Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Chi tiết linh diệu nơi ngày Ðản sinh của Phật theo các kinh thuộc Hán tạng

13 Tháng Năm 201100:00(Xem: 11422)
Chi tiết linh diệu nơi ngày Ðản sinh của Phật theo các kinh thuộc Hán tạng

 

Ngày Ðản sinh của Ðức Phật Thích Ca Mâu Ni là một sự kiện vĩ đại vào loại bậc nhất trong lịch sử xã hội loài người. Ðối với giới Phật tử, sự kiện lớn lao ấy còn mang đậm tinh chất kỳ vĩ, linh diệu. Vì như thế, việc các kinh điển thuộc hệ Nam truyền, nhất là hệ Bắc truyền viết về lịch sử Ðức Phật đã nói nhiều đến khía cạnh linh diệu, cũng là chuyện bình thường, hợp lẽ. Nhân mùa Phật Ðản, chúng tôi xin bàn qua chi tiết linh diệu trong ngày Ðản sinh của Ðức Bổn Sư, theo các kinh thuộc Hán tạng. Ðó là chi tiết: Thái tử vừa mới sinh ra, đã tự bước đi 7 bước, một tay chỉ lên trời, một tay chỉ xuống đất, với câu nói mà nhiều người đã biết.

1. Kinh No184: Kinh Tu Hành Bản Khởi

Do 2 Ðại sư Trúc Ðại Lực và Khang Mạnh Tường dịch vào đời Hậu Hán (25-220), gồm 2 quyển.

Về chi tiết linh diệu kể trên, kinh viết: "Hành thất bộ, cử thủ tục nhi ngôn: Thiên thượng thiên hạ duy ngã vi tôn. Tam giới giai khổ, ngô đương an chi" (Kinh Tu Hành Bản Khởi, No184, quyển 1, ÐTK/ÐCTT, T3, trang 463C). [...Thái tử đi bảy bước, giơ tay, dừng lại và nói: Trên trời dưới trời, chỉ có Ta là tôn quý. Ba cõi đều khổ, Ta sẽ đem lại sự an lạc].

2. Kinh No185: Kinh Thái Tử Thụỵ Ứng Bản Khởi

Do cư sĩ Chi Khiêm dịch vào đời Ðông Ngô (222-280) gồm 2 quyển. Nơi quyển 1, đoạn thuật lại ngày Ðản sinh của Phật về chi tiết linh diệu đã nêu cũng giống với kinh No 184:

"Tức hành thất bộ, cử hữu thủ trụ nhi ngôn: Thiên thượng thiên hạ duy ngã vi tôn. Tam giới giai khổ hà khả lạc giả"... (Kinh Thái Tử Thụy Ứng Bản Khởi, No 185, quyển 1, ÐTK/ÐCTT, T3, trang 473C). [...Thái tử liền đi bảy bước, giơ tay phải lên, dừng lại và nói: Trên trời dưới trời, chỉ có Ta là tôn quý. Ba cõi đều khổ, ai là người có thể đem lại sự an lạc?)].

3. Kinh No186: Kinh Phổ Diệu

Do Pháp sư Trúc Pháp Hộ (226-304) dịch vào đời Tây Tấn (265-317), gồm 8 quyển. Ðây là bản Hán dịch được thực hiện trước, từ cùng một bản tiếng Phạn. Bản Hán dịch sau tức kinh No 187.

So với 2 kinh 184, 185, kinh Phổ Diệu viết về sự kiện linh diệu nêu trên gồm nhiều chi tiết hơn:

"Nhĩ thời Bồ tát tùng hữu hiếp sinh, hốt nhiên kiến thân trụ bảo liên hoa, trụy địa hành thất bộ, hiển dương Phạm âm, vô thường huấn giáo: "Ngã đương cứu độ, thiên thượng thiên hạ vi thiên nhân tôn, "đoạn sinh tử khổ, tam giới vô thượng, sử nhất thiết chúng sanh vô vi thường an" (Kinh Phổ Diệu, No186, quyển 2, ÐTK/ÐCTT, T3, tr 494A). [Lúc này, Bồ tát từ nơi hông bên phải sinh ra, hốt nhiên thấy thân trụ ở đóa sen báu. Bước xuống đất, Bồ tát liền đi bảy bước, tiếng nói là Phạm âm vang rõ, chỉ dạy về vô thường: Ta sẽ cứu độ muôn loài, trên trời dưới trời, là bậc tôn quý của hàng Trời, Người, diệt trừ mọi thứ khổ của sinh tử, 3 cõi không gì hơn khiến cho hết thảy chúng sinh luôn được an lạc nơi cảnh giới giải thoát].

4. Kinh No187: Phương Quảng Ðại Trang Nghiêm

Hán dịch là Ðại Sư Ðịa Bà Ha La, dịch vào đời Ðường (618-907) gồm 12 quyển, chi tiết linh diệu kể trên thuộc quyển thứ 3, không chỉ "đi 7 bước" ở 1 phương mà cả 6 phương, mỗi phương đều có những bày tỏ không giống nhau.

* Phương Ðông: "Sở hạ túc xứ giai sinh liên hoa. Ngã đắc nhất thiết thiện pháp, đương vị chúng sanh thuyết chi" (Nơi mỗi dấu chân đi qua đều sinh hoa sen. Ta đã đạt được hết thảy các pháp thiện, sẽ vì chúng sanhthuyết giảng).

* Phương Nam: "Nơi hàng Trời, Người, Ta là bậc xứng đáng thọ nhận sự cúng dường".

* Phương Tây: "Ðối với thế gian, Ta là bậc tối tôn tối thắng, đây tức là sự thọ thân sau cùng của Ta, dứt sạch mọi sinh lão bệnh tử".

* Phương Bắc: "Ta sẽ ở trong muôn loài là bậc Vô thượng, tột cùng".

* Phương Hạ: "Ta sẽ hàng phục hết thảy quân ma..."

* Phương Thượng: "Ta sẽ được tất cả chúng sinh dốc lòng chiêm ngưỡng".

(Kinh Phương Quảng Ðại Trang Nghiêm, No187, quyển 3, ÐTK/ÐCTT, T3, trang 553A-B.

5. Kinh No188: Kinh Dị Xuất Bồ Tát Bản Khởi

Do cư sĩ Nhiếp Ðạo Chân dịch vào đời Tây Tấn, 1 quyển, đã ghi nhận về chi tiết linh diệu kia như sau:

"Tùng mẫu hữu hiếp sinh, trụy địa, hành thất bộ chi trung, cử túc cao tứ thốn, túc bất đạp địa, tức phục cử hữu thủ ngôn: Thiên thượng thiên hạ, tôn vô quá ngã giả". (... Từ nơi hông bên phải của mẹ sinh ra, chạm đất, trong khi đi bảy bước, chân cất cao đến 4 tấc, không đạp đất, lại giơ cao tay phải nói: Trên trời dưới trời, bậc tôn quý nhất không ai hơn Ta). (ÐTK/ÐCTT, T3, tr 618A).

6. Kinh No189: Kinh Quá Khứ Hiện Tại Nhân Quả

Hán dịch là Ðại Sư Cầu Sa Bạt Ðà La, dịch vào đời Lưu Tống (420-478) gồm 4 quyển, sự kiện linh diệu trên thuộc về quyển 1. Kinh viết: "Bồ tát tiệm tiệm tùng hữu hiếp xuất... Vô phù thị giả "tự hành thất bộ, cử kỳ hữu thủ, nhi sư tử hống: Ngã ư nhất thiết thiên nhân chi trung tối tôn tối thắng. Vô lượng sinh tử ư kim tận hỉ" (ÐTK/ÐCTT, T3, trang 625A).

[Bồ tát dần dần từ nơi hông bên phải sinh ra... không người để vịn, đỡ, tự đi bảy bước, giơ cao tay phải, lời nói như tiếng sư tử gầm: Ta, đối với tất cả hàng Trời, Người, là bậc tối tôn tối thắng. Vô lượng nẻo sinh tử từ nay sẽ dứt sạch].

7. Kinh No190: Kinh Phật Bản Hạnh Tập

Do Ðại sư Xà Na Quật Ða dịch vào đời Tùy (589-618) gồm đến 60 quyển, là bộ kinh bề thế nhất của bộ Bản duyên thuộc Phật giáo Bắc truyền. Về sự kiện linh diệu kia, kinh viết:

"Bồ tát sinh dĩ, vô nhân phù trì, tức hành tứ phương diện các thất bộ, bộ bộ cử túc xuất đại liên hoa. Hành thất bộ dĩ, quan thị tứ phương, tiên quan đông phương, mục vị tằng thuấn, khẩu tự xuất ngôn: Thế gian chi trung, ngã vi tối thượng. Ngã tùng kim nhật sanh phần dĩ tận... dư phương tất nhiên".

(Kinh Phật Bản Hạnh Tập, No190, quyển thứ 8, ÐTK/ÐCTT, T3, trang 687B).

[Bồ tát sinh rồi, không người để vịn đỡ, liền đi về 4 phương, mỗi phương đều đi 7 bước, nơi mỗi bước khi cất chân lên đều có hoa sen lớn xuất hiện. Ði 7 bước xong, bèn nhìn khắp 4 phương, trước là nhìn về phương Ðông, mắt không hề chớp, miệng phát ra lời: Trong thế gian, Ta là bậc tối thắng. Từ nay, nẻo sinh tử của Ta đã dứt... các phương khác cũng thế].

8. Kinh No191: Kinh Chúng Hứa Ma Ha Ðế

Do Ðại sư Pháp Hiền dịch vào đời Triệu Tống (960-1279), gồm 13 quyển, chi tiết linh diệu nêu trên thuộc quyển thứ 3. Ðiều đáng chú ý ở đây là, cùng với 7 bước đi về 4 phương, kinh không ghi nhận các câu nói như những kinh kia mà chỉ giải thích ý nghĩa biểu trưng nơi 4 phương:

"Nhĩ thời Thái tử thân tướng viên mãn... ư kỳ tứ phương các hành thất bộ. Ðông phương biểu Niết bàn tối thượng. Nam phương biểu lợi lạc quần sanh. Tây phương biểu giải thoát sinh tử. Bắc phương biểu vĩnh đoạn luân hồi". (ÐTK/ÐCTT, T3, trang 939B).

[Bấy giờ, thân tướng của Thái tử đã viên mãn... Ở nơi 4 phương đều đi 7 bước. Phương Ðông là biểu thị cho Niết bàn tối thượng. Phương Nam là biểu thị cho việc đem lại lợi lạc nơi muôn loài. Phương Tây là biểu thị cho sự giải thoát khỏi sinh tử. Phương Bắc là biểu thị cho sự đoạn trừ vĩnh viễn nẻo luân hồi].

9. No192: Phật sở hành tán

tác phẩm "trường ca" đầu tiên của Phật giáo Bắc truyền viết về cuộc đời Ðức Phật Thích Ca Mâu Ni, tác giả là Ðại sĩ Mã Minh (100-160TL), một luận sư đã có những đóng góp lớn vào quá trình hình thành hệ thống Phật giáo Phát triển. Hán dịch "Phật sở hành tán" là Ðại sư Ðàm Vô Sấm, dịch vào đời Bắc Lương (401-439), gồm 5 quyển, 28 phẩm với 9.216 câu thơ 5 chữ.

Về chi tiết linh diệu nêu trên, Phật sở hành tán chỉ nói đến "Bồ tát vừa sinh ra đã đi bảy bước" với câu nói:

"Thử sinh vi Phật sinh

Tắc vi hậu biên sinh

Ngã duy thử nhất sinh

Ðương độ ư nhất thiết".

(ÐTK/ÐCTT, T4, trang 1B)

 

Ðây là Phật thị hiện

Lần sinh ấy cuối cùng

Ta với một đời này

Muôn loài nguyền độ thảy.

10. No193: Kinh Phật Bản Hạnh Nguyện (thi kệ)

Do Sa môn Bảo Vân người Lương Châu, dịch vào đời Lưu Tống, gồm 7 quyển, 31 phẩm, sử dụng các thể thơ 4 chữ, 7 chữ để dịch, trong đó chiếm đa số là câu 5 chữ (7.426 câu)... Sự kiện linh diệu kể trên đã được mô tả:

Hiện 7 Giác ý

Dứt sạch phiền não

Nên đi 7 bước...

Như mặt trời sáng

Chiếu thắp bốn phương

Hiện pháp Tứ đế

Như Sư tử gầm:

Ta với đời này

Thọ thân sau rốt

Không còn trở lại

Theo nẻo thai sinh

Ta sẽ thành Phật

Ðạo rất khó đạt

Dẫn dắt muôn loài...

Chúng tôi xin nêu ra mấy ghi nhận bước đầu như sau:

1. Qua 10 trích dẫn trên, khỏi phải giảng giải thêm, chúng ta cũng đã lãnh hội được ý nghĩa chính của toàn bộ vấn đề: đó là sự xuất hiện của một bậc vĩ nhân và với giáo pháp giác ngộ, giải thoát mà bậc vĩ nhân ấy chứng đắc sau này, đối chiếu trong 3 cõi, chính là giáo pháp vô thượng của bậc tối thượng.

2. Câu nói của Thái tử (Bồ tát) mang tính chất thâu tóm là: "Thiên thượng thiên hạ, duy ngã vi tôn". "Duy ngã vi tôn" ở đây nên được hiểu là: Như Laigiáo pháp của Như Lai là tôn quý bậc nhất, không ai có thể vượt hơn, không gì có thể so sánh. Vì chỉ có giáo pháp vô thượng của bậc tối thượng ấy mới giúp con người đạt đến giác ngộgiải thoát.

3. "Duy ngã vi tôn" ở đây không hề có đại ngã, tiểu ngã gì cả, mà cũng không hề mâu thuẫn gì với giáo lý vô ngã, một trong những giáo lý tiêu biểu nhất mà Ðức Phật đã chứng đắc. Ðây chỉ là sự khẳng định, nói rõ hơn là sự khẳng định của người biên chép kinh, mang ý nghĩa "báo trước" về tính chất xuất chúng của Ðức Phật vừa ra đời cùng giáo pháp mà Phật sẽ chứng đắc về sau. Phật Quang đại từ điển đã giải thích khá rõ:

"Duy ngã độc tôn (**): Nghĩa là trong thế giới chỉ có Ta là tôn quý hơn hết. Căn cứ theo kinh Trường A Hàm, quyển 1, được ghi chép nơi kinh Ðại Bản (kinh Trường A Hàm gồm 22 quyển với 30 kinh, kinh Ðại Bản là 1 trong số 30 kinh ấy - ÐN chú) thì Ðức Thế Tôn do mẹ là phu nhân Ma Da sinh ra từ nơi hông bên phải, khi vừa chạm đất, đã tự mình đi 7 bước, nhìn khắp bốn phương, giơ cao tay lên, nói: "Thiên thượng thiên hạ duy ngã vi tôn" (ÐTK/ÐCTT, T1, trang 4C), dựa nơi sách "Thích Môn quy kinh nghi" quyển thượng, đã giải thích, thì nhân xã hội Ấn Ðộ đương thời, dân tình, phong tục tỏ ra trọng thị 96 học phái ngoại đạo, tất cả các phái này đều tự cho là bậc đại thánh nhân, là hàng thầy của Trời, Người; Ðức Thế Tôn vì nhằm diệt trừ nẻo tà, dẫn về nẻo chánh, nên đã thị hiện tướng ấy, biểu thị là trong 3 cõi chỉ có Phật là tôn quý hơn hết, có thể cứu độ khắp trên trời dưới trời, là bậc tôn quý của hàng Trời, Người, đoạn trừ sự khổ của sinh tử, khiến cho tất cả chúng sanh đạt được an lạc lớn"... (Phật Quang đại từ điển, Phật Quang xuất bản xã ấn hành, 1999, trang 4423/1).

Tháng 4-2002

GHI CHÚ:

(*) Xem nguyệt san Giác Ngộ số 60, 61 (tháng 3, 4-2001)

In lại trong Phật học cơ bản, T4.

(**) Các kinh thuộc Phật giáo Bắc truyền đã dẫn, kể cả kinh Trường A Hàm, quyển 1 đều chép là "duy ngã vi tôn". "Ðộc tôn" chắc là do sự thêm bớt của người đời sau. 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 31821)
Tôi tin hy vọng rằng tất cả người dân Nepal nhân mùa lễ này hãy chuyển hóa những vụn vỡ để có thể làm cho mọi thứ trở nên nhẹ nhàng hơn trong cuộc sống giống như thông điệp của Đại lễ về giá trị con người.
(Xem: 10569)
Các phương cách đản sanh của chư Phật đều giống nhau như sự xuất hiện của các ngài giữa thế gian này đã cảm ứng đến thế giới chư thiên và các loài khác
(Xem: 11297)
Người đã đến, vầng hồng dương rạng rỡ, Bước nhiệm huyền bừng nở những đài sen, Ưu Đàm hoa còn lưu hương muôn thuở. Cõi trầm luân còn nhắc nhớ bao phen..
(Xem: 12820)
Tháng tư âm lịch tưng bừng, Vườn Lâm-tỳ-ni đón mừng Đản Sanh. Ca-tỳ-la-vệ cửa thành, Trên không nhẹ thoảng âm thanh lạ thường.
(Xem: 10868)
Hãy lắng nghe lời Thầy-Tổ nói, minh bạchấn tượng hơn: “Nói lời Phật nói, nghĩ điều Phật nghĩ, làm điều Phật làm.”
(Xem: 16779)
Trường A Hàm I, "Thiên thượng thiên hạ duy ngã độc tôn. Duy ngã vi tôn, yếu độ chúng sanh, sanh lão bệnh tử"...
(Xem: 10865)
Hai ngàn năm trăm bốn mươi mốt năm đã trôi qua, nhưng hình bóng và biểu tượng cao quý của Đức Phật vẫn luôn ngời sáng trong lòng mọi người con Phật.
(Xem: 23048)
Của Chánh Văn Phòng GHPGVNTN Hoa Kỳ - HT Thích Thắng Hoan
(Xem: 12123)
Được làm con Phật là điều vừa đơn giản, vừa hy hữu. Đơn giản, vì sinh ra trong một gia đình Phật giáo thì tự động theo cha mẹ đi chùa, lễ Phật, tin Phật ngay từ bé.
(Xem: 11551)
Này người thanh niên! Ví như có một gian phòng tăm tối suốt cả nghìn năm dài. Nếu muốn thắp sáng cho nó, con cần phải đốt bao nhiêu ngọn đèn và mất bao nhiêu lâu để dẹp cho nó tươm tất?
(Xem: 10749)
Mãi cho đến tháng 12 năm 1999 mới được công nhậntuyên bố Đại lễ Phật Đản Quốc tế (lễ Vesak – Tam hợp) tại trụ sở Hội Đồng Liên Hiệp Quốc, New York City (Hoa Kỳ) vừa qua.
(Xem: 12395)
Trần Nhân Tông (chữ Hán: 陳仁宗; 7 tháng 12 năm 1258 – 16 tháng 12 năm 1308,) là vị vua thứ 3 của nhà Trần trong lịch sử Việt Nam.
(Xem: 11250)
Dê là loài động vật hiền lành, gần gũi với đời sốngsinh hoạt của con người. Nó là một trong lục súc: ngựa, trâu, dê, chó, lợn, gà.
(Xem: 10076)
Vào dịp cuối năm, đầu năm, dương lịch hay âm lịch, có lẽ không có nhóm từ nào được mọi người dùng đến nhiều như là mấy chữ "Chúc mừng năm mới."
(Xem: 10370)
Không có stress có lẽ con người cũng không thể tồn tại. Thế nhưng, vượt ngưỡng đến một mức nào đó thì con người cũng…không thể tồn tại, bởi chính stress gây ra nhiều thứ bệnh về thể chấttâm thần...
(Xem: 11983)
“Giáo Pháp của Như Lai: thiết thực, hiện đại, không thời gian, đến để mà thấy, có thể đưa đến chứng ngộ, được người trí tự mình giác hiểu.”
(Xem: 10754)
Các nhà y học chính thốngbảo thủ nhất cũng đã phải công nhận thiền là một phương pháp trị liệu khoa học và hiệu quả trên một số bệnh lý, cũng như cải thiện cả hành vilối sống...
(Xem: 12418)
Thiền là phương pháp thâm cứu và quán tưởng, hay là phương pháp giữ cho tâm yên tĩnh, phương pháp tự tỉnh thức để thấy rằng chân tánh chính là Phật tánh...
(Xem: 9866)
Tu thiềnthực hiện theo nguồn gốc của đạo Phật. Vì xưa kia, Đức Phật tọa thiền suốt bốn mươi chín ngày đêm dưới cội bồ đề mới được giác ngộ thành Phật.
(Xem: 11320)
Cứ mỗi độ xuân về, chắc chắn ai trong chúng ta cũng đều cảm thấy có một chút gì khiến cho cõi lòng bâng khuâng, xao xuyến trước cảnh vật thiên nhiên...
(Xem: 13879)
Gom tâm an trụ và làm cho tâm trở nên vắng lặng, rồi dùng tâm an trụ ấy quán chiếu thân và tâm.
(Xem: 9624)
Thiền là một pháp môn do sáng kiến của đức Phật, do kinh nghiệm tu tập bản thân của Ngài, và chính nhờ kinh nghiệm bản thân ấy mới giúp cho Ngài xây dựng một pháp môn giải thoátgiác ngộ.
(Xem: 12685)
Vô Niệm Viên Thông Yếu Quyết nếu cắt nghĩa chung thì ta có thể nói là bí quyết thoát trần, bí quyết thoát vòng tục lụy, bí quyết giải thoát, bí quyết để chứng thẳng chơn tâm hay bí quyết để đi vào minh tâm kiến tánh.
(Xem: 9747)
Chúng ta tu học Phật pháp, mục tiêu đầu tiên tất nhiên phải thoát ly sinh tử, ra khỏi lục đạo luân hồi.
(Xem: 10502)
xem thường chúng sinh, chính mình luôn có thái độ cống cao ngã mạn khiến cơ hội vãng sinh bất thoái thành Phật.
(Xem: 10619)
Thiền là phương pháp buông xả. Khi hành Thiền, bạn buông xả cả thế giới phức tạp bên ngoài để đạt đến trạng thái an tịnh nội tâm đầy uy lực.
(Xem: 10372)
Kinh Đại Tập nói rằng: ”Thời đại mạt pháp hàng trăm triệu người tu hành, ít có một người đắc đạo, chỉ nương niệm Phật sẽ qua được biển sinh tử”.
(Xem: 9950)
Phật giáogiáo dục, đích thực là giáo dục chí thiện viên mãn của Thích Ca Mâu Ni Phật đối với chúng sanh trong chín pháp giới.
(Xem: 11103)
Hãy sống trọn vẹn, thực hành tinh tấn và tập trung vào những gì mà bạn làm hoặc khi bạn đi, đứng, nằm, ngồi hay làm việc.
(Xem: 12044)
Đức Phật dạy chúng ta niệm A Di Đà Phật, chúng ta nghe theo lời dạy của đức Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật mà niệm Phật cầu sanh Tịnh Độ.
(Xem: 10186)
Phật giáo Trung Quốc được lần lượt truyền từ Ấn Độ sang đến nay đã hơn hai nghìn năm và được truyền bá rộng rãi đến ngày nay.
(Xem: 10826)
Phật, chính là thực tướng các pháp, chân tướng của tất cả pháp. Nếu bạn trái với chân tướng thì chính là ma,
(Xem: 9590)
Khổ đau đã gắng liền với con người như bóng với hình, cho dù có trốn chạy cũng không thể nào thoát ra. Đã không trốn chạy được, phương pháp hay nhất là ...
(Xem: 9945)
Chúng ta may mắn được nghe Phật Pháp, đương nhiên cần phải chiếu cố đến chúng sanh ở tận hư không pháp giới, nhất là những oan gia trái chủ của mình trong nhiều đời nhiều kiếp.
(Xem: 8837)
Phương pháp tiêu trừ nghiệp chướng tốt nhất là đoạn ác tu thiện, tích công bồi đức, một lòng niệm Phật.
(Xem: 9537)
Người niệm Phật tu hành chẳng những được phước rất lớn, mà chính mình cũng được vãng sanh Cực Lạc.
(Xem: 14578)
Yếu chỉ của tam muội trong pháp môn niệm Phật là sự " lắng nghe" chứ không cốt niệm cho nhiều mà tâm chẳng rõ.
(Xem: 8819)
Tại sao công phu niệm Phật của mọi người không được đắc lực? Nguyên nhân là vì không nhìn thấu, không buông xả, và cũng vì chưa hiểu rõ được chân tướng của vũ trụ nhân sanh.
(Xem: 12617)
Chính nương vào nhị đế mới có thể thi thiết phương tiện thiện xảo để độ mình, độ người và xiển dương Chánh Pháp.
(Xem: 10489)
Thiền là một pháp môn hay là một trường phái của Phật giáo, và những người thực tập theo pháp môn này xem nó như là cốt tủy của đạo Phật.
(Xem: 9137)
Một lòng chuyên niệm không có tâm Bồ Đề, cũng không thể vãng sanh, cho nên phát tâm Bồ Đề cùng một lòng chuyên niệm phải kết hợp lại, thì bạn quyết định được sanh Tịnh Độ.
(Xem: 10614)
Tất cả những giáo lý về con đường Ati Dzogchen có thể xếp vào ba chủ đề : Nền Tảng, Con Đường, và Quả.
(Xem: 9375)
Niệm Phật là một pháp môn dễ hành nhưng khó tin, nhất là trong thời đại điện toán này, thời đạicon người lo cho vật chất nhiều hơn là lo cho đời sống tâm linh.
(Xem: 8834)
"Cực Lạc Thù Thắng", có nghĩa là người tu về Pháp môn Tịnh độ chuyên lòng niệm Phật A Di Đà, cầu sanh về cõi Cực lạc, được y báo chánh báo trang nghiêm thù thắng.
(Xem: 10572)
Kinh Phật nói: “Tất cả sự khổ vui đều do tâm tạo”. Vậy muốn cải thiện con người, tạo hoàn cảnh tốt, phải tìm sửa đổi từ chỗ phát nguyên....
(Xem: 9251)
Chúng sinh tận hư không khắp pháp giới, chúng ta đều phải độ. Vậy chữ “độ” này có ý nghĩa gì? Nếu dùng ngôn ngữ hiện đại, thì “độ” là quan tâm, yêu quí, dốc lòng dốc sức giúp đỡ.
(Xem: 8395)
Cần chân thật phát nguyện cầu sanh Tịnh Độ, thế giới Cực Lạc trong ao bảy báu liền mọc lên một nụ hoa, chính là hoa sen.
(Xem: 12087)
Hãy nhớ rằng duy chỉ có bạn là người có thể thay đổi cuộc đời mình tốt đẹp hơn và thiền đã chứng tỏ sự hiệu nghiệm của nó đối với không biết bao nhiêu người.
(Xem: 9747)
Trong Kinh tạng Pàli, có một số văn đoạn nêu rõ kinh nghiệm hành thiền của Đức Phật, rất quan trọng và bổ ích cho việc hành thiền của người Phật tử.
(Xem: 10253)
Hãy thực hành bằng sự tinh tấn dũng mảnh, bền bỉ, và không để mất chút thì giờ nào. Hãy khuyên và khuyến khích những người khác cùng thực hành.
(Xem: 10270)
Thực tập chánh niệm ngày càng trở thành một đề tài được ưa chuộng trong giới lãnh đạo doanh nghiệp.
(Xem: 19230)
Bản dịch tiếng Việt Ba Trụ Thiền do chúng tôi thực hiện lần đầu tiên vào năm 1985 tại Sài gòn, Việt nam
(Xem: 9459)
Chúng ta nên tu theo pháp môn niệm Phật, ai có nhân duyên về Tịnh độ trước thì lo chuẩn bị tiếp rước người đến sau. Nếu chí thành theo con đường niệm Phật Di Đà cầu sanh tịnh độ thì dứt khoát sau nầy cả gia đình, ngay cả dòng họ sẽ gặp nhau cả
(Xem: 9033)
Phật phápchân lý của vũ trụ nhân sanh, chân thật thông đạt tường tận rồi thì hoan hỉbố thí, không chút bỏn xẻn. Bố thí càng nhiều vui sướng càng cao,
(Xem: 9621)
Ta được biết là có nhiều cõi Tịnh Độ, nhiều cõi linh thánh của những Đấng Giác ngộchúng ta gọi là chư Phật. Cõi Tịnh Độ của Đức Phật Vô Lượng Quang A Di Đà thì đúng là một nơi độc nhất vô nhị.
(Xem: 9036)
Vãng sanh nhất định phải đầy đủ tín, nguyện, hạnh. Nếu như tín nguyện của bạn không kiên định, không thiết tha, thì Phật hiệu niệm nhiều bao nhiêu đi nữa cũng không thể vãng sanh.
(Xem: 14815)
Nguyện đem lòng thành kính, gởi theo đám mây hương, Phưởng phất khắp mười phương, cúng dường ngôi Tam bảo.
(Xem: 10129)
Ước vọng của con người luôn là những gì tốt đẹp, sung túc và dài lâu, cần phải đạt được trong một tương lai gần nhất.
(Xem: 8407)
Phật cho chúng ta một lợi ích vô cùng lớn vô cùng thù thắng, đó là dạy chúng ta trong một đời này được thành Phật.
(Xem: 8987)
Tâm mình thanh tịnh, tự tại, yên ổn thì đó tức là Tịnh độ. Chư Phật và chư Tổ khai huyền xiển giáo để chúng sanh trong đời này có đường hướng để đi, mà đường hướng nào cuối cùng cũng gặp nhau nơi tự tánh Di Đà, duy tâm Tịnh độ.
(Xem: 9027)
Đức Thích Ca Mâu Ni khai thị pháp môn niệm Phật tức là muốn cho hết thảy chúng sinh thâu nhiếp lục căn, khiến được tịnh niệm tương tục, xưng niệm “Nam Mô A Di Đà Phật”, niệm đến cảnh giới tâm cảnh đều vắng lặng thì Phật tánh sẽ tự hiển hiện.
(Xem: 8788)
Pháp môn Tịnh độ là một pháp môn thích đáng, khế hợp mọi căn cơ, dễ tu, dễ chứng, chư Phật trong mười phương đã dùng pháp môn này để cứu vớt hết thảy chúng sinh xa rời nẻo khổ, chứng đắc Niết bàn ngay trong một đời.
(Xem: 9412)
Pháp môn niệm Phật còn gọi là pháp môn Tịnh độ, lại được gọi là “Liên Tông”, lại được gọi là “Tịnh Tông”. Lòng từ của Đức Thích Ca Mâu Ni thật là vô hạn, Ngài quán xét căn cơ của chúng sinhcõi Ta bàban cho pháp môn tối thắng này.
(Xem: 14667)
不二 hay "vô nhị", tiếng Sanskrit gọi là “Advaita”, tiếng Anh gọi là "Nonduality". Phật học tiểu từ điển giải thích “bất nhị” là “không phân biệt đối với tất cả mọi hiện tượng”, siêu việt trên mọi phân biệt.
(Xem: 9080)
Ái hà ngàn thước sóng xao, Muôn trùng biển khổ lấp đầu than ôi! Muốn cho khỏi kiếp luân hồi, Phải mau gấp niệm Nam mô Di Đà.
(Xem: 8822)
Pháp môn niệm Phật để cầu sanh về Tịnh độ (Cực lạc), thì phải hiểu biết lịch sử của đức Phật A Di Đà thế nào, và 48 lời nguyện ra sao.
(Xem: 9080)
Kinh Dược Sư Lưu Ly bổn nguyện công đức dạy rằng: “Cứu thả các sinh mạng được tiêu trừ bệnh tật, thoát khỏi các tai nạn.” Người phóng sinh tu phước, cứu giúp muôn loài thoát khỏi khổ ách thì bản thân không gặp các tai nạn.
(Xem: 10582)
Ngài nhận một bó cỏ Cát tường (Kusa) từ người nông dân chăn trâu tên Svastika, rồi trải cỏ làm tòa ngồi và tuyên thệ: “Nếu ta không tìm ra Chân lý tối thượng, ta quyết không rời khỏi nơi này”
(Xem: 8683)
Tinh thần của Phật pháp là nhằm xét đoán chính mình, chứ không xét đoán người khác, người khác đều là người tốt, đều là Phật, Bồ Tát, những gì người khác làm đều đúng đắn, đều chính xác.
(Xem: 10042)
pháp môn niệm Phật, lấy nhất tâm niệm Phật, cầu sinh Tây phương, ly khổ đắc lạc. Nhìn vào thấy như là Tiểu thừa, chỉ tự lợi mình, nhưng thực tế mà nói thì là Đại thừa, có thể lợi tha.
(Xem: 24379)
Phật giáo Bắc tông nói chung, Thiền tông nói riêng đều lấy giác ngộ làm mục đích tiến tu. Dù là tu sĩ xuất gia hay cư sĩ tại gia trong khi tu hành được đôi phần giác ngộ đều được mọi người quí kính.
(Xem: 10229)
Sau khi thành đạo, Đức Phật Thích Ca đã thấu suốt cội nguồn pháp giới trong vũ trụ. Ngài đã nhìn thấy rõ mỗi chúng sanh đều có Phật tánh, nhưng vì mê muội mà chưa nhận được.
(Xem: 11084)
A Di Đà Phật, danh hiệu này là vạn đức hồng danh, tại sao vậy? Danh hiệu này là danh hiệu của tự tánh, là danh hiệu của tánh đức.
(Xem: 9053)
Pháp môn Tịnh độ theo như huyền ký của Đức Phật trong Kinh Vô Lượng ThọKinh Đại Tập là một pháp môn thù thắng và rất thích hợp với chúng sanh trong thời mạt pháp này.
(Xem: 9519)
Pháp môn niệm Phật từ trước đến nay được phổ biến rộng rãi, hàng Phật tử đều có thể ứng dụng thực hành và đã chứng nghiệman lạc, lợi ích từ câu Phật hiệu.
(Xem: 8049)
Một trong những duyên khởi đưa tôi tới sự học hỏi pháp môn Tịnh Độ là lần đi cúng thất đầu tiên của bác tôi
(Xem: 9324)
Trong Phật giáo, niệm là một thuộc tính của tâm, gọi là tâm sở pháp
(Xem: 15439)
Quyển Ngữ Lục này là tập hợp từ những lời thị chúng của Thiền Sư Duy Lực trong những kỳ thiền thất tại Việt Nam kể từ năm 1983 cho đến những năm tháng cuối đời.
(Xem: 10395)
Vun xới các phẩm tính nội tâm chính là cách hữu hiệu hơn cả để giúp mình giúp đỡ kẻ khác.
(Xem: 9620)
Buổi sáng hôm đó, nắng vàng rất đẹp, mây xanh trong vắt và những bông hoa lựu đỏ thắm, nở rực rỡ trên con đường dẫn ra bờ sông Neranjara.
(Xem: 17516)
Chúng tôi giảng rất nhiều lần bộ kinh Vô Lượng Thọ, tính sơ đến nay cũng khoảng mười lần. Mỗi lần giảng giải đều không giống nhau.
(Xem: 21524)
Giáo pháp được đưa vào thế giới khi Đức Thích Ca chứng đạo tối thượng, lần đầu tiên thuyết về Chân Như và về những phương pháp hành trì đưa đến chứng ngộ.
(Xem: 12207)
Pháp Sự Toàn Tập Giảng Ký, Lão pháp sư Thích Tịnh Không giảng tại Úc Châu Tịnh Tông Học Viện, Chuyển ngữ: Bửu Quang Tự đệ tử Như Hòa
(Xem: 10267)
Trong rừng hương giáo pháp, “Những Đoá Hoa Thiền” cũng mang một đặc vẻ đặc kỳ diễm ảo của chúng. “Như nhân ẩm thủy, lãnh noãn tự tri.”
(Xem: 19341)
Thiền sư Nghi Mặc Huyền Khế tìm được những lời của đại sư Hà Ngọc nơi bộ Ngũ Tông lục của Quách Chánh Trung và những trứ tác của các vị Huệ Hà, Quảng Huy, Hối Nhiên...
(Xem: 26139)
Kinh quán Vô Lượng Thọ Phật là một trong ba bộ kinh chính yếu của tông Tịnh Độ, được xếp vào Đại chánh tạng, tập 16, No. 1756.
(Xem: 8013)
Từng đợt lá thay nhau úa vàng, héo khô, lả tả rơi theo gió mùa. Từng cơn mưa nặng hạt, rơi xuống những mảnh đất đã cằn khô, nứt nẻ.
(Xem: 14883)
Tết là ngày lễ hội lớn nhất trong năm, là dịp để mọi người đều hớn hở và đặt tất cả những niềm hy vọngước mơ của mình vào tương lai.
(Xem: 10681)
Giật mình nhìn lên bệ, Cứ ngỡ rằng trong mơ: Pho tượng Phật đi vắng. Ngoài kia xuân đã về.
(Xem: 11399)
Những bài kinh Phật không có bài nào là không hay. Có miệt mài trên những trang kinh xưa mới cảm được sự vang động của suối nguồn trí tuệ.
(Xem: 9563)
Pháp môn Tịnh Độcon đường chính yếu dẫn chúng sanh thời nay thoát sanh tử, là chiếc thuyền vững chắc đưa mọi người vượt thẳng qua năm đường.
(Xem: 18768)
Quyển Luận này về hình lượng rất bé bỏng, nhưng về phẩm chất thật quí vô giá. Một hành giả nếu thâm đạt ý chí quyển Luận này là đã thấy lối vào Đạo.
(Xem: 12433)
Pháp tu Tonglen, hay cho (tong) và nhận (len), là một pháp tu của chư Bồ tát, những đứa con thiện nam tín nữ dũng cảm nhất của các đấng chiến thắng
(Xem: 11962)
Ta đã có được thân người hy hữu khó tìm, cùng với các tự dothuận lợi đầy ý nghĩa. Ta đã gặp được giáo huấn hiếm có của Đức Phật.
(Xem: 10817)
Tôi sẽ dựa theo tác phẩm có tựa đề Năm Điểm Chỉ Giáo về Pháp Chiết Xuất Tinh Chất, do Đức Đạt Lai Lạt Ma thứ Hai, Gendun Gyatso sáng tác.
(Xem: 13405)
Pháp luyện tâm nói về hành trì của các hành giả cao cả. Khi tu tập để phát bồ đề tâm, trước hết, ta phải phát khởi các thực chứng của một hành giả sơ căn và trung căn trong lamrim...
(Xem: 10064)
Chúng ta đã có được kiếp sống lý tưởng, hỗ trợ cho các tự dothuận lợi rất khó tìm. Ta đã gặp được giáo huấn quý báu vốn khó gặp của Đức Phật, đã tìm ra các vị thầy tâm linh khó tìm của Đại thừa...
(Xem: 9302)
Người tu Thiền chơn chính được gọi là ngồi Thiền "vô sở đắc" lại nữa đó cũng gọi là "Bổn chứng diệu tu" của sự tọa Thiền.
(Xem: 9435)
Quả thật là có một cõi như thế, gọi là cõi Tịnh Độ Hiện Tiền. Cõi ấy không bị giới hạn bởi không gian hay thời gian...
(Xem: 15956)
Tập sách chủ yếu làm sáng tỏ một số điểm giáo lýpháp môn thực hành nòng cốt của Phật giáo từ Nguyên thủy cho đến Đại thừa...
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant