Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Phần 3

09 Tháng Giêng 201511:49(Xem: 10967)
Phần 3

KINH ĐẠI THỪA VÔ LƯỢNG THỌ (PHẦN 3)


Pháp Sư Tịnh Không

PHẨM II: “ĐỨC TUÂN PHỔ HIỀN”
Trọng trách của hành giả tu tại gia
Phẩm thứ hai tiếp nối phẩm thứ nhất. Vì sao Hạ lão cư sĩ không đem hai phẩm này hợp lại thành một?

Lần hội tập đầu tiên, hai phẩm này đích thực hợp chung trong một phẩm. Có thể tham khảo phán khoa của lão pháp sư Từ Chu để chứng thực. Hạ lão ban đầu hội tập, pháp sư Từ Chu đã làm phán khoa cho ông. Không những thế, pháp sư Từ Chu còn đem bổn hội tập này giảng lần đầu ở Tế Nam, lúc đó quyển kinh tổng cộng phân thành ba mươi bảy phẩm, không phải bốn mươi tám phẩm như hiện tại. Có lẽ Hạ lão dựa theo Ba mươi bảy phẩm trợ đạophân chia. Sau đó không ngừng tu đính, sửa đổi. Sửa đổi đến mười lần mới thành bản gốc, đem toàn kinh này phân thành bốn mươi tám phẩm. Chắc chắn căn cứ vào Bốn mươi tám nguyện của Phật A Di Đà. Chính vì thế mà phẩm thứ nhất được phân làm hai phẩm.

Thế nhưng, vì sao không đem Bồ Tát tại gia phân vào phẩm thứ nhất trong khi họ đều là biểu pháp, tại sao Hạ lão lại phân đoạn ngay chỗ này? Nhất định ông có dụng ý sâu sắc. Đoạn người tại gia được phân thành đoạn riêng biệt là để nhắc nhở chúng ta rằng pháp môn bộ kinh này chủ yếu độ hành giả tại gia, không nên cho rằng chỉ có người xuất gia mới có thể tu hành ngay đời thành Phật, còn người tại gia nghiệp chướng sâu nặng nên không có phần. Hạ lão phân đoạn ở đây chính là bảo chúng ta không nên hoài nghi. Người tại gia có thể ngay trong một đời bình đẳng thành Phật. Giáo nghĩa quyển kinh, cùng với bổn nguyện của Phật A Di Đà xác thực rất tương ứng nhau. Đó là huệ nhãn đặc thù của Hạ lão cư sĩ. Cho nên kinh này đích thực lấy người tại gia làm chủ.

Sơ lược biểu pháp của mười sáu vị Bồ tát tại gia
Bồ tát tại gia có hơn mười sáu vị, thảy đều là Bồ tát Đẳng Giác hiện thân tại gia, địa vị của họ cùng Văn Thù, Phổ Hiền, Quán Âm, Thế Chí không hề khác nhau.

Trong nhà Phật, phần nhiều Phật thị hiện hình tướng của người xuất gia, Bồ tát phần lớn thị hiện hình tướng tại gia. Ở Trung Quốc, tứ đại danh sơn, bốn đại Bồ tát là trụ cột trong pháp Đại thừa. Trong bốn vị Bồ tát chỉ có Bồ tát Địa Tạngthị hiện tướng xuất gia. Lý do vào thời nhà Đường, vương tử của Cao Ly xuất gia, đến núi Cửu Hoa, Trung Quốc. Sau này chúng ta mới biết được ngài là hóa thân của Bồ tát Địa Tạng, cho nên tạo tượng Bồ tát Địa Tạng thành hình tướng xuất gia. Còn Bồ tát Quan Âm Nam Hải, Bồ tát Văn ThùNgũ Đài, Nga Mi Tứ Xuyên Bồ tát Phổ Hiền đều là hình tướng tại gia. Ngay đến Bồ tát Di Lặc, nếu đến Bắc Kinh đi tham quan cung Ung Hòa, chúng ta sẽ thấy Bồ tát Di Lặc cũng là hình tướng tại gia.

Thế nhưng tập quán ở Trung Quốc đắp tượng Bồ tát Di Lặc lại đắp Hòa thượng Bố Đại hình tướng xuất gia. Hòa thượng Bố Đại xuất hiện ở triều Tống, thời đại Cao Tông Nam Tống, cùng thời đại với Nhạc Phi. Trước khi ngài Bố Đại viên tịch, có nói với mọi người rằng ngài là hóa thân của Bồ tát Di Lặc đến đây. Nói xong ngài liền viên tịch. Trong nhà Phật, chư Phật, Bồ tát hóa thân tái lai, tuyệt nhiên không bao giờ bộc lộ thân phận. Khi thân phận vừa bị lộ thì nhất định sẽ đi ngay. Còn nếu thân phận bị lộ mà vẫn chưa đi thì đó là giả, không phải thật. Hiện nay chúng ta nghe nói ở rất nhiều nơi có vị pháp sư nào đó là Phật gì đó tái lai, vị cư sĩ nào đó là Bồ tát gì đó tái lai, nói rồi lại không chịu đi, như vậy việc này không đáng tin, lộ thân phận mà không đi là giả, tuyệt đối không phải thật.

Số lượng Bồ tát đến tham dự vượt qua một vạn hai ngàn người, cõi này phương khác, Bồ tát các tinh cầu khác cũng đến tham dự pháp hội, vô lượng vô biên Bồ tát trong cõi nước chư Phật đều đến tham gia, chúng Bồ tát rất đông, tuy nhiên kinh chỉ nêu ra mười sáu vị. Mười sáu vị này là biểu pháp, đại biểu viên mãn. Trong Phật pháp, chúng ta có hiển có mật. Biểu pháp trong hiển giáo, kinh Di Đà, số bảy đại biểu viên mãn, không phải chữ số. Bảy chỉ đông, nam, tây, bắc, thượng, hạ, trung, tất cả biểu thị viên mãn. Kinh Hoa Nghiêm dùng mười đại biểu viên mãn, cũng không phải chữ số. Trong Mật tông thường dùng mười sáu là đại biểu viên mãn, cũng không phải là chữ số. Nơi nơi hiển thị đại biểu viên mãn của Phật pháp.

Cho nên danh hiệu của mười sáu vị này cũng là biểu pháp. Chúng ta phải lưu ý không nên bỏ lỡ. Mười sáu vịBồ tát Đẳng giác tại gia.

Ý nghĩa trong cách tôn xưng
Chánh Sĩ là tên riêng của Bồ tát. Bồ tát thông thường được gọi là Đại sĩ. Chúng ta thường gọi Quan Âm Đại Sĩ, Phổ Hiền Đại Sĩ. Đại Sĩ cũng như Chánh Sĩ, Chánh là Chánh giác, Chánh Đẳng Chánh Giác. Tương tự Khai sĩ chính là Đại Triệt Đại Ngộ Minh Tâm Kiến Tánh, chúng ta cũng có thể gọi họ là Khai sĩ. Như vậy, Khai Sĩ, Chánh Sĩ, Đại Sĩ đều là tôn xưng của Bồ tát. Lưu ý không được gọi là Đại Sư. Chữ Sư của lão sư gọi Đại Sư, Đại Sư là tôn xưng đối với Phật. Bồ Tát Đẳng giác chỉ có thể gọi là Đại sĩ, không được gọi là Đại sư.

Hiện tại có rất nhiều người xuất gia tự xưng Đại sư. Xưng hô như vậy không tốt, người xưa gọi là qua mặt. Chúng ta chưa thành Phật thì không thể tự xưng Đại sư.

Phật là Đạo Sư của trời người, chúng ta tự xưng Đại sư thì thật quá đáng. Bồ tát Quan Âm còn không dám xưng Đại sư. Văn Thù, Phổ Hiền nhìn thấy Đại sư còn phải đảnh lễ ba lạy, đi nhiễu phía hữu ba vòng. Chúng ta có phước báu lớn như vậy chưa? Đây là thường thức phổ thông cần phải hiểu.

Tôn xưng người là bày tỏ tôn kính đối với họ, thế nhưng nếu vượt quá thì lại biến thành không tôn kính. Ví dụ chúng ta tôn xưng người, nhìn thấy người thì gọi tiên sinh một cách tôn kính, nhưng nếu gọi tổng thống tiên sinh thì lại trở nên quá trớn. Người đó không phải là tổng thống mà chúng ta lại gọi tổng thống tiên sinh, vậy có phải quá tâng bốc một cách phản cảm không? Việc này nhất định phải hiểu. Người xuất gia cũng vậy, gọi họ là Đại sư cũng chẳng khác việc chúng ta gọi một người bình thường là tổng thống tiên sinh, danh phận không phù hợp. Nhiều người ngay đến một chút Phật học thường thức này cũng không biết, cho rằng gọi Đại sưtôn kính mà không biết được ý nghĩa chân thật, việc này không nên.

Chúng ta gọi Ấn Quang Đại sư để tỏ lòng tôn kính sau khi ngài đã viên tịch. Khi ngài còn ở đời, ngài được gọi là pháp sư Ấn Quang, “Ấn Quang Pháp Sư Văn Sao”. Sau khi ngài viên tịch mới đổi thành “Ấn Quang Đại Sư Văn Sao”. Những năm đầu, khi mới đưa ra, Ấn tổ không hề tự xưng là Đại sư, trước mặt ngài, không ai dám gọi ngài là Đại sư, nếu gọi Đại sư, ngài liền mắng ngay.

Nhà Phật có một số cách xưng hô quen thuộc. Nhiều đời trước, các tông phái xưng “tổ sư”, đó là tổ sư của một tông phái nào đó. Người phiên dịch kinh điển gọi là Tam Tạng pháp sư, không hề xưng Đại sư. Tam Tạng Pháp sư thông đạt kinh giáo, “Kinh Sư pháp sư”; thông đạt Luật Tạng xưng “Luật sư”. Những cách xưng hô này khá quen thuộc, không hề nghe nói có Đại sư. Không ai dám dùng cách xưng hô này. Thầy giáo của hoàng đế, gọi là quốc sư. Trong kinh Hoa Nghiêm, Đại sư Thanh Lương là thầy của hoàng đế cũng gọi là quốc sư, không dám xưng Đại sư.

Thế nhưng, chỉ có tổ sư của Tịnh Độ tông mới có thể xưng Đại sư, vì ngài trải qua nhiều đời công nhận. Tịnh Độ tông dạy người một đời bình đẳng thành Phật, tất cả chư Phật đều dùng pháp môn này. Chúng ta ngày nay cũng dùng phương pháp này khuyên người niệm Phật, bình đẳng thành Phật, không hề khác biệt với Phật, cho nên chỉ có tổ sư của Tịnh Độ tông mới có thể xưng Đại sư.

Sứ mạng hộ pháphoằng pháp
Mười sáu vị chánh sĩBồ tát Đẳng Giác tại gia. Các ngài ở cùng thời đại với Thích Ca Mâu Ni Phật. Hiền Hộ là chủ thế giới Ta Bà, mười lăm vị Bồ tát Đẳng Giác tại gia còn lại đều là khách thị hiện từ thế giới phương khác đến. Phật nói pháp môn này chấn động tận hư không khắp pháp giới tất cả cõi nước chư Phật.

Các kinh khác không có sức mạnh như vậy. Chỉ riêng bộ kinh này mới chấn động tận hư không khắp pháp giới. Cho nên Bồ tát mười phương thế giới tự nhiên liền đến tụ họp, ủng hộ trang nghiêm đạo tràng.

Bồ tát đến dự đạo tràng nhiều vô lượng vô biên. Bồ tát Hiền Hộ là chủ phương Đông, nhưng kỳ thực chủ phương Đông không chỉ một mình ngài, vì Bồ tát thế giới Ta Bà rất nhiều. Tuy nhiên, kinh chỉ nêu danh hiệu của ngài để biểu pháp.

Sứ mạng hàng đầu của người tại giahộ pháp, người xuất giahoằng pháp.

Hoằng pháp đương nhiên cũng phải hộ pháp, hoằng và hộ trách nhiệm song song không thể thiếu. Người xuất gia lấy hoằng pháp làm chính, hộ pháp chỉ là phụ trợ.

Còn người tại gia lấy hộ pháp là chính, hoằng pháp chỉ là phụ trợ. Hoằng và hộ đều phải gánh vác. Trong gánh vác có phân ra chủ khách, bốn chúng đồng tu phải hợp tác mật thiết thì Phật pháp mới có thể trụ thế gian, lợi ích chúng sanh.

Ngày nay trong Phật pháp không đoàn kết, nhân lực tài lực thảy đều bị phân tán, tổn thất vô cùng to lớn đối với tất cả chúng sanh. Người chân thật có tâm, muốn đem Phật pháp phổ biến khắp nơi, phổ độ chúng sanh hữu tình thì có thể dùng phương pháp đoàn kết. Tập trung nhân lực, tài lực mới thành công, bởi vì hiện nay người người phân tán, sức mạnh chia nhỏ, làm bất cứ việc gì cũng bị hạn chế, nhân lực, tài lực không đủ, vô cùng đáng tiếc, “lực bất tòng tâm”. Cho nên chỗ này Phật đặt Bồ tát Hiền Thủ ngay vị trí thứ nhất để nhắc nhở chúng ta.

“Hiền” nói về đức, có trí tuệ, có đức năng. “Hộ” là hộ pháp, hộ trì chánh pháp.

Công đức của hộ pháphoằng pháp là như nhau. Thậm chí có thể nói, công việc của hộ pháp vượt hơn hoằng pháp. Thử nghĩ tỉ mỉ xem, nhân tài hoằng pháp không phải không có, tại gia, xuất gia đều rất nhiều, bốn chúng đệ tử nếu muốn phát tâm hoằng dương Phật pháp đều làm được. Cái khó chỉ ở chỗ chúng tahộ pháp đắc lực hay không. Chỉ cần có một hộ pháp đắc lực thì liền có thể làm thành tựu một số việc. Nếu có nhiều hộ pháp thì sự nghiệp hoằng pháp quyết không phải ở chư Phật, chư đại Bồ Tát thị hiện làm ra. Cho nên công đức của hộ pháp không thể nghĩ bàn.

Bản thân tôi đã đích thân trải nghiệm. Khi còn trẻ, tôi ở trong hội của lão Lý Bỉnh học kinh giáo, học giảng kinh. Sau khi học xong, nếu không gặp được Hàn Quán Trưởng, người đã vãng sanh năm trước, không có sự hộ trì từ bà thì dù tôi có năng lực cũng không thể làm gì. Nếu không có người hộ pháp này, có lẽ cuối cùng tôi chỉ có hai con đường để đi, một là theo con đường kinh sám, còn không chịu cam tâm làm kinh sám thì hoàn tục. Chỉ hai con đường, không còn đường nào khác. Bà phát đại tâm, tìm đủ mọi cách, không có đạo tràng thì thuê nhà mượn chỗ để mỗi tuần tôi giảng kinh, ba mươi năm không hề gián đoạn. Mỗi tuần tôi giảng ít nhất năm ngày, khi nhiều thì bảy ngày, ba mươi năm liên tục trên giảng đài. Thực tế còn rất nhiều người giảng hay hơn tôi nhưng không có người hộ trì. Hay nói cách khác, họ không có cơ hội luyện tập trên giảng đài, tài cán của họ rồi cũng bị mai một, không thể tiến triển, đó là việc vô cùng đáng tiếc.

Chúng ta hoằng pháp ra đến phạm vi quốc tế đều là duyên phận. Khi giảng kinh ở Đài Bắc, có mấy vị cư sĩ ở Hongkong trước đó đã từng nghe tôi giảng “Phổ Hiền hạnh nguyện phẩm” tám ngày tại chùa Thiện Đạo, nghe xong rất hoan hỉ, đến khi tình cờ gặp ở Đài Loan, họ yêu cầu tôi đến Hongkong. Tôi đã kết được pháp duyên với Hongkong qua bà Lôi. Mỗi năm bà Lôi đều mời. Suốt gần mười năm từ 1977 đến năm 1987, mỗi năm tôi đều đến Hongkong một hai lần, thời gian dài nhất ở Hongkong là bốn tháng, ngắn nhất cũng không ít hơn một tháng. Sau khi bà Lôi vãng sanh thì không có người mời nữa, duyên này bị đứt đoạn. Do đó không có người hộ pháp, chúng ta muốn hoằng pháp cũng không có cơ hội, như thế mới biết công đức hộ pháp bao lớn. Không có hộ pháp, người ở phương đó không có cơ duyên nghe pháp. Có hộ pháp mời vị pháp sư đến giảng kinh, người ở địa phương được lợi lạc, cho nên công đức của hộ pháp vượt hơn công đức của pháp sư giảng kinh hoằng pháp gấp nhiều lần.

Năm 1987, tôi giảng kinh ở Hongkong, có ba cư sĩ ở Singapore sau khi nghe giảng rất hoan hỉ, nhất định muốn kéo tôi đến Singapore. Trước đó tôi chưa lần nào đặt chân đến đất nước này. Nhờ ba vị hộ pháp nên lần đầu tiên tôi đến Singapore ở mười ngày. Tôi giảng ba lần ở chùa Song Lâm, một lầncư sĩ Lâm, và hai lần ở đoàn Thanh niên hoằng pháp. Đoàn hoằng pháp lúc đó là đạo tràng cũ, khung cảnh rất đẹp. Nhờ giảng nhiều lần, tôi kết duyên với các đồng tu bên đây, quen biết với cư sĩ Lý Mộc Nguyên. Mỗi năm, cư sĩ Lý đều tìm tôi. Năm thứ hai, ông làm đoàn trưởng đoàn hoằng pháp. Khi đoàn quán vừa xây xong, ông lại đến mời. Tôi liền giảng bộ kinh Vô Lượng Thọ. Về sau ông đến cư sĩ Lâm làm tư lý, tôi cũng đến cư sĩ Lâm. Mỗi năm tôi đều giảng theo lời mời của ông. Thử hỏi, nếu không có ông thì ai sẽ mời tôi giảng?

Bất cứ nơi giảng kinh nào trên thế giới, Phật pháp có thể mở mang được hay không đều nhờ sự đắc lực bởi một hai hộ pháp. Họ chân thật tạo công đức, cũng như họ xây trường học làm hiệu trưởng, mở tiệm làm ông chủ, chúng ta là người làm công do họ mời đến. Cho nên hộ pháp là chủ nhân, chủ giáo hóa một phương, công đức vô lượng vô biên. Vào thời xưa, công việc hộ pháp do các vị trụ trì của các tự viện. Trụ trìgiáo chủ một phương, tự viện chính là trường học. Trụ trì cũng giống như hiệu trưởng, có thể không giảng kinh, không nói pháp, mà thỉnh mời pháp sư đến giảng kinh. Trụ trì là hoằng hộ, trách nhiệm đó vượt hơn trách nhiệm của hoằng pháp. Họ chú trọng nhất là làm hộ pháp, không có sự hộ trì của họ thì Phật pháp không thể thường trụthế gian.

Hôm nay chúng ta từ danh hiệu Bồ tát Hiền Hộ mà hiểu được công đức hộ pháp không thể nghĩ bàn. Chúng ta phải học hộ pháp, toàn tâm toàn lực, đặc biệt đối với các pháp sư trẻ tuổi, nếu chúng ta không hộ trì đắc lực thì làm sao họ có thể trưởng thành, làm sao có thể trở thành pháp sư hoằng dương Phật pháp kiệt sức một đời.

Pháp sư giảng kinh quan trọng nhất là rèn luyện trên bục giảng, do đó phải giúp họ lên bục giảng mỗi ngày. Đó chính là phương pháp đốc thúc họ. Là pháp sư trẻ, nếu mọi người thích nghe kinh, nghe giảng kinh thì các vị pháp sư trẻ đành phải giảng mỗi ngày, mỗi ngày không ngủ nghỉ, chắc chắn sẽ thành công. Nếu không có người hộ pháp mời họ giảng kinh, thì dù họ học tốt, sau ba tháng cũng sẽ quên sạch, sau sáu tháng sẽ không thể lên bục giảng. Hộ pháp rất quan trọng, hộ pháp thành tựu pháp sư, có thể khiến chánh pháp thường trụ lâu dài.

Điều cần lưu ý khi hành hộ pháp
Các vị pháp sư xuất gia, tương lai có cơ hội làm trụ trì thì phải tường tận. Trụ trì phải làm công việc của Hiền Hộ, phải biết lễ thỉnh pháp sư. Mời pháp sư như thế nào? Pháp sư phải tương ưng với bổn tông tu học của đại chúng đồng tu mới có thể đạt được lợi ích chân thật. Nếu sự tu học của vị pháp sư này khác với pháp môn của chúng ta, kinh luận nương theo cũng khác nhau, vậy thì không nên mời. Người xưa thường nói “Thà làm động nước ngàn sông, không dám động tâm người tu niệm”, nơi đây đã chọn pháp môn niệm Phật, chuyên tu chuyên hoằng đã có thành tựu nhất định, nếu tôi đến đây giảng Thiền, giảng Mật, thì làm loạn tâm thanh tịnh của các hành giả, nhiễu loạn công phu, phá hoại tu hành, không những không có công đức mà còn có lỗi. Thế nhưng đối với pháp sư, chúng ta phải cung kính cúng dường như nhau.

Khi còn trẻ, mười năm cùng lão cư sĩ Lý Bỉnh Nam, tôi thường quan sát lão cư sĩ ở Đài Trung hoằng hộ Tịnh tông. Pháp sư nơi khác đến Đài Trung, lão Lý Bỉnh lễ mạo cung kính, chu đáo đến ga xe nghinh tiếp hoan nghênh, ông đích thân rước về đạo tràng, hướng đến pháp sư lễ lạy cúng dường, cũng có lúc mở tiệc tiếp đãi, mời pháp sư dùng cơm. Thế nhưng từ đầu đến cuối không hề mời pháp sư giảng khai thị. Tôi quan sát rất lâu, cảm thấy kỳ lạ, nên hỏi: “Thưa thầy, vì sao không thấy thầy mời họ giảng khai thị? Giảng kinh thì đương nhiên không thể bởi vì không có thời gian dài, nhưng nên giảng khai thị cho mọi người?”. Ông mỉm cười nói “Con không hiểu đạo lý này, vị pháp sư này tham thiền, vị pháp sư kia là nghiên cứu, lý tưởng của họ không giống chúng ta. Chúng ta ở nơi đây không dễ gì dẫn dắt mọi người tin vào pháp môn Tịnh độ, trung thực niệm Phật cầu sanh Tây Phương. Khi họ giảng tốt về tham Thiền hay Mật, tức thân thành Phật diệu, những người nơi đây lập tức bị dao động”.

Ngạn ngữ nói rất hay “Hòa thượng bên ngoài tụng kinh giỏi”, mỗi ngày ở cùng nhau không có gì mới lạ, từ nơi khác đến sẽ hiếm lạ. Kiên trì bền bỉ mỗi ngày dạy dỗ, thời gian tổng cộng đến khoảng mười năm, nhưng người bên ngoài đến chỉ mấy tiếng đồng hồ vẫn có thể kéo hành giả đi mất. Đó là do nguyên nhân gì? Chính do chúng ta không có định, không có huệ, không có năng lực phân biệt, khi vừa nghe nói cái đó hay, tâm liền bị dao động, kết quả chính chúng ta bị thiệt thòi. Cho nên lão sư Lý phải hộ pháp, gìn giữ đại chúng của đạo tràng này, chánh tri chánh kiến, gìn giữ tâm thanh tịnh cho đại chúng, nhất định không thể mời người khác đến giảng khai thị.

Người có thể đến giảng khai thị là những vị pháp sư tu Tịnh độ, thành thật niệm Phật. Pháp sư như vậy, khi đến Đài Trung, ông nhất định phải thỉnh mời giảng khai thị. Còn nếu không phải cùng học một pháp môn với chúng ta, không cùng nhau y theo Tịnh độ ba kinh, nhất định không mời. Đây không phải là tâm phân biệt, nhưng chỗ này chúng ta phải học, đó là một chuyên gia chân thậttrí tuệ hộ trì chánh pháp của đại chúng. Ngài Hiền Hộ chân thật làm được, đạo lý này chúng ta không thể không hiểu. Cho nên trụ trì một đạo tràng, đó là con mắt của đại chúng trong đạo tràng. Chúng ta dẫn đầu, những người phía sau đi theo. Người dẫn đường mà đi sai thì những người này thảy đều đi sai hết, do đó người dẫn đường phải chịu trách nhiệm. Con đường đi nhất định phải thuần chánh, quyết không thể sai lầm, ngoài ra còn phải phòng hộ người nơi khác đến làm rối. Hiện nay có không ít đạo tràng chân thậttín tâm, nguyện lực, nhưng cái “tín nguyện” này có kiên cố hay không thì chưa thấy được. Nếu gặp vài người nói một tràng lời ngon ngọt, không ít người trong đại chúng tâm sẽ liền dao động, liền đi theo họ.

Tôi vừa nói việc này với cư sĩ Lý Mộc Nguyên. Lý Mộc Nguyên nêu ra một thí dụ, ông nói “Những người đó đến để câu hết cá của chúng ta đem đi”. Thí dụ này rất có ý nghĩa, đạo tràng của chúng ta giống như ao cá. Đồng tu chúng ta đều như cá nhỏ, những người đó đến câu cá, người hộ pháp phải ngăn cấm. Cho nên phải nhận biết rõ ràng, các đồng tu cũng phải bảo vệ quan điểm. Tịnh tông chúng ta không những cùng nhau tu học, đồng tâm đồng đức cùng tu pháp môn này, chúng ta còn hy vọng tương lai đồng sanh Tịnh độ, cùng nhau ở Hải Hội Liên Trì. Tín tâm nguyện tâm nhất định không được dao động, nhân lực tài lực, tất cả sức mạnh đều phải tập trung đến cư sĩ Lâm, một đạo tràng xưa có hơn sáu mươi năm lịch sử.

Không phải tôi tán thán cư sĩ Lý Mộc Nguyên mà mọi người đều công nhận ông là Bồ tát tái lai, không phải người thông thường. Ông không bao giờ có chút tâm riêng tư, danh vọng lợi dưỡng, năm dục sáu trần thảy đều buông bỏ, khởi tâm động niệm hành vi việc làm đều vì Phật pháp, vì chúng sanh. Một người lãnh đạo như vậy, một thiện tri thức như vậy, tôi đi qua rất nhiều khu vực quốc gia khác, xem thấy rất nhiều đạo tràng nhưng chưa hề thấy qua. Vì vậy khi ông đến tìm, tôi không thể không thuận. Cũng như đầu tư mua bán, nếu gặp ông chủ tốt, có đạo nghĩa, không đến thì có lỗi với ông. Nếu ông có lòng riêng tư, có mục đích, có mưu đồ, tôi nhất định không gặp. Thuần túyPhật pháp, vì chúng sanh, vì an định xã hội, vì mong cầu hòa bình thế giới, tâm nguyện thuần tịnh vĩ đại như vậy, nếu chúng ta không dốc hết chút sức mọn đến giúp đỡ thì cũng có lỗi với đạo tràng và có lỗi với đại chúng xã hội.

Cư sĩ Lý Mộc Nguyên là người lãnh đạo, đặc biệt ba năm gần đây thành lập lớp bồi dưỡng pháp sư trẻ, ông đã đến tìm tôi chia sẻ tâm nguyện này. Do đó tôi tạm thời phải buông công việc hoằng pháp của các đạo tràng khác, tất cả đều dừng lại, toàn tâm toàn lực giúp các pháp sư trẻ tuổi. Đó là nghĩa vụ mà tôi đang dốc sức.

Thế nhưng cần phải có hiệu trưởng, chúng ta đến chỉ làm công, làm giáo viên. Tuổi tác tôi nay đã lớn, Phật pháp nhất định phải có người sau kế tiếp thì mới có tiền đồ, chúng sanh mới có phước báu. Đã đến lúc tôi phải giao ban, công việc hoằng pháp lợi sanh phải giao cho pháp sư trẻ. Khi họ có thể tiếp ban thì tôi liền thoái hưu.

Thoái hưu đến nơi nào? Đương nhiên thế giới Cực Lạc. Việc nơi đây đã làm xong, “Việc làm đã xong, thù lao không nhận”. Những năm cuối đời, chúng ta chỉ còn một việc là dạy học, viết sách, giúp đỡ hậu học, đó là trách nhiệm sau cùng cũng là lớn nhất, hai chữ Hiền Hộ mới có thể làm được viên mãn, chân thật thực tiễn.

Danh hiệu Bồ tát Hiền Hộ hàm nghĩa rất sâu rất rộng, chúng ta phải học tập Bồ tát Hiền Hộ từ danh hiệu của ngài, đem Hiền Hộ áp dụng trên vai chính mình, như vậy chính mình là Hiền Hộ chánh sĩ.

(Còn tiếp ...)

KINH ĐẠI THỪA VÔ LƯỢNG THỌ TRANG NGHIÊM THANH TỊNH BÌNH ĐẲNG GIÁC

Pháp sư: HT. TỊNH KHÔNG

Biên dịch: Vọng Tây cư sĩ

Biên tập: PT. Giác Minh Duyên

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 10179)
Những ai mới bước chân vào cửa Thiền tông đôi khi thường bỡ ngỡ vì thấy pháp tu này có nhiều điểm có vẻ khác biệt so với các tông phái khác trong đạo Phật... Tâm Thái
(Xem: 10603)
Báo Chánh Pháp có mặt để góp phần giới thiệu đạo Phật đến với mọi người... Nguyện san Chánh Pháp - Số Xuân 2014
(Xem: 10202)
Thi hào Vương Duy (701-761) cùng với Đỗ Phủ (712-770) và Lý Bạch (701-762) là ba thi nhân cự phách dưới triều đại của Đường Huyền Tông (685-762)... Hoang Phong
(Xem: 20528)
Trong ngôn ngữ Việt Nam, từ “đau khổ” được dùng để chỉ trạng thái bất như ý, khó chịu và buồn phiền cùng cực... Nguyễn Hữu Đức
(Xem: 11715)
Thiền không xa lạ đối với giới Phật học trong suốt hơn hai ngàn năm qua. Cá nhân tôi, trong những năm gần đây cũng áp dụng Thiền song song với thuốc cần thiết để chữa bệnh, kết quả rất tốt... Hồng Quang
(Xem: 13878)
48 Lời Nguyện của Phật A Di Đà song ngữ Việt - Anh; Hán dịch: Khương Tăng Khải, Việt dịch: HT Thích Trí Tịnh; Sưu tập: Tuệ Uyển
(Xem: 19242)
Kính nguyện quyển sách nhỏ này có thể giúp đỡ thật sự những đồng tu, đại đức có duyên, được lìa khổ được vui, liễu sanh thoát tử... Pháp Sư Tịnh Không
(Xem: 46816)
Thiền tông lấy bản tâm làm chủ, nên sự tu hành của Thiền sư là sống trở lại với ông chủ của mình, trong mọi hành động, mọi thời gian... HT Thích Thanh Từ
(Xem: 12147)
Thiền cứu tôi từ tuyệt vọng hơn một lần. Trong những giai đoạn bệnh hoạn trầm trọng nhất, tôi đã được cứu bằng nhận thức rằng kinh nghiệm đau đớn chỉ là nhất thời... Huỳnh Kim Quang
(Xem: 11745)
100 Bài Kệ Niệm Phật - Liên Tông Thập Nhị Tổ Triệt Ngộ Ðại Sư, Thích Thiền Tâm dịch
(Xem: 23231)
Niệm Phật Vô Tướng - Lí Luận và Nhập Môn Pháp Môn Niệm Phật Viên Thông của Bồ Tát Đại Thế Chí, Nguyên tác: Tiêu Bình Thật cư sĩ, Cư sĩ Hạnh Cơ dịch
(Xem: 17939)
Ông Bàng Uẩn (tên Trung Hoa là P'ang Yun, theo cuốn A Man of Zen, của R.F. Sasaki, Y. Iriya và D.R. Fraser) người huyện Hành Dương, Trung Hoa, tự là Ðạo Huyền (Tao-hsuan) sinh khoảng năm 740 và chết năm 808... Dương Đình Hỷ
(Xem: 10217)
"Ở đời vui đạo hãy tuỳ duyên, Đói đến thì ăn, mệt ngủ liền. Trong nhà có báu thôi tìm kiếm, Đối cảnh không tâm chớ hỏi thiền." Thích Đạt Ma Phổ Giác
(Xem: 17895)
Bài khảo luận này là của tác giả Wendy Woods, sinh quán Toronto, Canada, chủ nhân của Watershed Training Solutions, một công ty do bà sáng lập vào năm 2003... Tâm Huy Huỳnh Kim Quang
(Xem: 13992)
“Nếu chúng ta chia quả đất này thành từng mảnh nhỏ như những hạt cỏ, số lượng những mảnh này không lớn bằng số lượng lần mà mỗi chúng sanh đã là cha mẹ ta”... Karen Villanueva, Nguyên Hiệp dịch
(Xem: 14141)
"Một lòng kính lạy Phật Đà, Ngàn đời con nguyện ở nhà Như Lai, Con hằng mặc áo Như Lai, Con ngồi pháp tọa Như Lai muôn đời"... Tịnh Bình
(Xem: 15190)
Càng lớn con càng thương Mẹ hơn, Tình dâng cao vút đỉnh liên sơn, Tháng năm đời có thêm cay đắng, Mẹ gánh oằn vai chút chẳng sờn... Thích Minh Tuệ
(Xem: 20370)
Thời gian trôi, tiếng đồn về Mẹ ngài bèn gửi thư đi cho ngài: "Con ơi! Mẹ nghĩ kỹ rồi Hiến mình cho Phật, cho nơi đạo mầu
(Xem: 18374)
Thiền sư bước đến lặng yên, Rồi dùng thiền trượng gõ lên quan tài Người ta nghe tiếng của ngài...
(Xem: 17522)
Khuyên con chữ hiếu lo tròn Không thời quả báo sẽ luôn dữ dằn Từ đây kính mẹ, ăn năn Ai hơn mẹ quý, ai bằng tình thâm
(Xem: 18273)
Viết về cuộc đời giác ngộ của những Thiền Sư là viết về một cái không vĩ đại, rỗng suốt, trong veo... Như Hùng
(Xem: 12785)
Một thời đức Phật ngự tại núi Kỳ Xà Quật gần thành Vương Xá nước Ma Kiệt với mấy nghìn Tỳ Kheo, mấy vạn Bồ Tát, và vô số trăm nghìn Chư Thiên rải hoa trỗi nhạc cúng dường Phật... Toàn Không
(Xem: 12931)
Những lời khuyên này, ta muốn nói với Dagmema. Hãy bình tâm, đừng trộn lẫn tâm ấy với những gì thế tục. Hãy đánh thức sự kiên địnhbuông bỏ niềm đau.
(Xem: 13515)
Xuân qua thu lại, cùng thời gian này vào năm tới, vô số người sẽ gặp phải cái chết của mình. Ai có thể quả quyết rằng bạn không phải là một người trong số đó?
(Xem: 17105)
Đây là một cuốn sách quý, đúc kết kinh ngiệm trên 25 năm giảng dạy Phật pháp và hướng dẫn hành thiền của Thiền sư Ajaham tại Úc và các nước Đông Nam Á...
(Xem: 11535)
Tinh yếu của thiền trước tiên là quay cái nhìn vào bên trong tự thể. Muốn như thế chúng ta cần phải biết sử dụng 3 phương tiện...
(Xem: 18369)
“Niệm Phật” là pháp môn lấy ngay cái nhân địa Phật để tu thành Phật, nhờ đó mà chúng sanh tiết kiệm cả triệu đời khổ cực tu hành trong sanh tử tử sanh...
(Xem: 18673)
Đạo sư Padma nói: Hãy thực hành Pháp thập thiện và hãy có niềm tin vào cái nên tránh và cái nên làm theo các loại hậu quả trắng và đen của những hành động ấy.
(Xem: 21482)
Theo giáo lý đạo Phật, tâm là nhân tố chính trong mọi sự kiện hay việc xảy ra. Một tâm lừa dối là nguyên nhân của mọi kinh nghiệm mùi vị của samsara...
(Xem: 22265)
Bồ đề tâm, nghĩa là “tư tưởng giác ngộ”, nó có hai phương diện, một hướng đến tất cả chúng sanh và một tập trung vào trí huệ.
(Xem: 16957)
Nghi quỹ tu Pháp Đức Phật - Bổn Sư Shakya Năng Nhân Vương này có tên là “Kho tàng gia trì - Nghi quỹ Đức Phật” được dịch từ Tạng văn sang Việt văn...
(Xem: 12627)
Mỗi năm gần đến ngày Phật đản, Phật tử chúng ta lại có dịp suy ngẫm về bối cảnh lịch sử - xã hội, trong đó Đức Phật thị hiệnđạo Phật ra đời...
(Xem: 15376)
Thiên thượng thiên hạ, Duy ngã độc tôn. Nhất thiết thế gian, Sinh lão bệnh tử... HT Thích Thanh Từ
(Xem: 24769)
Năm 623 trước Dương lịch, vào ngày trăng tròn tháng năm, tức ngày rằm tháng tư Âm lịch, tại vườn Lâm Tỳ Ni (Lumbini) xứ Ấn Độ...
(Xem: 14288)
Ý nghĩa ra đời của Thái tử là một hàm ý trọng đại xác định Phật tính trong mỗi chúng sanh khi đã hoàn giác thì cái “duy ngã” đó là một tối thượng...
(Xem: 11699)
Thiền Và Chỉ Quán - Nguyên tác: Thiên Thai Trí Khải, Paul L. Swanson biên soạn, Từ Hoa Nhất Tuệ Tâm dịch
(Xem: 19886)
Pháp bản như vô pháp, Phi hữu diệc phi vô, Nhược nhân tri thử pháp, Chúng sanh dữ Phật đồng... Thiền sư Huệ Sinh
(Xem: 13501)
Đức Phật, vô cùng thực tếthiện xảo, đã khai thị bằng vô số giáo pháp theo các cấp độ vi tế khác nhau nhằm giúp chúng sinh tiếp cận và thâm nhập thực tại.
(Xem: 22902)
Chúng ta nên thiền quán về đức Tara để trưởng dưỡng Bồ đề tâm từ sâu thẳm trong trong tim, phát triển tình yêu thươnglòng bi mẫn mạnh mẽ, đích thực...
(Xem: 19099)
Đức Văn Thù được kính ngưỡng là vị Bản Tôn của Trí tuệ Căn bản. Trí tuệ Văn Thù chính là Trí tuệ của mười phương ba đời chư Phật.
(Xem: 18533)
Bằng cách chúng ta tu tập quán tưởng Đức Phật Quán Thế Âm, sự hiện thân của Ngài chính là hiện thân của sự hợp nhất giữa trí tuệtừ bi...
(Xem: 21699)
Những Đạo sưcuộc đời được ghi chép trong quyển sách này là một số vị trong nhiều cá nhân hiếm hoi mà chúng ta có được ở Tây Tạng...
(Xem: 20588)
Hương quyện của đất trời, sắc màu của trần gian, hai bờ của phân ly, hai ngã của mê ngộ, một sự thảnh thơi nhẹ bước...
(Xem: 20129)
Thực hành Bổn tôn là phương pháp đặc biệt và lớn lao để nhanh chóng chuyển hóa những sự hiện hữu thế tục mê mờ thành sự giác ngộ.
(Xem: 14163)
Được thành lập vào cuối những năm 1960, trải qua 50 năm có lẽ, đến nay Thubten Choling là một trung tâm đào tạo Phật giáo Tây Tạng hàng đầu của trường phái Nyingma...
(Xem: 15080)
Sau khi định tâm, tôi nhắm mắt tưởng nhớ đến Thánh: “Hôm nay con thấy vô cùng hạnh phúc được đặt chân lên Tu viện, nơi Thánh Trulshik và các vị đạotu hành...
(Xem: 13853)
Phật tử nên tin sâu vào nhân quả, tin vào đạo lý vô thường, duyên sinh, huyễn mộng của các pháp... Thích Thông Huệ
(Xem: 15190)
Khác với Trung Quốc và một số quốc gia khác, rồng không hiện hữu nơi niềm tin của người Ấn... Nghiệp Đức
(Xem: 17308)
Theo những nghiên cứu lâu dàicẩn trọng, Đức Đạt Lai Lạt Ma đã mạnh mẽ can ngăn các Phật tử Tây Tạng trong việc xoa dịu tinh linh hung tợn được gọi là Shugden (Dolgyal).
(Xem: 15365)
Nụ cười của Ngài cũng là sự thể hiện hai đức hạnh quý báu trong đạo Phật, đó là hỷ, xả. Có hỷ, xả chúng ta mới nở nụ cười vui tươi chân thật, hạnh phúc, an lạc.
(Xem: 12869)
Những lời thuyết giảng của vị sư già đã mang lại cho chị một tâm hồn phong phú, bén nhạy và nhiều yêu thương hơn.
(Xem: 15962)
Từ bi không chỉ là đồng cảm. Trên thực tế, nó là tâm hiểu được sự bình đẳng, bình đẳng giữa bản thân và người khác, giữa tốt và xấu, bình đẳng trong mọi hiện tượng nhị nguyên.
(Xem: 13059)
Lama Lhundrup dùng sự biểu hiện của bệnh tật để thực hành pháp Tonglen cho chúng sanh, và Ngài thường bảo người khác gởi hết cho Ngài mọi sự lo âu...
(Xem: 13207)
Những người mới bắt đầu nên tập trung vào việc chắc chắn rằng động cơ của họ là thanh tịnh, và cầu nguyện chí thành đến vị thầy gốc. Đây là thực hành tốt nhất.
(Xem: 15106)
Mùa xuân gần kề với niềm tin sức sống mới. Hãy tu để chuyển nghiệp! Đức Phật đã dạy như vậy! Bất kỳ hoàn cảnh nào chúng ta cũng có thể tu được...
(Xem: 22727)
Luận văn trẻ trung tuyệt vời này đưa ra phương pháp tiếp cận dựa trên truyền thống, vạch ra các giai đoạn của con đường.
(Xem: 7230)
An-ban thiền được thành lập trên nền tảng là kinh An-ban Thủ Ý và kinh Ấm Trì Nhập. Ngài An Thế Cao dịch có kinh An-ban Thủ Ý, Ấm Trì Nhập chuyên nói về thiền định...
(Xem: 19428)
Tara là hiện thân lòng từ bi của chư Phật ba thời, quá khứ, hiện tạivị lai. Bà là vị Thánh nữ có khả năng thực hiệnhoàn thành mọi hoạt động giác ngộ của chư Phật.
(Xem: 37837)
Thật ra, là hoàn toàn sai lầm khi nói rằng tôn nam này kết hợp với tôn nữ kia. Đúng ra phải nói rằng trong Tự Tánh hiển lộ ra một hình tướng bất nhị.
(Xem: 9267)
Nguyên tác Hoa ngữ của “66 cầu thiền ngữ” này là “Lục thập lục điều kinh điển thiền ngữ”
(Xem: 8739)
Giả sử khi tôi thành Phật, nước tôi còn có địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh thì tôi chẳng lấy ngôi chánh giác.
(Xem: 17976)
Không tách lìa hiện tướngtánh không. Đây chính là chánh kiến, chẳng còn gì sở đắc được hơn.
(Xem: 14952)
Thiền là một con đò dùng để đưa người rời bỏ bờ khổ đau và vô minh để tới bờ của an lạcgiải thoát...
(Xem: 27126)
Về môn Niệm Phật, tuy giản dị nhưng rất rộng sâu. Điều cần yếu là phải chí thành tha thiết, thì đạo cảm ứng mới thông nhau, hiện đời mới được sự lợi ích chân thật.
(Xem: 20012)
Do nhờ định lực niệm Phật của mình cảm ứng với từ lực của Đức Phật A-Di-Đà thì lập tức cảnh “ác đạo” sẽ được chuyển hóa thành cảnh “Cực lạc”...
(Xem: 15334)
Một câu niệm Phậttâm yếu của đức Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni. Tâm yếu, cũng gọi là tông, là yếu chỉ tức sắc tức không của cảnh giới chân tâm...
(Xem: 15548)
Một câu A Di Đà Lộ tánh diệu chân như Sắc xuân nơi hoa sáng Muôn tượng ẩn gương xưa.
(Xem: 26865)
Tâm chân thành là tâm Phật, bạn với Phật là đồng tâm. Bốn hoằng thệ nguyện là đồng nguyện với Phật...
(Xem: 14631)
Nếu ta tiếp cận Pháp như những đứa trẻ con, ta có thể nhớ lại giây phút đầu tiên ta gặp Giáo Pháp, nó trở nên quan trọng đối với ta ra sao...
(Xem: 19796)
Mục đích chính yếu của sự hóa hiện của một vị tái sanh là để tiếp tục công việc chưa hoàn tất của vị tiền nhiệm để hộ trì Giáo pháp và [hóa độ] chúng sinh.
(Xem: 14702)
Đức Tara nhanh chóng giúp bạn thành công trong việc đạt được hạnh phúc tối hậu của giác ngộ. Bạn nhận lãnh rất nhiều công đức tốt lành, hay nguyên nhân của hạnh phúc...
(Xem: 18722)
Mắt mở nửa chừng, hãy dịu dàng cảm nhận từng hơi thở vào và ra. Và cảm nhận rằng toàn thân bạn đang dịu dàng thở.
(Xem: 16004)
Nếu giáo Pháp của Đức Phật vẫn còn hiện hữu và con có một niềm tin vững chắc thì đơn giản con đã tích lũy rất nhiều công đức trong quá khứ.
(Xem: 16426)
Danh hiệu Phật Bồ Tát đại từ đại bi vô lượng vô biên biểu trưng trí tuệ của tự tánh vô lượng vô biên, đức năng vô lượng vô biên...
(Xem: 19459)
Cầu vãng sanh tức là cầu “Nhất niệm tương ưng nhất niệm Phật”, tương ứng với đại nguyện của Đức A-Di-Đà Phật để Đức A-Di-Đà Phật độ thoát chúng ta.
(Xem: 19829)
Pháp môn của Phật bình đẳng, đó là Khế Lý. Ứng hợp được với căn cơ của mình, chọn lựa cho đúng, hành cho đúng theo khả năng của mình là Khế Cơ, chúng ta được thành tựu.
(Xem: 19980)
Để cho người bệnh có được một cái vốn căn bản, thì đầu tiên chúng ta nên cố gắng hướng dẫn cho người hộ niệm cái vốn căn bản vững vàng trước.
(Xem: 18673)
Quyết chí tử hạ thủ công phu, lấy bốn chữ A-di-đà Phật hay sáu chữ Nam-mô A-di-đà Phật làm bổn mạng của mình, ngày đêm dõng mãnh Lão thật niệm Phật, không mỏi mệt...
(Xem: 29937)
Sự khai triển của Phật giáo đại thừa kết hợp với các dân tộc có nền văn hóa khác nhau đưa đến sự xuất hiện nhiều trình độ hiểu biết Phật giáo rất đặc sắc.
(Xem: 14628)
Tôi thấy thầy trao cho Út Huy gói quà, thằng nhóc vừa đưa tay nhận lấy, thầy lại móc túi áo lấy ra một chai dầu nóng dúi vào tay nó. Xong, thầy xoa đầu nó âu yếm...
(Xem: 17838)
“Lời Cầu nguyện Đức Kim Cương Trì” là tập hợp hai bài giảng riêng biệt của ngài Tai Situpa. - Người dịch: Nguyên Toàn - Hiệu đính: Thanh Liên.
(Xem: 32553)
Tịnh độ giáo là một tông phái thuộc Phật giáo Đại thừa, tín ngưỡng về sự hiện hữu của chư Phật và tịnh độ của các Ngài; hiện tại nương nhờ lòng từ bi nhiếp thụ của Phật-đà...
(Xem: 15337)
Quán các pháp chẳng thường chẳng đoạn, cũng chẳng phải có, chẳng phải không, chỗ tâm hành diệt, ngôn thuyết cũng bặt dứt. Đó gọi là quán sâu xa thanh tịnh.
(Xem: 17381)
Quyển "Thiền tông quyết nghi tập" này do thiền sư Đoạn Vân Trí Triệt soạn vào đời Nguyên, được ấn hành vào niên hiệu Khang Hi thứ 6 (1667) đời Thanh...
(Xem: 29861)
Những lời khuyên dạy trong những trang sau đây đều căn cứ trên kinh nghiệm thực hành của Ngài Thiền Sư Ashin Tejaniya.
(Xem: 31652)
Qua quyển sách mỏng này, Susan đã chia sẻ rất chân thật các tâm trạng mà bà phải trải qua trong tuổi già...
(Xem: 64861)
Một thuở nọ Thế-tôn an-trụ Xá-vệ thành Kỳ-thụ viên trung, Mục-liên mới đặng lục-thông, Muốn cho cha mẹ khỏi vòng trầm-luân.
(Xem: 32920)
Đức Phật dạy chúng ta hãy vất bỏ mọi thái cực. Đó là con đường thực hành chân chính, dẫn đến nơi thoát khỏi sanh tử. Không có khoái lạc và đau khổ trên đường này...
(Xem: 20312)
Niệm Phật đúng pháp là tâm tiếng hiệp khắn nhau. Tiếng ở đâu thì tâm ở đó, tâm ở đâu thì tiếng ở đó.
(Xem: 18589)
Hiện tại chúng ta đang sở hữu thân người quý giá và đã gặp được giáo lý Phật Đà. Nhờ sự gia trìlòng từ ái của chư đạo sư, chúng ta có thể thọ nhận, nghiên cứuthực hành giáo pháp.
(Xem: 30908)
Từng Bước Nở Hoa Sen - Chén trà trong hai tay, Chánh niệm nâng tròn đầy, Thân và tâm an trú, Bây giờ ở đây... Thích Nhất Hạnh
(Xem: 19995)
Thực hành Kim Cương thừa được bắt đầu thông qua một quán đảnh. Để hiệu quả, quán đảnh đòi hỏi sự chứng ngộ của đạo sư, bậc trao truyền nó, cũng như sự tin tưởngtrí thông minh của đệ tử nhận nó.
(Xem: 45988)
Thái độ nói ôn hòa điềm đạm sẽ làm tăng thêm uy tín cho người nói, gây dựng được một thiện cảm để người ta muốn nghe. Cuối cùng cái cốt lõiý thức của ta qua lời nói...
(Xem: 32692)
Khi bạn duy trì được chánh niệm trong mọi lúc, tâm bạn sẽ luôn luôn mạnh mẽ và đầy sức sống, rất trong sángan lạc. Bạn cảm thấy nội tâm mình vô cùng thanh tịnh và cao thượng.
(Xem: 39443)
Đa Văn từ lâu được nổi tiếng là nghe nhiều, nhớ giỏi. Hôm kia, chẳng biết suy nghĩ được điều gì mà chú hăm hở chạy vào gặp nhà sư, lễ phép và khách sáo nói...
(Xem: 40547)
Mục đích của cuộc đời chúng ta là để trưởng thành, là để giải quyết các vấn đề của mình một cách chánh niệmý nghĩa. Trí tuệ sẽ đến và chánh niệm cũng đến cùng.
(Xem: 50256)
Khi bạn tiếp tục tiến tới trên đạo lộ một cách đúng đắn, với ý định trở thành một con người giác ngộ, bạn phải kiểm soát tâm theo đúng cách...
(Xem: 19161)
Hệ thống Phật giáo Đại thừa được hình thành vào khoảng trước sau thế kỷ thứ nhất ở những vùng Nam Ấn Độ với chủ trương “Thượng cầu Phật đạo, hạ hóa chúng sinh”...
(Xem: 18614)
Luật nhân quả khiến chúng ta phải trải qua những kết quả của việc ta đã làm. Những nơi mà chúng ta trải qua sự chín muồi của nghiệp được gọi là sáu cõi luân hồi.
(Xem: 20762)
Việc chúng ta được sinh ra làm người mang lại cho ta cơ hội và thuận lợi để thực hành Pháp và cho ta con đường dẫn tới truyền thống bao lasâu xa của Phật Pháp.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant