay gây khổ đau cho nhau đều là oan gia trái chủ của nhau cả.

Đây chỉ là một khía cạnh trong vấn đề nhân quả mà thôi, chứ thực ra được sinh ra làm người trong một gia đình với nhau phần lớn là do phước đức mà thành. Bởi vì chúng ta thấy cha mẹ nào cũng thương yêu con cái mà lo tròn bổn phận, trách nhiệm, thấy con cái mạnh khỏe, thành đạt lấy làm hạnh phúc, vả lại con cái nào cũng biết thương yêu, hiếu thảo với ông bà cha mẹ. Rất ít gia đình con cái bất hiếu phá sản không biết đạo lý làm người mới rơi vào nạn nhà thứ 5 này mà thôi.


Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 2844)
Vấn đề thế giới địa ngụcvấn đề rất nhiều nghi vấn, những người theo đạo Phật thì tin có thế giới địa ngục, những người không theo đạo Phật thì không tin có thế giới địa ngục và có một hạng người thì nửa tin nửa ngờ.
(Xem: 3290)
Vấn đề tụng niệm một số người không nắm được giá trịnghĩa lý của nó nên có thái độ khinh thường, xem nhẹ, không quan tâm, không chú trọng cho việc làm này...
(Xem: 4676)
Phật tại thế thời ngã trầm luân, Kim đắc nhân thân Phật diệt độ, Áo não tự thân đa nghiệp chướng, Bất kiến Như Lai kim sắc thân.
(Xem: 3546)
Có những bài tán nghe qua là hiểu liền nội dung; nhưng cũng có những bài tán rất khó hiểu, không biết lý do vì sao? Trong đó có bài tán “Chiên Đàn” là một.
(Xem: 7388)
“Thừa Tự”, theo quan niệm phong kiến xưa, có nghĩa là thọ hưởng của “hương hỏa” với trách nhiệm nối dõi việc thờ cúng Tổ tiên.
(Xem: 4557)
Nhà nghiên cứu phật học K.SCHMIDT1 đã có lần nêu lên những điểm tương đồng giữa tri thức luận của Kant và của Phật học,
(Xem: 4607)
Theo đức Phật, vũ trụ không có khởi nguyên, không có tận cùng và khoảng không vũ trụ vốn vô tận, gồm vô số thế giới như cát sông Hằng (Gangânadivâlukopama).
(Xem: 7430)
Phàm tất cả vạn pháp, vạn hữu trong vũ trụ được sanh ra và có mặt trên thế gian này đều có nguyên nhân, nguyên do đầu mối của nó.
(Xem: 3019)
Chữ khám phá ở đây rất chính xác. Không có sự truyền giáo của đạo Phật đến người Tây phương. Và, tuy người Âu châu khám phá đạo Phật rất trễ, nhưng đó là sự khám phá vô cùng lý thú.
(Xem: 12348)
“Nói Thiền tông Việt Nam là nói Phật giáo Việt Nam. Và những bậc cao Tăng làm sáng cho Phật giáo, làm lợi ích cho dân tộc từ thế kỷ thứ 6 mãi đến nay đều là các Thiền sư.”
(Xem: 4033)
“Nguyên nhân hình thành Phật giáo Đại Thừa” là một đề tài có phạm trù không rộng lắm, nên ít có người khảo sát và nguồn tư liệu về nó cũng rất hạn chế.
(Xem: 3849)
Những gợi ý dưới đây có thể giúp chúng ta lĩnh hội được ý nghĩa thâm sâu, khó hiểu của kinh một cách hiệu quả, đồng thời giữ gìn sự trung thực với nội dung của ý kinh.
(Xem: 4276)
Giải thoát nghĩa là cởi mở những dây ràng buộc mình vào một hoàn cảnh đau khổ nghịch ý.
(Xem: 3737)
Trong hệ thống kinh tạng Đại thừa, Pháp Hoa là một trong những bộ kinh quan trọng và phổ biến nhất.
(Xem: 5111)
Niết-bàn (Nirvana, Nibbana) là khái niệm của Phật giáo, một tôn giáo không công nhận và không thừa nhậnThượng Đế, có thần, có linh hồn trường cửu.
(Xem: 6772)
Bài này sẽ khảo sát một số khái niệm về các hiện tướng của tâm, dựa theo lời dạy của Đức Phật và chư Tổ sư
(Xem: 4053)
Tôi ngồi đây lắng nghe quý thầy cô tụng bài kinh Bát Nhã thật hay. Ví như ngài Huyền Trang ngày xưa tuyển dịch nhiều bài Tâm kinh như thế này để ...
(Xem: 4177)
Như Lai ngài đã du hành Đạo lộ tối thắng vượt trên các ca tụng Nhưng với tâm tôn kínhhoan hỷ Tôi sẽ ca tụng Đấng vượt trên ca tụng.
(Xem: 5388)
Quy nghĩa là “quay về, trở về” hay “hồi chuyển (tâm ý)”. Y là “nương tựa”. Quy Y cũng có nghĩa là “Kính vâng” hay “Phục tùng”. Tam là chỉ ba ngôi Phật, Pháp, Tăng.
(Xem: 3828)
Đức Phật Thích Ca Mâu Ni vốn là Thái tử “dưới một người, trên vạn người”, thế nhưng Ngài đã lìa xa tất cả
(Xem: 4578)
Từ xưa đến nay, hàng xuất gia (Sa-môn, Bà-la-môn) tu hành không trực tiếp lao động sản xuất để tạo ra của cải vật chất nên đời sống phụ thuộc vào sự bố thí, cung cấp, cúng dường của hàng tín đồ tại gia.
(Xem: 3585)
Sống chếtvấn đề lớn nhất của đời người. Trong đạo Phật, chữ sanh tử (sống chết) là một từ được nhắc đến thuộc loại nhiều nhất
(Xem: 3966)
Kinh Kim Cang Bát Nhã được ngài Cưu Ma La Thập (344-413) dịch từ tiếng Phạn sang Hán văn, và được thái tử Chiêu Minh (499-529) chia bố cục ra 32 chương.
(Xem: 4433)
Đức Phật xuất hiện trên thế gian như mặt trời phá tan màn đêm u tối. Giáo pháp của Ngài đã mang lại những giá trị phổ quát cho...
(Xem: 5437)
Khái niệm Niết-Bàn không phải là sản phẩm bắt nguồn từ Phật Giáo, mà nó đã xuất hiện từ thời cổ đại Ấn Độ khoảng hơn 4,000 năm trước Tây Lịch.
(Xem: 3878)
Quán Thế Âm tiếng Sanskrit là Avalokitésvara. Thuật ngữ Avalokitésvara vốn bắt nguồn từ hai chữ Avalokita và isvara
(Xem: 3976)
Trong khi thế giới đang có nhiều biến động phức tạp, chiến tranh, khủng bố, thù hận diễn ra khắp nơi, mâu thuẩn chính trị, kinh tế, và văn hóa luôn là vấn đề nan giải.
(Xem: 3905)
Trong cõi đời, chúng ta phải chịu đựng những sự đau đớn, khổ não nơi thân và tâm, nhưng tâm bệnh có thể được chữa khỏi bằng Phật pháp.
(Xem: 4861)
Thiên Trúc (天竺) là tên mà người Trung Quốc thường gọi cho Ấn Độ cổ đại. Nó cũng được dịch “Trung tâm của cõi trời”, (nghĩa là trung tâm tinh thần);
(Xem: 4555)
Thông thường hai chữ tu hành đi đôi với nhau; sử dụng quá quen nên hiểu một cách chung chung, đã giảm tầm mức quan trọng mà tự thân nó mang một ý nghĩa sâu sắc.
(Xem: 4311)
Đã hơn 2500 năm kể từ khi Đức Phật Thích Ca đã nhập Niết Bàn. Hiện tại chúng ta sống trong thời đại gọi là “Mạt Pháp”, trong đó ta không thể nào thấy Đức Phật thực sự được nữa.
(Xem: 3881)
Pháp thân của chư Phật, là muốn nhấn mạnh đến loại pháp thân không còn ẩn tàng trong thân ngũ uẩn như pháp thân của chúng sinh.
(Xem: 4683)
Giáo lý Tam thân (trikāya), như đã được tất cả các tông phái Phật giáo Đại thừaTrung QuốcNhật Bản chấp nhận hiện nay
(Xem: 4247)
Ngày xưa chúng đệ tử của Đức Phật có nhiều hạng người khác nhau. Tùy theo căn cơ của mỗi người, Đức Phật áp dụng phương pháp giáo hóa khác nhau.
(Xem: 6157)
Ngày nay, chúng ta thấy hầu hết các ảnh, tượng của Đức Phật Thích Ca Mâu Ni đều được tạo hình có tóc, điều này khiến
(Xem: 4643)
“Chiếc đồng hồ của tôi không đánh số 1 đến 12 mà chỉ có ‘now’, ‘now’, ‘now’ để nhắc nhở rằng ta đang sống”,
(Xem: 4994)
Trong tác phẩm Jataka, truyện số 238 đã đề cập về chuyện một chữ (ekapadaṃ) nhưng có nhiều nghĩa (anekatthapadassitaṃ).
(Xem: 4234)
Về tiểu sửcông nghiệp của Huyền Trang (602-664) chúng ta đã có phần viết riêng trong phần phụ lục của sách Kinh Phật
(Xem: 4876)
Đã sanh làm kiếp con người, có ai mà không khổ? Cái khổ nó theo mình từ nhỏ đến khi khôn lớn, và sẽ khổ hoài cho tới...
(Xem: 5725)
Khi Bồ-tát Long Thọ nói “bất sanh bất diệt” thì hẳn nhiên trước đó phải có cái gì đó có sanh và diệt.
(Xem: 3709)
Trong nghĩa đơn giản nhất, tu Hạnh Bồ Tát là những người ra sức hoằng pháp và không muốn Chánh pháp bị đoạn đứt, bất kể người này có thọ giới Bồ Tát hay không.
(Xem: 4087)
Bài viết này sẽ khảo sát về Vô Tướng Tam Muội, một pháp môn ít được chú ý hiện nay.
(Xem: 4625)
Cứ mỗi lần chúng ta chứng kiến người thân qua đời là mỗi lần chúng ta đau xót, buồn rầu, vì từ nay chúng ta vĩnh viễn sẽ không bao giờ được nhìn thấy người thân yêu đó trên cõi đời này nữa.
(Xem: 5321)
Như các phần trước đã nói, chân tâm không sinh diệt và vọng tâm sinh diệt luôn tồn tại nơi mỗi con người chúng ta.
(Xem: 3163)
Thiền học là một môn học nhằm mục đích đào luyện trí tuệ để được giác ngộgiải thoát sanh tử mong đạt đến niết bàn tịch tịnh
(Xem: 4807)
Khi đức Phật đản sinh, trên trời có chín rồng phun hai dòng nước ấm mát tắm rửa cho Ngài
(Xem: 4588)
Mỗi độ tháng Tư về, trong tâm thức của những người con Phật đều hiển hiện hình ảnh huy hoàng Phật đản sinh bước đi trên bảy đóa sen
(Xem: 4322)
Phật giáo Đại thừa có cách nhìn nhận mới về đức Phật và lời dạy của ngài.
(Xem: 4772)
Đức Phật Thích Ca là một đức Phật lịch sử xuất hiện giữa thế gian để dẫn dắt chúng sinh thoát khỏi khổ đau, đạt đến an lạc giải thoát.
(Xem: 4549)
Con người được sanh ra từ đâu là một nghi vấn vô cùng nan giải cho tất cả mọi giới và mãi cho đến thế kỷ 21 này vấn đề con người vẫn còn phức tạp chưa được ai minh chứng cụ thể.
(Xem: 4630)
Kinh Pháp Cú dành riêng hẳn một phẩm gọi là “Phẩm Tỳ kheo” để đề cập tới các người xuất gia.
(Xem: 7283)
Cuộc sống biến đổi không ngừng, mỗi một thời gian, mỗi một thế hệ có cách sống và nghĩ suy ứng xử có khác nhau.
(Xem: 5253)
Trước hết, thời gian vật lý là khách quan và tồn tại bên ngoài tâm trí con người và là một phần của thế giới tự nhiên, thứ hai, thời gian tâm lý chủ quan và có sự tồn tại phụ thuộc vào ý thức.
(Xem: 5037)
Hôm nay nhân ngày đầu năm, tôi có vài điều nhắc nhở tất cả Tăng Ni, Phật tử nghe hiểu ráng ứng dụng tu để xứng đáng với sở nguyện của mình.
(Xem: 4632)
Huyễn: Có nhiều nghĩa như tạm bợ, hư dối, phù du, huyễn hoặc, ảo ảnh, thay đổi luôn luôn, có đó rồi mất đó, biến dịch hoài trong từng sát-na.
(Xem: 5666)
Ngạ quỷ nghe kinh là một trong những đề tài khá quen thuộc trong kinh Phật. Người phàm thì không ai thấy loài ngạ quỷ, trừ một vài trường hợp đặc biệt.
(Xem: 5314)
Từ thế kỷ trước, người ta đã tìm được rải rác các thủ cảo (manuscripts) kinh Phật cổ xưa nhất viết bằng văn tự Kharosthi chôn ở các di tích Phật giáo ở Gandhāra, Bắc Afghanistan.
(Xem: 4201)
Thư Viện Quốc Hội Mỹ đã công bố một văn bản quí hiếm từ 2.000 năm trước của Phật Giáo và văn bản cổ này đã giúp cho chúng ta ...
(Xem: 6060)
Giới, Định và Tuệ là ba môn tu học quan trọng trong Phật giáo. Ta thường hay nói “Nhân Giới sanh Định, nhân Định phát Tuệ”.
(Xem: 4759)
Trước hết xin giới thiệu sơ lược những nét chính của hai bộ kinh Đại thừa lớn ở Ấn Độ mà chúng đã trở nên đặc biệt quan trọng trong Phật Giáo Đông Á.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant