Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Phần 3

09 Tháng Giêng 201511:49(Xem: 10980)
Phần 3

KINH ĐẠI THỪA VÔ LƯỢNG THỌ (PHẦN 3)


Pháp Sư Tịnh Không

PHẨM II: “ĐỨC TUÂN PHỔ HIỀN”
Trọng trách của hành giả tu tại gia
Phẩm thứ hai tiếp nối phẩm thứ nhất. Vì sao Hạ lão cư sĩ không đem hai phẩm này hợp lại thành một?

Lần hội tập đầu tiên, hai phẩm này đích thực hợp chung trong một phẩm. Có thể tham khảo phán khoa của lão pháp sư Từ Chu để chứng thực. Hạ lão ban đầu hội tập, pháp sư Từ Chu đã làm phán khoa cho ông. Không những thế, pháp sư Từ Chu còn đem bổn hội tập này giảng lần đầu ở Tế Nam, lúc đó quyển kinh tổng cộng phân thành ba mươi bảy phẩm, không phải bốn mươi tám phẩm như hiện tại. Có lẽ Hạ lão dựa theo Ba mươi bảy phẩm trợ đạophân chia. Sau đó không ngừng tu đính, sửa đổi. Sửa đổi đến mười lần mới thành bản gốc, đem toàn kinh này phân thành bốn mươi tám phẩm. Chắc chắn căn cứ vào Bốn mươi tám nguyện của Phật A Di Đà. Chính vì thế mà phẩm thứ nhất được phân làm hai phẩm.

Thế nhưng, vì sao không đem Bồ Tát tại gia phân vào phẩm thứ nhất trong khi họ đều là biểu pháp, tại sao Hạ lão lại phân đoạn ngay chỗ này? Nhất định ông có dụng ý sâu sắc. Đoạn người tại gia được phân thành đoạn riêng biệt là để nhắc nhở chúng ta rằng pháp môn bộ kinh này chủ yếu độ hành giả tại gia, không nên cho rằng chỉ có người xuất gia mới có thể tu hành ngay đời thành Phật, còn người tại gia nghiệp chướng sâu nặng nên không có phần. Hạ lão phân đoạn ở đây chính là bảo chúng ta không nên hoài nghi. Người tại gia có thể ngay trong một đời bình đẳng thành Phật. Giáo nghĩa quyển kinh, cùng với bổn nguyện của Phật A Di Đà xác thực rất tương ứng nhau. Đó là huệ nhãn đặc thù của Hạ lão cư sĩ. Cho nên kinh này đích thực lấy người tại gia làm chủ.

Sơ lược biểu pháp của mười sáu vị Bồ tát tại gia
Bồ tát tại gia có hơn mười sáu vị, thảy đều là Bồ tát Đẳng Giác hiện thân tại gia, địa vị của họ cùng Văn Thù, Phổ Hiền, Quán Âm, Thế Chí không hề khác nhau.

Trong nhà Phật, phần nhiều Phật thị hiện hình tướng của người xuất gia, Bồ tát phần lớn thị hiện hình tướng tại gia. Ở Trung Quốc, tứ đại danh sơn, bốn đại Bồ tát là trụ cột trong pháp Đại thừa. Trong bốn vị Bồ tát chỉ có Bồ tát Địa Tạngthị hiện tướng xuất gia. Lý do vào thời nhà Đường, vương tử của Cao Ly xuất gia, đến núi Cửu Hoa, Trung Quốc. Sau này chúng ta mới biết được ngài là hóa thân của Bồ tát Địa Tạng, cho nên tạo tượng Bồ tát Địa Tạng thành hình tướng xuất gia. Còn Bồ tát Quan Âm Nam Hải, Bồ tát Văn ThùNgũ Đài, Nga Mi Tứ Xuyên Bồ tát Phổ Hiền đều là hình tướng tại gia. Ngay đến Bồ tát Di Lặc, nếu đến Bắc Kinh đi tham quan cung Ung Hòa, chúng ta sẽ thấy Bồ tát Di Lặc cũng là hình tướng tại gia.

Thế nhưng tập quán ở Trung Quốc đắp tượng Bồ tát Di Lặc lại đắp Hòa thượng Bố Đại hình tướng xuất gia. Hòa thượng Bố Đại xuất hiện ở triều Tống, thời đại Cao Tông Nam Tống, cùng thời đại với Nhạc Phi. Trước khi ngài Bố Đại viên tịch, có nói với mọi người rằng ngài là hóa thân của Bồ tát Di Lặc đến đây. Nói xong ngài liền viên tịch. Trong nhà Phật, chư Phật, Bồ tát hóa thân tái lai, tuyệt nhiên không bao giờ bộc lộ thân phận. Khi thân phận vừa bị lộ thì nhất định sẽ đi ngay. Còn nếu thân phận bị lộ mà vẫn chưa đi thì đó là giả, không phải thật. Hiện nay chúng ta nghe nói ở rất nhiều nơi có vị pháp sư nào đó là Phật gì đó tái lai, vị cư sĩ nào đó là Bồ tát gì đó tái lai, nói rồi lại không chịu đi, như vậy việc này không đáng tin, lộ thân phận mà không đi là giả, tuyệt đối không phải thật.

Số lượng Bồ tát đến tham dự vượt qua một vạn hai ngàn người, cõi này phương khác, Bồ tát các tinh cầu khác cũng đến tham dự pháp hội, vô lượng vô biên Bồ tát trong cõi nước chư Phật đều đến tham gia, chúng Bồ tát rất đông, tuy nhiên kinh chỉ nêu ra mười sáu vị. Mười sáu vị này là biểu pháp, đại biểu viên mãn. Trong Phật pháp, chúng ta có hiển có mật. Biểu pháp trong hiển giáo, kinh Di Đà, số bảy đại biểu viên mãn, không phải chữ số. Bảy chỉ đông, nam, tây, bắc, thượng, hạ, trung, tất cả biểu thị viên mãn. Kinh Hoa Nghiêm dùng mười đại biểu viên mãn, cũng không phải chữ số. Trong Mật tông thường dùng mười sáu là đại biểu viên mãn, cũng không phải là chữ số. Nơi nơi hiển thị đại biểu viên mãn của Phật pháp.

Cho nên danh hiệu của mười sáu vị này cũng là biểu pháp. Chúng ta phải lưu ý không nên bỏ lỡ. Mười sáu vịBồ tát Đẳng giác tại gia.

Ý nghĩa trong cách tôn xưng
Chánh Sĩ là tên riêng của Bồ tát. Bồ tát thông thường được gọi là Đại sĩ. Chúng ta thường gọi Quan Âm Đại Sĩ, Phổ Hiền Đại Sĩ. Đại Sĩ cũng như Chánh Sĩ, Chánh là Chánh giác, Chánh Đẳng Chánh Giác. Tương tự Khai sĩ chính là Đại Triệt Đại Ngộ Minh Tâm Kiến Tánh, chúng ta cũng có thể gọi họ là Khai sĩ. Như vậy, Khai Sĩ, Chánh Sĩ, Đại Sĩ đều là tôn xưng của Bồ tát. Lưu ý không được gọi là Đại Sư. Chữ Sư của lão sư gọi Đại Sư, Đại Sư là tôn xưng đối với Phật. Bồ Tát Đẳng giác chỉ có thể gọi là Đại sĩ, không được gọi là Đại sư.

Hiện tại có rất nhiều người xuất gia tự xưng Đại sư. Xưng hô như vậy không tốt, người xưa gọi là qua mặt. Chúng ta chưa thành Phật thì không thể tự xưng Đại sư.

Phật là Đạo Sư của trời người, chúng ta tự xưng Đại sư thì thật quá đáng. Bồ tát Quan Âm còn không dám xưng Đại sư. Văn Thù, Phổ Hiền nhìn thấy Đại sư còn phải đảnh lễ ba lạy, đi nhiễu phía hữu ba vòng. Chúng ta có phước báu lớn như vậy chưa? Đây là thường thức phổ thông cần phải hiểu.

Tôn xưng người là bày tỏ tôn kính đối với họ, thế nhưng nếu vượt quá thì lại biến thành không tôn kính. Ví dụ chúng ta tôn xưng người, nhìn thấy người thì gọi tiên sinh một cách tôn kính, nhưng nếu gọi tổng thống tiên sinh thì lại trở nên quá trớn. Người đó không phải là tổng thống mà chúng ta lại gọi tổng thống tiên sinh, vậy có phải quá tâng bốc một cách phản cảm không? Việc này nhất định phải hiểu. Người xuất gia cũng vậy, gọi họ là Đại sư cũng chẳng khác việc chúng ta gọi một người bình thường là tổng thống tiên sinh, danh phận không phù hợp. Nhiều người ngay đến một chút Phật học thường thức này cũng không biết, cho rằng gọi Đại sưtôn kính mà không biết được ý nghĩa chân thật, việc này không nên.

Chúng ta gọi Ấn Quang Đại sư để tỏ lòng tôn kính sau khi ngài đã viên tịch. Khi ngài còn ở đời, ngài được gọi là pháp sư Ấn Quang, “Ấn Quang Pháp Sư Văn Sao”. Sau khi ngài viên tịch mới đổi thành “Ấn Quang Đại Sư Văn Sao”. Những năm đầu, khi mới đưa ra, Ấn tổ không hề tự xưng là Đại sư, trước mặt ngài, không ai dám gọi ngài là Đại sư, nếu gọi Đại sư, ngài liền mắng ngay.

Nhà Phật có một số cách xưng hô quen thuộc. Nhiều đời trước, các tông phái xưng “tổ sư”, đó là tổ sư của một tông phái nào đó. Người phiên dịch kinh điển gọi là Tam Tạng pháp sư, không hề xưng Đại sư. Tam Tạng Pháp sư thông đạt kinh giáo, “Kinh Sư pháp sư”; thông đạt Luật Tạng xưng “Luật sư”. Những cách xưng hô này khá quen thuộc, không hề nghe nói có Đại sư. Không ai dám dùng cách xưng hô này. Thầy giáo của hoàng đế, gọi là quốc sư. Trong kinh Hoa Nghiêm, Đại sư Thanh Lương là thầy của hoàng đế cũng gọi là quốc sư, không dám xưng Đại sư.

Thế nhưng, chỉ có tổ sư của Tịnh Độ tông mới có thể xưng Đại sư, vì ngài trải qua nhiều đời công nhận. Tịnh Độ tông dạy người một đời bình đẳng thành Phật, tất cả chư Phật đều dùng pháp môn này. Chúng ta ngày nay cũng dùng phương pháp này khuyên người niệm Phật, bình đẳng thành Phật, không hề khác biệt với Phật, cho nên chỉ có tổ sư của Tịnh Độ tông mới có thể xưng Đại sư.

Sứ mạng hộ pháphoằng pháp
Mười sáu vị chánh sĩBồ tát Đẳng Giác tại gia. Các ngài ở cùng thời đại với Thích Ca Mâu Ni Phật. Hiền Hộ là chủ thế giới Ta Bà, mười lăm vị Bồ tát Đẳng Giác tại gia còn lại đều là khách thị hiện từ thế giới phương khác đến. Phật nói pháp môn này chấn động tận hư không khắp pháp giới tất cả cõi nước chư Phật.

Các kinh khác không có sức mạnh như vậy. Chỉ riêng bộ kinh này mới chấn động tận hư không khắp pháp giới. Cho nên Bồ tát mười phương thế giới tự nhiên liền đến tụ họp, ủng hộ trang nghiêm đạo tràng.

Bồ tát đến dự đạo tràng nhiều vô lượng vô biên. Bồ tát Hiền Hộ là chủ phương Đông, nhưng kỳ thực chủ phương Đông không chỉ một mình ngài, vì Bồ tát thế giới Ta Bà rất nhiều. Tuy nhiên, kinh chỉ nêu danh hiệu của ngài để biểu pháp.

Sứ mạng hàng đầu của người tại giahộ pháp, người xuất giahoằng pháp.

Hoằng pháp đương nhiên cũng phải hộ pháp, hoằng và hộ trách nhiệm song song không thể thiếu. Người xuất gia lấy hoằng pháp làm chính, hộ pháp chỉ là phụ trợ.

Còn người tại gia lấy hộ pháp là chính, hoằng pháp chỉ là phụ trợ. Hoằng và hộ đều phải gánh vác. Trong gánh vác có phân ra chủ khách, bốn chúng đồng tu phải hợp tác mật thiết thì Phật pháp mới có thể trụ thế gian, lợi ích chúng sanh.

Ngày nay trong Phật pháp không đoàn kết, nhân lực tài lực thảy đều bị phân tán, tổn thất vô cùng to lớn đối với tất cả chúng sanh. Người chân thật có tâm, muốn đem Phật pháp phổ biến khắp nơi, phổ độ chúng sanh hữu tình thì có thể dùng phương pháp đoàn kết. Tập trung nhân lực, tài lực mới thành công, bởi vì hiện nay người người phân tán, sức mạnh chia nhỏ, làm bất cứ việc gì cũng bị hạn chế, nhân lực, tài lực không đủ, vô cùng đáng tiếc, “lực bất tòng tâm”. Cho nên chỗ này Phật đặt Bồ tát Hiền Thủ ngay vị trí thứ nhất để nhắc nhở chúng ta.

“Hiền” nói về đức, có trí tuệ, có đức năng. “Hộ” là hộ pháp, hộ trì chánh pháp.

Công đức của hộ pháphoằng pháp là như nhau. Thậm chí có thể nói, công việc của hộ pháp vượt hơn hoằng pháp. Thử nghĩ tỉ mỉ xem, nhân tài hoằng pháp không phải không có, tại gia, xuất gia đều rất nhiều, bốn chúng đệ tử nếu muốn phát tâm hoằng dương Phật pháp đều làm được. Cái khó chỉ ở chỗ chúng tahộ pháp đắc lực hay không. Chỉ cần có một hộ pháp đắc lực thì liền có thể làm thành tựu một số việc. Nếu có nhiều hộ pháp thì sự nghiệp hoằng pháp quyết không phải ở chư Phật, chư đại Bồ Tát thị hiện làm ra. Cho nên công đức của hộ pháp không thể nghĩ bàn.

Bản thân tôi đã đích thân trải nghiệm. Khi còn trẻ, tôi ở trong hội của lão Lý Bỉnh học kinh giáo, học giảng kinh. Sau khi học xong, nếu không gặp được Hàn Quán Trưởng, người đã vãng sanh năm trước, không có sự hộ trì từ bà thì dù tôi có năng lực cũng không thể làm gì. Nếu không có người hộ pháp này, có lẽ cuối cùng tôi chỉ có hai con đường để đi, một là theo con đường kinh sám, còn không chịu cam tâm làm kinh sám thì hoàn tục. Chỉ hai con đường, không còn đường nào khác. Bà phát đại tâm, tìm đủ mọi cách, không có đạo tràng thì thuê nhà mượn chỗ để mỗi tuần tôi giảng kinh, ba mươi năm không hề gián đoạn. Mỗi tuần tôi giảng ít nhất năm ngày, khi nhiều thì bảy ngày, ba mươi năm liên tục trên giảng đài. Thực tế còn rất nhiều người giảng hay hơn tôi nhưng không có người hộ trì. Hay nói cách khác, họ không có cơ hội luyện tập trên giảng đài, tài cán của họ rồi cũng bị mai một, không thể tiến triển, đó là việc vô cùng đáng tiếc.

Chúng ta hoằng pháp ra đến phạm vi quốc tế đều là duyên phận. Khi giảng kinh ở Đài Bắc, có mấy vị cư sĩ ở Hongkong trước đó đã từng nghe tôi giảng “Phổ Hiền hạnh nguyện phẩm” tám ngày tại chùa Thiện Đạo, nghe xong rất hoan hỉ, đến khi tình cờ gặp ở Đài Loan, họ yêu cầu tôi đến Hongkong. Tôi đã kết được pháp duyên với Hongkong qua bà Lôi. Mỗi năm bà Lôi đều mời. Suốt gần mười năm từ 1977 đến năm 1987, mỗi năm tôi đều đến Hongkong một hai lần, thời gian dài nhất ở Hongkong là bốn tháng, ngắn nhất cũng không ít hơn một tháng. Sau khi bà Lôi vãng sanh thì không có người mời nữa, duyên này bị đứt đoạn. Do đó không có người hộ pháp, chúng ta muốn hoằng pháp cũng không có cơ hội, như thế mới biết công đức hộ pháp bao lớn. Không có hộ pháp, người ở phương đó không có cơ duyên nghe pháp. Có hộ pháp mời vị pháp sư đến giảng kinh, người ở địa phương được lợi lạc, cho nên công đức của hộ pháp vượt hơn công đức của pháp sư giảng kinh hoằng pháp gấp nhiều lần.

Năm 1987, tôi giảng kinh ở Hongkong, có ba cư sĩ ở Singapore sau khi nghe giảng rất hoan hỉ, nhất định muốn kéo tôi đến Singapore. Trước đó tôi chưa lần nào đặt chân đến đất nước này. Nhờ ba vị hộ pháp nên lần đầu tiên tôi đến Singapore ở mười ngày. Tôi giảng ba lần ở chùa Song Lâm, một lầncư sĩ Lâm, và hai lần ở đoàn Thanh niên hoằng pháp. Đoàn hoằng pháp lúc đó là đạo tràng cũ, khung cảnh rất đẹp. Nhờ giảng nhiều lần, tôi kết duyên với các đồng tu bên đây, quen biết với cư sĩ Lý Mộc Nguyên. Mỗi năm, cư sĩ Lý đều tìm tôi. Năm thứ hai, ông làm đoàn trưởng đoàn hoằng pháp. Khi đoàn quán vừa xây xong, ông lại đến mời. Tôi liền giảng bộ kinh Vô Lượng Thọ. Về sau ông đến cư sĩ Lâm làm tư lý, tôi cũng đến cư sĩ Lâm. Mỗi năm tôi đều giảng theo lời mời của ông. Thử hỏi, nếu không có ông thì ai sẽ mời tôi giảng?

Bất cứ nơi giảng kinh nào trên thế giới, Phật pháp có thể mở mang được hay không đều nhờ sự đắc lực bởi một hai hộ pháp. Họ chân thật tạo công đức, cũng như họ xây trường học làm hiệu trưởng, mở tiệm làm ông chủ, chúng ta là người làm công do họ mời đến. Cho nên hộ pháp là chủ nhân, chủ giáo hóa một phương, công đức vô lượng vô biên. Vào thời xưa, công việc hộ pháp do các vị trụ trì của các tự viện. Trụ trìgiáo chủ một phương, tự viện chính là trường học. Trụ trì cũng giống như hiệu trưởng, có thể không giảng kinh, không nói pháp, mà thỉnh mời pháp sư đến giảng kinh. Trụ trì là hoằng hộ, trách nhiệm đó vượt hơn trách nhiệm của hoằng pháp. Họ chú trọng nhất là làm hộ pháp, không có sự hộ trì của họ thì Phật pháp không thể thường trụthế gian.

Hôm nay chúng ta từ danh hiệu Bồ tát Hiền Hộ mà hiểu được công đức hộ pháp không thể nghĩ bàn. Chúng ta phải học hộ pháp, toàn tâm toàn lực, đặc biệt đối với các pháp sư trẻ tuổi, nếu chúng ta không hộ trì đắc lực thì làm sao họ có thể trưởng thành, làm sao có thể trở thành pháp sư hoằng dương Phật pháp kiệt sức một đời.

Pháp sư giảng kinh quan trọng nhất là rèn luyện trên bục giảng, do đó phải giúp họ lên bục giảng mỗi ngày. Đó chính là phương pháp đốc thúc họ. Là pháp sư trẻ, nếu mọi người thích nghe kinh, nghe giảng kinh thì các vị pháp sư trẻ đành phải giảng mỗi ngày, mỗi ngày không ngủ nghỉ, chắc chắn sẽ thành công. Nếu không có người hộ pháp mời họ giảng kinh, thì dù họ học tốt, sau ba tháng cũng sẽ quên sạch, sau sáu tháng sẽ không thể lên bục giảng. Hộ pháp rất quan trọng, hộ pháp thành tựu pháp sư, có thể khiến chánh pháp thường trụ lâu dài.

Điều cần lưu ý khi hành hộ pháp
Các vị pháp sư xuất gia, tương lai có cơ hội làm trụ trì thì phải tường tận. Trụ trì phải làm công việc của Hiền Hộ, phải biết lễ thỉnh pháp sư. Mời pháp sư như thế nào? Pháp sư phải tương ưng với bổn tông tu học của đại chúng đồng tu mới có thể đạt được lợi ích chân thật. Nếu sự tu học của vị pháp sư này khác với pháp môn của chúng ta, kinh luận nương theo cũng khác nhau, vậy thì không nên mời. Người xưa thường nói “Thà làm động nước ngàn sông, không dám động tâm người tu niệm”, nơi đây đã chọn pháp môn niệm Phật, chuyên tu chuyên hoằng đã có thành tựu nhất định, nếu tôi đến đây giảng Thiền, giảng Mật, thì làm loạn tâm thanh tịnh của các hành giả, nhiễu loạn công phu, phá hoại tu hành, không những không có công đức mà còn có lỗi. Thế nhưng đối với pháp sư, chúng ta phải cung kính cúng dường như nhau.

Khi còn trẻ, mười năm cùng lão cư sĩ Lý Bỉnh Nam, tôi thường quan sát lão cư sĩ ở Đài Trung hoằng hộ Tịnh tông. Pháp sư nơi khác đến Đài Trung, lão Lý Bỉnh lễ mạo cung kính, chu đáo đến ga xe nghinh tiếp hoan nghênh, ông đích thân rước về đạo tràng, hướng đến pháp sư lễ lạy cúng dường, cũng có lúc mở tiệc tiếp đãi, mời pháp sư dùng cơm. Thế nhưng từ đầu đến cuối không hề mời pháp sư giảng khai thị. Tôi quan sát rất lâu, cảm thấy kỳ lạ, nên hỏi: “Thưa thầy, vì sao không thấy thầy mời họ giảng khai thị? Giảng kinh thì đương nhiên không thể bởi vì không có thời gian dài, nhưng nên giảng khai thị cho mọi người?”. Ông mỉm cười nói “Con không hiểu đạo lý này, vị pháp sư này tham thiền, vị pháp sư kia là nghiên cứu, lý tưởng của họ không giống chúng ta. Chúng ta ở nơi đây không dễ gì dẫn dắt mọi người tin vào pháp môn Tịnh độ, trung thực niệm Phật cầu sanh Tây Phương. Khi họ giảng tốt về tham Thiền hay Mật, tức thân thành Phật diệu, những người nơi đây lập tức bị dao động”.

Ngạn ngữ nói rất hay “Hòa thượng bên ngoài tụng kinh giỏi”, mỗi ngày ở cùng nhau không có gì mới lạ, từ nơi khác đến sẽ hiếm lạ. Kiên trì bền bỉ mỗi ngày dạy dỗ, thời gian tổng cộng đến khoảng mười năm, nhưng người bên ngoài đến chỉ mấy tiếng đồng hồ vẫn có thể kéo hành giả đi mất. Đó là do nguyên nhân gì? Chính do chúng ta không có định, không có huệ, không có năng lực phân biệt, khi vừa nghe nói cái đó hay, tâm liền bị dao động, kết quả chính chúng ta bị thiệt thòi. Cho nên lão sư Lý phải hộ pháp, gìn giữ đại chúng của đạo tràng này, chánh tri chánh kiến, gìn giữ tâm thanh tịnh cho đại chúng, nhất định không thể mời người khác đến giảng khai thị.

Người có thể đến giảng khai thị là những vị pháp sư tu Tịnh độ, thành thật niệm Phật. Pháp sư như vậy, khi đến Đài Trung, ông nhất định phải thỉnh mời giảng khai thị. Còn nếu không phải cùng học một pháp môn với chúng ta, không cùng nhau y theo Tịnh độ ba kinh, nhất định không mời. Đây không phải là tâm phân biệt, nhưng chỗ này chúng ta phải học, đó là một chuyên gia chân thậttrí tuệ hộ trì chánh pháp của đại chúng. Ngài Hiền Hộ chân thật làm được, đạo lý này chúng ta không thể không hiểu. Cho nên trụ trì một đạo tràng, đó là con mắt của đại chúng trong đạo tràng. Chúng ta dẫn đầu, những người phía sau đi theo. Người dẫn đường mà đi sai thì những người này thảy đều đi sai hết, do đó người dẫn đường phải chịu trách nhiệm. Con đường đi nhất định phải thuần chánh, quyết không thể sai lầm, ngoài ra còn phải phòng hộ người nơi khác đến làm rối. Hiện nay có không ít đạo tràng chân thậttín tâm, nguyện lực, nhưng cái “tín nguyện” này có kiên cố hay không thì chưa thấy được. Nếu gặp vài người nói một tràng lời ngon ngọt, không ít người trong đại chúng tâm sẽ liền dao động, liền đi theo họ.

Tôi vừa nói việc này với cư sĩ Lý Mộc Nguyên. Lý Mộc Nguyên nêu ra một thí dụ, ông nói “Những người đó đến để câu hết cá của chúng ta đem đi”. Thí dụ này rất có ý nghĩa, đạo tràng của chúng ta giống như ao cá. Đồng tu chúng ta đều như cá nhỏ, những người đó đến câu cá, người hộ pháp phải ngăn cấm. Cho nên phải nhận biết rõ ràng, các đồng tu cũng phải bảo vệ quan điểm. Tịnh tông chúng ta không những cùng nhau tu học, đồng tâm đồng đức cùng tu pháp môn này, chúng ta còn hy vọng tương lai đồng sanh Tịnh độ, cùng nhau ở Hải Hội Liên Trì. Tín tâm nguyện tâm nhất định không được dao động, nhân lực tài lực, tất cả sức mạnh đều phải tập trung đến cư sĩ Lâm, một đạo tràng xưa có hơn sáu mươi năm lịch sử.

Không phải tôi tán thán cư sĩ Lý Mộc Nguyên mà mọi người đều công nhận ông là Bồ tát tái lai, không phải người thông thường. Ông không bao giờ có chút tâm riêng tư, danh vọng lợi dưỡng, năm dục sáu trần thảy đều buông bỏ, khởi tâm động niệm hành vi việc làm đều vì Phật pháp, vì chúng sanh. Một người lãnh đạo như vậy, một thiện tri thức như vậy, tôi đi qua rất nhiều khu vực quốc gia khác, xem thấy rất nhiều đạo tràng nhưng chưa hề thấy qua. Vì vậy khi ông đến tìm, tôi không thể không thuận. Cũng như đầu tư mua bán, nếu gặp ông chủ tốt, có đạo nghĩa, không đến thì có lỗi với ông. Nếu ông có lòng riêng tư, có mục đích, có mưu đồ, tôi nhất định không gặp. Thuần túyPhật pháp, vì chúng sanh, vì an định xã hội, vì mong cầu hòa bình thế giới, tâm nguyện thuần tịnh vĩ đại như vậy, nếu chúng ta không dốc hết chút sức mọn đến giúp đỡ thì cũng có lỗi với đạo tràng và có lỗi với đại chúng xã hội.

Cư sĩ Lý Mộc Nguyên là người lãnh đạo, đặc biệt ba năm gần đây thành lập lớp bồi dưỡng pháp sư trẻ, ông đã đến tìm tôi chia sẻ tâm nguyện này. Do đó tôi tạm thời phải buông công việc hoằng pháp của các đạo tràng khác, tất cả đều dừng lại, toàn tâm toàn lực giúp các pháp sư trẻ tuổi. Đó là nghĩa vụ mà tôi đang dốc sức.

Thế nhưng cần phải có hiệu trưởng, chúng ta đến chỉ làm công, làm giáo viên. Tuổi tác tôi nay đã lớn, Phật pháp nhất định phải có người sau kế tiếp thì mới có tiền đồ, chúng sanh mới có phước báu. Đã đến lúc tôi phải giao ban, công việc hoằng pháp lợi sanh phải giao cho pháp sư trẻ. Khi họ có thể tiếp ban thì tôi liền thoái hưu.

Thoái hưu đến nơi nào? Đương nhiên thế giới Cực Lạc. Việc nơi đây đã làm xong, “Việc làm đã xong, thù lao không nhận”. Những năm cuối đời, chúng ta chỉ còn một việc là dạy học, viết sách, giúp đỡ hậu học, đó là trách nhiệm sau cùng cũng là lớn nhất, hai chữ Hiền Hộ mới có thể làm được viên mãn, chân thật thực tiễn.

Danh hiệu Bồ tát Hiền Hộ hàm nghĩa rất sâu rất rộng, chúng ta phải học tập Bồ tát Hiền Hộ từ danh hiệu của ngài, đem Hiền Hộ áp dụng trên vai chính mình, như vậy chính mình là Hiền Hộ chánh sĩ.

(Còn tiếp ...)

KINH ĐẠI THỪA VÔ LƯỢNG THỌ TRANG NGHIÊM THANH TỊNH BÌNH ĐẲNG GIÁC

Pháp sư: HT. TỊNH KHÔNG

Biên dịch: Vọng Tây cư sĩ

Biên tập: PT. Giác Minh Duyên

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 25766)
Trăng bồng bềnh trên ngàn thông Và thềm đêm vắng lạnh, khi âm xưa trong veo từ các ngón tay anh đến. Giai điệu cổ luôn khiến người nghe rơi nước mắt, nhưng nhạc Thiền ở bên kia tình cảm.
(Xem: 37942)
“Teachings from Ancient Vietnamese Zen Masters” là bản dịch tiếng Anh nhiều bài thơ, bài kệ và bài pháp của chư tôn thiền đức Phật Giáo Việt Nam từ ngài Khương Tăng Hội ở thế kỷ thứ 3 sau Tây Lịch...
(Xem: 19709)
Hiển Tông Ký là ghi lại những lời dạy về Thiền tông của Thiền sư Thần Hội. Còn “Đốn ngộ vô sanh Bát-nhã tụng” là bài tụng về phương pháp tu đốn ngộ để được trí Bát-nhã vô sanh.
(Xem: 18808)
Uyển Lăng Lục là tập sách do tướng quốc Bùi Hưu ghi lại những lời dạy của thiền sư Hoàng Bá lúc ông thỉnh Ngài đến Uyển Lăng, nơi ông đang trấn nhậm để được sớm hôm thưa hỏi Phật pháp.
(Xem: 14394)
Nói Thiền tông Việt Nam là nói Phật giáo Việt Nam. Và những bậc cao tăng làm sáng cho Phật Giáo, làm lợi ích cho dân tộc từ thế kỷ thứ VI mãi đến nay đều là các Thiền sư.
(Xem: 20212)
Chư Phật cùng tất cả chúng sanh chỉ là một tâm, không có pháp riêng. Tâm nầy từ vô thủy đến nay không từng sanh không từng diệt...
(Xem: 9585)
Kinh có ghi lại một cuộc đối thoại giữa du sĩ khổ hạnh Vacchagotta với đức Thế Tôn, và cuộc đối thoại này rất thiền.
(Xem: 14442)
Trì Châu Nam Tuyền Phổ Nguyện Thiền Sư quê ở Tân Trịnh, Trịnh Châu, họ Vương, theo Đại Hoè Sơn, Đại Huệ thiền sư xuất gia, đến Tung Nhạc thọ giới cụ túc.
(Xem: 35706)
Tám vạn bốn ngàn pháp môn thảy đều do một tâm mà khởi. Nếu tâm tướng trong lặng như hư không, tức ra khỏi thân tâm.
(Xem: 10731)
Trên núi Linh Thứu ngày nọ, trước một cử toạ gồm 1.250 Tì kheo, thay vì thuyết pháp Đức Phật chỉ cầm lên một cành hoa. Ngài se cành hoa ấy giữa mấy ngón tay, và im lặng.
(Xem: 19809)
Quyển Hai quãng đời của Sơ tổ Trúc Lâm do chúng tôi giảng giải, để nói lên một con người siêu việt của dân tộc Việt Nam.
(Xem: 23292)
Hôm nọ, Phật ở trong hội Linh-sơn, tay cầm cành hoa sen đưa lên, cả hội chúng đều ngơ-ngác. Chỉ có ngài đắc ý chúm chím cười (niêm hoa vi tiếu)...
(Xem: 13431)
Thiền sư Khánh Hỷ (1067–1142) thuộc dòng thứ 14, thiền phái Tỳ Ni Đa Lưu Chi. Sư họ Nguyễn, quê ở Cổ Giao, huyện Long Biên, thuộc dòng tịnh hạnh, từng được vua Lý Thần Tông phong chức Tăng Thống.
(Xem: 10808)
“Chân như Đạo Phật Nhiệm mầu, Tâm trung chữ Hiếu, niệm đầu chữ Nhân, Hiếu là độ được song thân, Nhân là cứu vớt trầm luân muôn loài…”
(Xem: 20322)
Bát-nhã tâm kinh (prajñāpāramitāhṛdayasūtra) là một bản văn ngắn nhất về Bát-nhã ba-la-mật (prajñā-pāramitā). Trong bản Hán dịch của Huyền Trang, kinh gồm 262 chữ.
(Xem: 10693)
Tôi rất cảm phục BS Thynn Thynn khi bà đã tận tình giải thích thấu đáo, trong quyển sách của bà, về cách sống tỉnh giác trong đời sống thường ngày.
(Xem: 10047)
Hoài niệm về tấm lòng yêu thương của cha mẹ nhân mùa Vu Lan.
(Xem: 14947)
Mùa Vu-lan báo hiếu vào tiết Trung Nguyên tháng bảy âm lịch hằng năm, xuất phát từ tích ngài Mục-kiền-liên cứu mẹ...
(Xem: 17775)
Trong các sinh hoạt nhân gian của truyền thống ta, tháng bảy là tháng đượm nhiều sắc thái văn chương nhất. Tháng bảy, mưa ngâu, nhịp cầu ô thước bắt qua giải Ngân-hà...
(Xem: 17705)
Rằm tháng bảy theo tục lệ nhân gian Việt Nam gọi là ngày xá tội vong nhân. Ngày rằm tháng bảy có nhiều ý nghĩa...
(Xem: 13250)
Phàm là bậc Sa-môn Thích tử, nhất định phải lấy việc hướng thượng làm tông chỉ, lìa bỏ các duyên, sống đời đạm bạc...
(Xem: 31267)
Tiết Vu Lan bâng khuâng nhớ Cha công dưỡng dục, Mùa Báo Hiếu bùi ngùi thương Mẹ đức cù lao
(Xem: 25897)
Trong hệ thống giáo điển Phật đà, cả Nam truyền và Bắc truyền đều có những bài kinh, đoạn kinh nói về công ơn sinh thành dưỡng dục của cha mẹ rất là cảm động.
(Xem: 14046)
Con đang ở lại trần gian trong bầu không khí Đạo pháp hơn 2000 năm. Nhưng kinh sách thiên vạn quyển cũng không bằng được sống bên bậc danh Tăng thạc đức trong ngôi nhà Vạn Hạnh.
(Xem: 17592)
cho dù nghiệp quả của thời quá khứ có nghiệt ngã cỡ nào, trong thời hiện tại ta cứ việc làm tốt, bảo đảm tương lai của ta sẽ an lạc...
(Xem: 11056)
Không đo không lường được tình thương, người ta thường lấy vẻ bao la của trời biển để tạm so sánh. Nhưng kỳ thực, trời và biển có những giới hạn, biên tế.
(Xem: 12361)
Trong truyền thống Phật giáo Trung Hoa-Nhật Bản, hệ thống giáo lý Trung quán và Du-già Duy thức tông đã được xem là cùng đi song song và đối nghịch với nhau.
(Xem: 10530)
Vu Lan phiên âm từ Phạn ngữ Ullambana, Trung Hoa dịch là “Giải đảo huyền” có nghĩa là cởi mở những cực hình hay giải thoát những khổ đau trong 3 cảnh giới: địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh.
(Xem: 12347)
Tôi xin rất thận trọng để nói rằng, tư liệu tôi dựa vào để viết đa phần thuộc Tam Tạng Pāḷi văn, và một số nguồn được lấy từ tiếng Anh cùng một hệ Nam tông..
(Xem: 11853)
Gia đình tôi đầy những câu chuyện này… Có những hành giả vĩ đại như cha tôi và bác tôi, những người thực hành từ trái tim và có năng lực thực sự...
(Xem: 9675)
Nếu cái nhìn tâm linh của mình mà không trải ra đến bờ cõi xa xôi nhất thì “thiện đức” của y không phải là “thiện đức” thứ thiệt...
(Xem: 12426)
Khảo sát về “Năm đức của người xuất gia” để thấy được những nét cao đẹp trong đời sống phạm hạnh, từ đó mà có ra lối hạnh xử ứng hợp với phước điền của pháp phục...
(Xem: 9262)
Con đường Trung đạo Thiền định, không phải chỉ dành riêng cho Thiền tông không đâu, mà chúng dành chung cho tất cả các tông phái Phật giáo trong đó có Tịnh độ tông, và Mật tông.
(Xem: 8554)
Trần Thái Tông là vị vua đầu của triều Trần. Ngài là đệ tử của thiền sư Viên Chứng trên núi Yên Tử. Ngài vừa làm vua vừa thực tập thiền.
(Xem: 10031)
Đây là một trong nhiều pháp môn của Phật, mà đặc điểm là dể tu, dể chứng, rất thích hợp với đại đa số quần chúng...
(Xem: 9806)
...Từ tầm nhìn đúng, hành động đúng, sẽ đưa đến kết quả đúng như ý muốn. Khi làm một công việc gì, thông thường chúng ta phải biết trước rồi làm sau, như vậy sẽ có kết quả tốt.
(Xem: 12108)
Tây Tạng bắt đầu chịu ảnh hưởng của Phật giáo vào thế kỷ thứ 7 trong triều đại của vua Songtsen Gampo.
(Xem: 14545)
Tịch Hộ đã đến Tây Tạng vào thế kỷ thứ 8, cho nên đến thế kỷ 11 truyền thống Na Lan Đà đã được thiết lập một cách vững vàngTây Tạng.
(Xem: 9959)
Theo nghĩa thông thường, đắc pháp có nghĩa là đắc pháp nhãn tịnh, chứng ngộ, không còn kiến thủ, giới cấm thủnghi ngờ Tam bảo, không còn trần sa hoặcphiền não vi tế, tức khắc thành Phật...
(Xem: 11266)
Tranh Đại Thừa vẽ con trâu đen. Lần lượt qua từng bước họa, trâu đen trổ trắng lần lần, trắng từ trên đỉnh đầu, lan dần xuống mình, rồi chót đuôi.
(Xem: 8356)
Tất cả pháp hữu vi, Như mộng, huyễn, bọt, ảnh, Như sương, như ánh chớp, Hãy quán sát như vậy.
(Xem: 11052)
Là một trong những dòng Kagyu, dòng truyền thừa Drikung Kagyu do Đạo sư tâm linh vĩ đại Kyobpa Jigten Sumgon sáng lập 852 năm trước.
(Xem: 14199)
Dharma tức là Đạo Pháp của Đức Phật thì lại nhất thiết chủ trương một sự buông xả để giúp con người trở về với chính mình...
(Xem: 9971)
Các bạn có thể bắt đầu pháp quán niệm hơi thở (anapana sati, a-na-pa-ná sa-tị) bằng cách định tâm vào hơi thở vào, hơi thở ra tại lỗ mũi hay ở môi trên.
(Xem: 15303)
“Con người thường trở thành cái mà họ muốn. Nếu tôi cứ nghĩ rằng tôi không thể làm được điều ấy, thì chắc chắn rút cuộc tôi sẽ không làm được gì..."
(Xem: 13165)
Bài viết này khám phá những khả năng của học thuyết và sự hành trì của Phật giáo đã được áp dụng vào cuộc sống hàng ngày trong suốt hơn 2.500 năm...
(Xem: 23187)
156 vị Tăng Ni đã về Phật Học Viện Quốc Tế từ ngày 15 để bắt đầu cho khóa An cư vào lúc 5 giờ sáng ngày mai, 16 tháng 06 năm 2014.
(Xem: 24150)
Vào dịp lễ Vu-lan Thắng hội, Phật tử có tục lệ cúng thí người chết. Dưới đây Tập san trích dịch đoạn kinh có liên hệ đến ý nghĩa cúng thí này.
(Xem: 12679)
Hầu như bất cứ sách nào viết về Thiền tập Phật giáo thời kỳ sơ khai cũng nói với bạn rằng Đức Phật giảng dạy hai kiểu thiền tập: Thiền chỉThiền quán
(Xem: 15530)
Theo Kim Cương thừa, chúng bị rơi vào cõi sinh tử bất tận này bởi những nhận thức bất tịnh.
(Xem: 17891)
Sự Thực Hành Guru Yoga Theo Truyền Thống Longchen Nyingthig
(Xem: 15159)
Theo Mật giáo, trong vũ trụ có ẩn tàng những thế lực siêu nhiên; nếu ta biết sử dụng những thế lực siêu nhiên kia thì ta có thể đi rất mau trên con đường giác ngộ, thành đạo.
(Xem: 16647)
Mật tông là một nền văn hóa đặc sắc của Phật giáo Đại thừa giai đoạn cuối, còn gọi là Mật giáo hoặc Bí mật giáo, Chân ngôn tông, Kim cang thừa, Mật thừa, Quả thừa v.v..
(Xem: 16225)
“Con lớn rồi vẫn là con của mẹ, Suốt cuộc đời mẹ vẫn theo con…”
(Xem: 17775)
Vào đầu thế kỷ XV, ngụy tạo danh nghĩa diệt Hồ phù Trần, nhà Minh sai bọn Trương Phụ, Mộc Thạnh đem quân đánh chiếm nước ta.
(Xem: 11685)
Tinh thần hiếu hòa với lân bang, ông cha ta từng thể hiện, nhưng không vì thế mà phải hy sinh quyền lợi của dân tộc.
(Xem: 11715)
Đại lễ Vesak Liên Hiệp Quốc là một ngày lễ hội mang tính văn hóa và nhân văn ở tầm mức quốc tế của tổ chức Liên Hiệp Quốc.
(Xem: 17948)
Thông Điệp Đại Lệ Phật Đản Vesak 2014 của Tổng Thư Ký Đại Hội Đồng Liên Hiệp Quốc 2014 PL. 2558... Ban Ki Moon
(Xem: 10882)
Nền khoa học tiên tiến phát triển với tốc độ vũ bão tại các nước văn minh. Khoa học phát triển đã chứng minh được những điều Phật dạy...
(Xem: 10579)
Chúng ta đã có phước đức được sanh trong một thế giới nơi đã có một Đức Phật đến và dạy Pháp... Mặc Phương Tử
(Xem: 11417)
Trong vô lượng pháp môn tu ấy, nhìn chung Thiền và Tịnh đều được coi là phổ cập nhiều nhất hiện nay, nhất là các nước Á đông... Võ Thị Thanh Thảo
(Xem: 12141)
Thiền Lâm Tế Nhật Bản - Nguyên tác: Matsubara Taidoo; Việt dịch: HT Thích Như Điển
(Xem: 11112)
Chư vị Tổ sư trong khoảng thời gian diệu ngộ, tâm tư bay bổng thênh thang như trời mây... Hạnh Huệ; Thuần Bạch dịch
(Xem: 36504)
Cuộc đời của thiền sư Bạch Ẩn là bức tranh sống với câu chuyện ―Thế à! cho đến bây giờ vẫn được nghe kể. Biên dịch lại là góp thêm công hạnh của Ngài.
(Xem: 9028)
Từ thế giới biến đổi vô cùng của thời gian, xuyên suốt qua từng hiển hiện của không gian, từ đỉnh cao ngút ngàn đi lại của tâm thức, đến chốn không cùng của uyên nguyên... Như Hùng
(Xem: 9752)
Giác Minh Diệu Hạnh Bồ Tát giảng; Bồ Tát giới đệ tử Thường Nhiếp kết tập; Cư Sĩ Như Hòa dịch Việt
(Xem: 34817)
Tăng đoàn thực hành đúng Pháp và Luật của Phật đã chế định trong sự cùng nhau cộng trú hòa hợpthanh tịnh, cùng nhau giải tán trong sự hòa hợpthanh tịnh.
(Xem: 17356)
Đi đến nước cùng non tận chỗ, Tự nhiên được báu chẳng về không... Thích Tâm Hạnh
(Xem: 10307)
Quyển sách này là một phần trong bộ sách Niệm Phật Pháp Yếu do Cư sĩ Mao Dịch Viên tuyển tập... Thích Minh Thành dịch
(Xem: 10537)
Tác phẩm “Thiền Tông Chỉ Nam” hay còn gọi là “La Bàn Thiền” này, chủ yếu dựa trên các cuộc Pháp thoại của Thiền sư Sùng Sơn qua sự trình bày giáo lý căn bản của Phật giáo... Thích Giác Nguyên dịch
(Xem: 12263)
Đối với người mới tập thiền, không nên ngồi thiền trong lúc qúa no đói, có bệnh, thiếu ngủ, khát nước, quần áo qúa chật, qúa nóng lạnh, qúa ồn ào, không có tọa cụ... Toàn Không
(Xem: 13734)
Thuyết Giảng Mỗi Chiều Chủ Nhật Tại Tổng Hội Cư Sĩ Phật Giáo... HT Thích Huyền Dung
(Xem: 14756)
Mật thừa xem thấy thế giới gồm những yếu tố và những tương quan tương phản, đối kháng: bản thểhiện tượng, tiềm năng và biểu lộ, nhân và quả...
(Xem: 9217)
Thiền viết đầy đủ là thiền na, phiên âm từ phạn ngữ dhyana, có nghĩa là tư duy suy xét về một đối tượng tâm thức... Hư Thân Huỳnh trung Chánh
(Xem: 24973)
Thiền Luận - Tác giả: Daisetz Teitaro Suzuki; Quyển Thượng, Dịch giả: Trúc Thiên; Quyển Trung và Hạ, Dịch giả: Tuệ Sỹ
(Xem: 11709)
Thể của tâm lìa tất cả niệm, nghĩa là vốn vô niệm. Nó như hư không, không chỗ nào mà chẳng toàn khắp... Nguyễn Thế Đăng
(Xem: 10382)
Thật cần yếu để học hỏithành đạt trong sự học vấn. Rèn tâm là một tiến trình làm cho quen thuộc... Đạt Lai Lạt Ma; Tuệ Uyển dịch
(Xem: 16035)
12 lời nguyện niệm Phật này, nhằm giúp cho Phật tử có định hướng trong việc tu tậpchí nguyện để về thế giới Cực Lạc của Đức Phật A-Di-Đà... Thích Chân Tính
(Xem: 15665)
Thư cho người em Tịnh độ là một bộ luận nhỏ, gom nhặt những yếu nghĩa của Tông Tịnh độ, chia thành từng bài nhỏ, mỗi bài là một chủ đề... Thích Hồng Nhơn
(Xem: 14600)
Nghĩa Huyền Thiền Sư hiệu là Nghĩa Huyền Hình, quê quán ở Nam Hoa Tào Châu, Thích Duy Lực dịch
(Xem: 13088)
Nguyên tác của Hoài Hải Thiền Sư; Việt dịch Thích Duy Lực, Từ Ân Thiền Ðường Hoa Kỳ Xuất Bản 1992
(Xem: 12523)
Tác giả huý HOÀI HẢI, họ VƯƠNG, người Trường Lạc, Phước Châu, sanh năm Khai Nguyên thứ 12 đời Đường Huyền Tông (CN 724)... Thích Duy Lực dịch
(Xem: 14651)
Choden Rinpoche là một trong những Lạt ma phái Gelug cao cấp nhất, trước năm 1985 ngài hầu như không được biết tới ở ngoài xứ Tây Tạng... Thanh Liên
(Xem: 18448)
Đi vào cửa Pháp: Tuyển tập Giáo huấn của các Đạo sư Tây Tạng - Bản dịch Việt ngữ của Liên Hoa & Thanh Liên
(Xem: 9634)
Tìm Phật ở đâu? Trăm ngàn kẻ điên đi tìm Phật, nếu có tìm thấy một người thì đó cũng không phải là Phật... Dương Đình Hỷ
(Xem: 18632)
Con Đường dẫn đến Phật Quả là một trong những sự giới thiệu tuyệt hảo cho giáo lý của Phật giáo Tây Tạng được sử dụng ngày nay.
(Xem: 18716)
Chỉ vì tín lực chẳng sâu nên thắng nghiệp chìm trong hữu lậu, lại muốn bỏ pháp này để chọn pháp khác, lầm lạc lắm thay!... Như Hòa dịch
(Xem: 19147)
Kính nghĩ, đức Thích-ca mở ra vận hội lớn làm lợi ích rộng lớn cho chúng sinh có duyên, xiển dương giáo pháp tùy theo mỗi quốc độ khiến pháp nhũ thấm nhuần khắp cả... Nguyên Trang dịch
(Xem: 18957)
Pháp Niệm Phật Tam Muội xét về nguồn gốc là từ Viễn Tổ (tổ Huệ Viễn) đề xướngLô Sơn, sáng khởi Liên Xã sáu thời tịnh hạnh, trở thành quy củ cao đẹp cho muôn đời... Như Hòa
(Xem: 11877)
Những ngày đầu xuân, thay vì chào đón mùa xuân mới bằng nụ cười tươi mát, chúng ta lại bắt đầu bằng sự sợ hãi, âu lo vì: năm nay là năm tuổi!... Thiện Ý
(Xem: 13413)
Ở quê anh mới tới đây, Việc quê anh biết đổi thay thế nào. Hôm đi, trước cửa buồng thêu, Cây mai mùa lạnh nở nhiều hoa chưa?... Hoang Phong
(Xem: 48053)
Đêm nay ngày lành Nguyên Đán Giờ nầy phút thiêng Giao thừa. Tuân lệ cổ tục ngày xưa Mở cửa nghinh Xuân tiếp phước. Truyền thừa di phong thuở trước...
(Xem: 11133)
Năm ngựa đến. Người ta hay chúc nhau "mã đáo thành công“. Mã là ngựa, đáo là đến nơi, ngựa đến thì thành công đến... Nguyên Đạo Văn Công Tuấn
(Xem: 13625)
Chúc phúc là ứng xử văn hóa nhằm sẻ chia và gửi gắm những ước mơ hay khát vọng sống thanh cao, thánh thiện... Chúc Phú
(Xem: 13117)
Từ chiều ba mươi, bàn thờ Phật ở mỗi nhà đã sạch sẽ, nhiều hoa tươi, trái cây; người nghèo chỉ cần thành kính dâng lên ly nước trong cũng khiến chư Phật hết lời khen ngợi... Nhụy Nguyên
(Xem: 11173)
Tết Nguyên Đánlễ hội lớn nhất trong các lễ hội truyền thống Việt Nam từ hàng ngàn đời nay, là điểm giao thời giữa năm cũ và năm mới... Ngọc Nữ
(Xem: 12640)
Hễ muốn có lộc thì phải gieo nhân. Một khi nhân đã gieo trồng thì tương lai cảm quả sẽ không sai khác, trồng dưa được dưa, trồng đậu được đậu... Tịnh Thủy
(Xem: 11098)
Nụ cười của Ngài thực là lạ! Cười gì mà căng hết cả đường gân sớ thịt của khuôn mặt. Cười gì mà phô ra ngoài hết tất cả hàm răng, cả đầu lưỡi... Hạnh Phương
(Xem: 31904)
Noi gương Hưng Đạo, Quang Trung, Chúng ta không thể mất vùng Hoàng Sa, Nam Quan Bản Dốc ngời ngời, Hao mòn một tất tội đời khó dung... Đào Chiêu Vọng
(Xem: 11752)
Tìm kiếm mùa xuân ở đâu xa, An lạc nào hơn xuân trong nhà, Hàm tiếu nụ cười Xuân Di Lặc, Hành nụ cười này, Xuân trong ta... Thích Viên Giác; TVG PhiLong
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant