Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Khôn Ngoan Bất Chợt

08 Tháng Giêng 201100:00(Xem: 10893)
Khôn Ngoan Bất Chợt

JETSUN MILAREPA
GỬI LẠI TRẦN GIAN
Bản dịch: ĐỖ ĐÌNH ĐỒNG

KHÔN NGOAN BẤT CHỢT

18

Ban đầu vợ là nữ thần hoa cười nụ đẹp

và chồng là kẻ chiêm ngưỡng mặt nàng không bao giờ chán.

Chẳng bao lâu nàng trở thành ác quỷ với đôi mắt giống tử thi,

nếu chàng mắng nàng một, nàng mắng lại hai

nếu chàng giật tóc nàng, nàng sẽ kéo chân chàng;

nếu chàng đánh nàng bằng gậy, nàng sẽ đánh chàng bằng vá.

Cuối cùng nàng trở thành ác bà không răng

và lòng nàng hả hê với cái nhìn phẫn nộ.

Ta đã chối từ một thiếu phụ gắt gỏng quỉ ma như thế

và ta không cần tân nương trinh nữ làm chi.

19

Ban đầu con đẹp như vị thần nhỏ trong gia đình,

mà lòng yêu thương cha mẹ khôn ngăn.

Chẳng bao lâu con trở thành mối nợ bất nhân,

cha mẹ đã cho tất cả mà hắn không bao giờ thỏa mãn.

Hắn mang về nhà một cô gái con của một người xa lạ

và đuổi xua cha mẹ của hắn đi.

Mặc cha gọi hắn không màng thưa gửi,

mặc mẹ kêu hắn vẫn nín thinh luôn.

Cuối cùng hắn trở thành kẻ ở trọ tính tình nóng nảy

xua đuổi cha mẹ bằng những lời phiền hà giả dối.

Bây giờ kẻ thù vùng vẫy này

phá phách không ngừng tâm trí của mẹ cha.

Ta đã khước từ một cuộc thanh toán thế gian như thế

và không cần có con cái nối dòng.

20

Ôi, tam bảo thiêng liêng, xin hãy là nơi con nương náu.

Ôi, đấng đại sư, xin ban cho ân huệ con hằng cầu nguyện.

 

Hỡi những kẻ an ủi tinh thần của thế gian

không chuyển hóa tâm các người bên trong

làm sao các người có thể chuyển hóa tâm kẻ mê bên ngoài?

 

Những vòm cây râm mát với những con công trắng xòe đuôi

giống như ánh sáng ngời lên trong khoảnh khắc.

Này, các ngươi không phải là kẻ an ủi loại này sao?

 

Trà trong tu viện trên làng

giống như tính tự dối mình gọi mời tai họa đến.

Này, các ngươi không phải là kẻ an ủi loại này sao?

 

Tính hối hả của thường nhân

giống như kẻ thù nóng giận tấn công sau lưng.

Này, các ngươi không phải là kẻ an ủi loại này sao?

 

Ngựa, giàu sang và cừu, ba thứ phụ giúp cuộc sống này

giống như bão gió thổi rạp ngọn cỏ xanh.

Này, các ngươi không phải là kẻ an ủi loại này sao?

 

Tấm thân hư giả chứa đầy tội lỗi này

giống như xác chết được mạ vàng.

Này, các ngươi không phải là kẻ an ủi loại này sao?

 

Sự chủ tọa cuộc hội họp các ni cô đáng kính này

giống như cuộc hội họp của dân quê thiếu người quyền quí.

Này, các ngươi không phải là kẻ an ủi loại này sao?

 

Sự khát khao thực phẩm của đại chúng này

giống như sự tịch thâu của đồn bót nhà đoan.

Này, các ngươi không phải là kẻ an ủi loại này sao?

 

Bói toán, phù thủy và chiêm tinh, ba thứ giả hình này

giống như sự cãi bướng của những người dối láo.

Này, các ngươi không phải là kẻ an ủi loại này sao?

 

Khúc hát lừa gạt người nghe này của các ngươi

giống như tiếng rên ư ử vì sung sướng của con mèo độc ác.

Này, các ngươi không phải là kẻ an ủi loại này sao?

 

Đám môn đồ tụ hội hăng say này

giống như đoàn tùy tùng của nhà quí phái.

Này, các ngươi không phải là kẻ an ủi loại này sao?

 

Giáo lý của tín ngưỡng vô nghĩa này

giống như sự dối láo của người lừa đảo.

Này, các ngươi không phải là kẻ an ủi loại này sao?

 

Kẻ nào sống bằng nghề nông mà không tìm tư lợi

nhưng tư lợi kẻ láng giềng là người đức hạnh rất nhiều.

21

Ba bài thơ kế tiếp hợp thành một bài duy nhất.

Một hôm Milarepa đang thiền định tại một trong những am ông ở, một con nai bị săn đuổi chạy đến tìm nơi trốn lánh. Sau đó là con chó săn hối hả đuổi tới ngay. Cuối cùng, người thợ săn tay cầm cung tên chạy đến, nhưng anh ta ngạc nhiên khi thấy con nai đang nằm bình yên một bên Milarepa và con chó săn nằm một bên, trong lúc Milarepa hát khúc hát đầu tiên xoa dịu lòng con chó. Người thợ săn quá xúc độngbài hát, anh ta đã được chuyển hóa và trong khúc hát thứ hai, anh ta dâng cho Milarepa sự sống của con nai và tất cả những vật anh ta có và cầu xin sự hướng dẫn tinh thần. Milarepa đã hướng dẫn anh ta trong khúc hát thứ ba. Bỗng nhiên anh ta từ bỏ thế giantrở thành một trong những môn đệ của Milarepa.

 

Con xin cúi đầu dưới chân chúa Marpa xứ Lhobrak.

Cầu nguyện người ban ân huệ cho tính sân hận

của tất cả chúng sinh được an tịnh.

Mi, con vật mang thân chó và sắc mặt của soái hoang,

này, vật mang thân chó và sắc mặt soái hoang, hãy lắng nghe ca khúc của Mila.

Bởi vì bất cứ vật gì mi thấy mi cũng cho là kẻ thù

và tâm mi bị bệnh sốt vì ý nghĩ sân hận xấu xa.

Mi đã sinh ra mang thân xác của một con chó ác

và mi ở trong cảnh khốn cùng, đói khát;

không có sự an tịnh những thống khổ đau đớn cho mi.

Nếu mi không ghì ôm sắc thể của bản tâm bên trong

lợi ích chỉ khiến mi ôm giữ sắc thân kẻ khác bên ngoài.

Đã đến lúc mi phải ôm giữ bổn tâm của chính mi.

Hãy từ bỏ tâm sân và ở lại nơi này.

Theo ý mi hiện tại,

bị nuốt chửng bởi hiểm nguy và đau khổ bất kham,

mi sợ rằng con nai sẽ chạy trốn sang triền núi bên kia

hy vọng sẽ bắt nó trên triền núi gần này.

Bị cấu xé bởi hy vọngsợ hãi mi lang thang khắp thế gian này.

Ta sẽ dạy mi sáu giáo lý của Sư tổ Naropa,(8)

và chỉ mi thiền định về biểu tượng Chân Không vĩ đại.

22

Con nai đen bên tay phải con được trang điểm bằng bộ sừng trắng màu vỏ ốc,

nếu giết đi, con sẽ được ăn ngon bảy ngày.

Điều này con: kẻ không cần, ôi thầy, con xin kính dâng lên.

Cầu mong thầy dẫn dắt con nai đen này vào đường cực lạc;

con chó Hồng Quang này vào đường giác ngộ

và Gonpodorje vào đường giải thoát.

 

Con chó Hồng Quang bên tay trái con,

nếu thả ra, nó sẽ bắt cả những những chim trời.

Điều này con: kẻ không cần, ôi thầy, con xin kính dâng lên.

Cầu mong thầy dẫn dắt con nai đen này đến cõi cực lạc;

con chó Hồng Quang này vào đường giác ngộ;

và Gonpodorje vào đường giải thoát.

 

Sợi dây thòng lọng màu đen này được tô điểm bằng chiếc vòng ở đầu mút,

nếu đem dùng, con sẽ bắt được cả bò từ phương bắc.

Điều này con: kẻ không cần, ôi thầy, con xin kính dâng lên.

Cầu mong thầy dẫn dắt con nai đen này vào đường cực lạc;

con chó Hồng Quang này vào đường giác ngộ;

và Gonpodorje vào đường giải thoát.

 

Chiếc áo da sơn dương này của người thợ săn được tô điểm bằng da dê nhuộm,

nếu mặc vào con sẽ thấy ấm ngay cả khi trên núi cao tuyết trắng.

Điều này con: kẻ không cần, ôi thầy, con xin kính dâng lên.

Cầu mong thầy dẫn dắt con nai đen này vào đường cực lạc;

con chó Hồng Quang này vào nơi giác ngộ;

và Gonpodorje vào nơi giải thoát.

 

Cây tên mảnh con cầm nơi tay phải này,

được tô điểm bằng bốn chiếc lông chim và mũi nhọn sơn son,

nếu bắn ra, nó sẽ đâm thủng bất cứ vật gì gặp phải.

Điều này con: kẻ không cần, ôi thầy, con xin kính dâng lên.

Cầu mong thầy dẫn dắt con nai đen này vào cõi cực lạc;

con chó Hồng Quang này vào nơi giác ngộ;

và Gonpodorje vào nơi giải thoát.

 

Cây cung trắng tuyệt hảo con cầm nơi tay trái này,

được tô điểm bằng vỏ cây phong và sợi dây trương Trung Hoa,

nếu buông ra, dây trương sẽ dậy sấm như rồng thiên vẫy khúc.

Điều này con: kẻ không cần, ôi thầy, con xin kính dâng lên.

Cầu mong thầy dẫn dắt con nai đen này vào nơi cực lạc;

con chó Hồng Quang này vào nơi giác ngộ;

và Gonpodorje vào nơi giải thoát.

23

Hỡi kẻ đi săn, bây giờ hãy lắng nghe ta hát.

Dù to như sấm động nhưng chỉ là âm thanh trống rỗng,

dù đẹp như mầu sắc móng trời nhưng sẽ tan biến đi;

thế gian làm vui tâm hồn nhưng đó chỉ là giấc mộng.

Dù những đối tượng của dục vọng đem lại lạc thú

nhưng chúng chỉ là nguyên nhân của những đảo điên.

Cái đó có hôm qua, hôm nay không còn nữa;

người đã sống năm qua, năm nay đã chết.

Người bạn trung thành trở thành thù địch;

thức ăn ngon trở thành thuốc độc;

kẻ lễ phép tạ ân trở thành xấc láo;

kẻ làm ác, tự hại chính mình.

Giữa trăm đầu người, đầu ngươi là đầu thân yêu nhất đối với ngươi:

bất cứ ngón tay nào của ngươi bị cắt ngươi cũng thấy đau;

trong nhà đông người, ngươi yêu chính ngươi.

Đã đến lúc để ngươi ngẩng đầu lên trong độc lập;

cuộc sống phù du này sẽ biến mất rất nhanh;

đừng bỏ thực hành tín ngưỡng.

Thân nhân yêu mến ném ngươi vào vòng thế tục;

bây giờ đã đến lúc phải tin cậy đạo sư.

Hạnh phúc ở đời này mang lại hoan lạc trong đời sau;

đã đến lúc để thực hành thánh đạo

24

Rechung, môn đệ đắc ý của Milarepa, cuối cùng được thầy cho phép ra đi với sứ mệnh đến Ü, một tỉnh trung tâm Tây Tạng, nơi tọa lạc của kinh thành Lhasa. Trong bài thơ này, Milarepa khuyên dạy môn đệ những lời cuối cùngchúc phúc cho Rechung. Trong bài kế Milarepa bi cảm cuộc ra đi của người môn đệ.

 

Ôi, thầy,[1] con ơi, con sẽ đến Ü châu hay không?

Hỡi thầy, nếu con đi đến Ü châu

đôi khi con sẽ có những ảo tưởng về thức ăn.

Khi con có những ảo tưởng về thức ăn này,

hãy ăn thức ăn chánh định bất tận

hãy biết rằng tất cả những vật ngọt ngào đều hư ngụy

và hãy xem tất cả hiện tướng như chân thân.

Đôi khi con sẽ có những ảo tưởng về áo y.

Khi con có những ảo tưởng về áo y này,

hãy mặc áo y lửa bên trong

hãy biết rằng tất cả những vật dịu mềm đều hư ngụy

và hãy xem tất cả hiện tướng như chân thân.

 

Đôi khi con sẽ có những ảo tưởng về quê hương.

Khi con có những ảo tưởng về quê hương này,

hãy biến quê hương con thành quê hương chân lý

hãy biết rằng tất cả quê cha đều hư ngụy

và hãy xem tất cả hiện tướng như chân thân.

 

Đôi khi con sẽ có những ảo tưởng về giàu sang.

Khi con có những ảo tưởng về giàu sang này,

hãy biến sự giàu sang của con thành bảy sự giàu sang cao cả, (9)

hãy biết rằng tất cả sự giàu sang của thế gian đều hư ngụy

và hãy xem tất cả hiện tướng như chân thân.

 

Đôi khi con sẽ có những ảo tưởng về bạn bè.

Khi con có những ảo tưởng về bạn bè này,

hãy biến bạn bè con thành nguồn trí huệ tự tuôn trào,

hãy biết rằng tất cả bạn bè thế gian đều hư ngụy

và hãy xem tất cả hiện tướng như chân thân.

 

Đôi khi con sẽ có những ảo tưởng về đạo sư.

Khi con có những ảo tưởng về đạo sư này,

hãy nguyện cầu đạo sư ngự mãi trên đầu con,

và hãy nhớ trầm tư về lửa ấm bên trong.

Đạo sư cũng chỉ là một giấc mơ hư ngụy.

Hãy biết rằng tất cả đều là ảo tưởng, nghe con.

 

Núi Gampoden phương đông

giống như vua ngự ngai vàng;

lưng núi giống như màn lụa trắng;

mặt núi giống như đống vật quý giá;

đỉnh núi giống như vương miện ngọc ngà;

bảy đỉnh đồi giống như bảy đại thần áo mão cúi chầu;

toàn thể giống như biểu tượng thiêng liêng bằng gỗ thếp vàng.

Trên đôi vai núi này là những nơi con phải chuyển hóa.

Từ đó con hãy đi làm lợi ích cho loài người.

Con ơi, con phải tiến hành phận sự con đi.

25

Đứa con yêu dấu đã được cha mẹ yêu thương ấp ủ,

có thể phụng sự họ trăm lần trong lúc tuổi già,

người đệ tử không lập trọng thệ ẩn tu,

có thể phụng sự cho thầy trăm lần lúc tuổi già.

Nhưng người cha này giống như con chó già bị bỏ lại chốn hoang vu,

và đứa con giống như con bạch sư đã đi đến Ü châu.

Người cha giống như con cáo già bị bỏ lại chốn hoang vu và đứa con giống như cọp gấm trẻ đã đi đến Ü châu.

Người cha giống như gà trống trong sân trại bị bỏ lại chốn hoang vu

và đứa con giống như chim linh thứu oai hùng đã đi đến Ü châu.

Người cha giống như bò già bị thiến với chiếc cổ co ro bị bỏ lại chốn hoang vu

và đứa con giống như bò mộng sừng cong đã đi đến Ü châu.

Hình dáng nó đẹp hơn thiên thần đã đi đến Ü châu;

ngôn ngữdịu dàng hơn lụa đã đi đến Ü châu;

tư tưởng nó nhiều màu sắc hơn gấm thêu đã đi đến Ü châu;

hương thơm nó ngào ngạt hơn chiên đàn đã đi đến Ü châu.

26

Trong bài thơ này Milarepa đã quở trách những con quỷ đã quấy phá cuộc thiền định của ông và ông cầu cứu đến uy lực của thầy ông, Marpa, để chống lại chúng. Ông giục chúng đến Marpa để Marpa chuyển hóa cho và ông dạy chúng giáo lý Đại Thừa cao cả hơn giáo lý Tiểu Thừagiáo lý Đại Thừa có thể đáp ứng với tư tưởng của Bồ Tát, người đã đạt được giác ngộ, tự hiến mình trong công việc phụng sự nhân loại.

 

Hãy biết nơi dịch giả Marpa đã tinh luyện ngôn từ,

vị chúa từ ái vô song,

đang ngồi phô bày báo thân thanh tịnh

trên tòa sen ba cánh

như chòm tóc ngọc trên đầu người.

Ngài phóng hào quang ân huệ

trong sáng hơn mặt trăng trên bầu trời quang đãng

làm nở đóa hoa xinh đẹp

của sen lòng nồng nhiệt độ nhân,

và khiến cho nhụy hoa mính tính hãi hùng.

Các ngươi có nhìn thấy ngài không, hỡi những ma thần

bị trần gian buộc ràng bằng những con mắt liếc?

Nếu các ngươi không nhìn thấy ngài bởi vì

sự vô minh vĩ đại trong các ngươi

và những tội lỗi ưu phiền của các ngươi

từ những ngày trước của vòng tròn vô thủy che khuất.

Trừ phi các ngươi sám hối tội lỗi

các ngươi không phải là những chiếc bình

chứa nổi sự sâu xa của giáo pháp.

Xưa kia các ngươi bị thù hận thiêu đốt

nhưng từ đây các ngươi phải tu sửa

những con đường xấu xa, lừa dối của các ngươi,

nếu các ngươi tự buộc mình vào tín ngưỡng với lời trọng thệ.

Biết rằng giáo lý này không có kết quả nào khác hơn

trừ phi các ngươi suy tư kỹ về nguyên nhânhậu quả

của mọi hành vi thiện ác,

các ngươi sẽ chịu những khốn khổ vô cùng nơi địa ngục.

Ta cầu mong các ngươi nhớ phải thận trọng trong những việc nhỏ,

vì dù nhỏ chúng vẫn có thể có ảnh hưởng nhiều.

Trừ phi các ngươi nhìn thấy những đối tượng khoái lạc của giác quan

đầy tội lỗi, và tiêu diệt được dục vọng từ bên ngoài

các ngươi sẽ thoát khỏi tù ngục thế gian này.

Ta cầu nguyện cho các ngươi biết trong tâm

tất cả đều hư huyễn

và hãy tin cậy vào sự trợ giúp của lời dạy này

khi bất cứ việc gì xảy đến.

Trừ phi các ngươi bày tỏ lòng biết ơn bằng hành động

với những chúng sinh từ ái của sáu đường (1)

đã sinh ra các ngươi trong những đời trước,

các ngươi hãy chia xẻ sự lầm lạc của Tiểu Thừa.

Vì thế ta cầu nguyện tình thương vĩ đại dạy cho các ngươi giác ngộ.

Nếu các ngươi lắng nghe và thực hành những lời khuyên dạy quí báu này

các ngươi sẽ trở thành hiền nhân của Đại Thừa Phật Giáo; chúng ta sẽ là anh em trong quán tưởng, tu hành

đạo chúng ta trong đời này sẽ là một và giống nhau;

và trong các cõi thanh tịnh siêu việt

nơi đức năng viên mãn

chúng ta sẽ gặp nhau: nghi ngờ đã hết.

27

Tám phi thiên thần nữ đến cầu Milarepa chỉ dạy, ông đã giáo huấn họ trong bài hát này. Các nữ thần này tương tự như các thiên nữ của Phật Giáo, và họ cũng xem thường các định luật luân hồi thông thường. Họ có thể hiền lành hay hung dữ và thay đổi tuỳ theo mỗi hoá thân; khi hung dữ họ phải được khuyên răn để trở thành hữu ích. Để đạt được điều này, Milarepa tán khuyên họ đồng nhất hoá chính họ với thiện năng, như được tiêu biểu bằng vị thần giám hộ của ông, ông sẽ dẫn dắt họ vào chính đạo bằng uy lực bí mật. Rồi nếu họ chịu thiền định về tri thức đã truyền dạy cho họ như là chân không, họ sẽ bất ngờ đạt được giác ngộ.

 

Cúi đầu đảnh lễ Marpa xứ Lhobrak.

Ta cầu mong những tặng phẩm tinh thần

từ ân huệ cha và thầy ta ban xuống.

Hỡi tám nàng con gái đẹp của thần linh,

ta đã vui hưởng trầm tư sau khi các nàng dâng cơm trắng vì thế cuộc tịnh dưỡng này đã làm cho ta thêm sùng tín.

Để tạ ân, ta sẽ dạy giáo lý cho các nàng,

hãy lắng nghe và áp dụng nơi lòng.

Vương quốc của chư thần thanh tịnh nhất

mặc dù nó dường như hư không

và sự tinh nghịch dịu dàng của chư thần nữ trẻ

mặc dù đó là cảnh vui vẻ nhưng chóng tàn;

ảo ảnh hư ngụy lường gạt nhãn quan

mặc dù đem lại niềm vui lớn, nó đưa dẫn đến diệt vong;

Và sự đau khổ của sáu loại chúng sanh nơi trần thế

khi xét đến, tim ta sẽ bị kích động nhiều.

Vì thế các nàng muốn thực hành thánh giáo

hãy cầu xin nơi Tam bảo chí tôn,

nơi trú ngụ (10) của lòng tin kính tín,

và hãy suy tư về sáu loại chúng sinh vì trước kia

đã sinh ra các nàng trong vòng luân hồi sinh tử.

Hãy cúng dường cho chúa cho thầy

hãy bố thí cho kẻ nghèo thiếu thốn

và hãy dành đức tâm để lợi ích loài người.

Hãy luôn luôn trầm tư về sự bất định của giờ chết.

Hãy tin rằng bản thân các nàng là vị thần hộ mệnh

và hãy hành động theo lời của uy lực mật ngôn;

hãy trầm tư tri thức như chân không vượt qua toàn hiểu biết

và hãy ý thức luôn luôn về chân lý.



[1] “Thầy” ở đây là danh từ chỉ tước hiệu trong đạo chứ không chỉ người dạy mình, có lẽ tiếng Tây Tạng gọi là Lama (Lạt ma).



Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 31788)
Tôi tin hy vọng rằng tất cả người dân Nepal nhân mùa lễ này hãy chuyển hóa những vụn vỡ để có thể làm cho mọi thứ trở nên nhẹ nhàng hơn trong cuộc sống giống như thông điệp của Đại lễ về giá trị con người.
(Xem: 10567)
Các phương cách đản sanh của chư Phật đều giống nhau như sự xuất hiện của các ngài giữa thế gian này đã cảm ứng đến thế giới chư thiên và các loài khác
(Xem: 11287)
Người đã đến, vầng hồng dương rạng rỡ, Bước nhiệm huyền bừng nở những đài sen, Ưu Đàm hoa còn lưu hương muôn thuở. Cõi trầm luân còn nhắc nhớ bao phen..
(Xem: 12815)
Tháng tư âm lịch tưng bừng, Vườn Lâm-tỳ-ni đón mừng Đản Sanh. Ca-tỳ-la-vệ cửa thành, Trên không nhẹ thoảng âm thanh lạ thường.
(Xem: 10863)
Hãy lắng nghe lời Thầy-Tổ nói, minh bạchấn tượng hơn: “Nói lời Phật nói, nghĩ điều Phật nghĩ, làm điều Phật làm.”
(Xem: 16763)
Trường A Hàm I, "Thiên thượng thiên hạ duy ngã độc tôn. Duy ngã vi tôn, yếu độ chúng sanh, sanh lão bệnh tử"...
(Xem: 10861)
Hai ngàn năm trăm bốn mươi mốt năm đã trôi qua, nhưng hình bóng và biểu tượng cao quý của Đức Phật vẫn luôn ngời sáng trong lòng mọi người con Phật.
(Xem: 23031)
Của Chánh Văn Phòng GHPGVNTN Hoa Kỳ - HT Thích Thắng Hoan
(Xem: 12113)
Được làm con Phật là điều vừa đơn giản, vừa hy hữu. Đơn giản, vì sinh ra trong một gia đình Phật giáo thì tự động theo cha mẹ đi chùa, lễ Phật, tin Phật ngay từ bé.
(Xem: 11545)
Này người thanh niên! Ví như có một gian phòng tăm tối suốt cả nghìn năm dài. Nếu muốn thắp sáng cho nó, con cần phải đốt bao nhiêu ngọn đèn và mất bao nhiêu lâu để dẹp cho nó tươm tất?
(Xem: 10744)
Mãi cho đến tháng 12 năm 1999 mới được công nhậntuyên bố Đại lễ Phật Đản Quốc tế (lễ Vesak – Tam hợp) tại trụ sở Hội Đồng Liên Hiệp Quốc, New York City (Hoa Kỳ) vừa qua.
(Xem: 12392)
Trần Nhân Tông (chữ Hán: 陳仁宗; 7 tháng 12 năm 1258 – 16 tháng 12 năm 1308,) là vị vua thứ 3 của nhà Trần trong lịch sử Việt Nam.
(Xem: 11239)
Dê là loài động vật hiền lành, gần gũi với đời sốngsinh hoạt của con người. Nó là một trong lục súc: ngựa, trâu, dê, chó, lợn, gà.
(Xem: 10070)
Vào dịp cuối năm, đầu năm, dương lịch hay âm lịch, có lẽ không có nhóm từ nào được mọi người dùng đến nhiều như là mấy chữ "Chúc mừng năm mới."
(Xem: 10362)
Không có stress có lẽ con người cũng không thể tồn tại. Thế nhưng, vượt ngưỡng đến một mức nào đó thì con người cũng…không thể tồn tại, bởi chính stress gây ra nhiều thứ bệnh về thể chấttâm thần...
(Xem: 11967)
“Giáo Pháp của Như Lai: thiết thực, hiện đại, không thời gian, đến để mà thấy, có thể đưa đến chứng ngộ, được người trí tự mình giác hiểu.”
(Xem: 10744)
Các nhà y học chính thốngbảo thủ nhất cũng đã phải công nhận thiền là một phương pháp trị liệu khoa học và hiệu quả trên một số bệnh lý, cũng như cải thiện cả hành vilối sống...
(Xem: 12412)
Thiền là phương pháp thâm cứu và quán tưởng, hay là phương pháp giữ cho tâm yên tĩnh, phương pháp tự tỉnh thức để thấy rằng chân tánh chính là Phật tánh...
(Xem: 9862)
Tu thiềnthực hiện theo nguồn gốc của đạo Phật. Vì xưa kia, Đức Phật tọa thiền suốt bốn mươi chín ngày đêm dưới cội bồ đề mới được giác ngộ thành Phật.
(Xem: 11316)
Cứ mỗi độ xuân về, chắc chắn ai trong chúng ta cũng đều cảm thấy có một chút gì khiến cho cõi lòng bâng khuâng, xao xuyến trước cảnh vật thiên nhiên...
(Xem: 13876)
Gom tâm an trụ và làm cho tâm trở nên vắng lặng, rồi dùng tâm an trụ ấy quán chiếu thân và tâm.
(Xem: 9617)
Thiền là một pháp môn do sáng kiến của đức Phật, do kinh nghiệm tu tập bản thân của Ngài, và chính nhờ kinh nghiệm bản thân ấy mới giúp cho Ngài xây dựng một pháp môn giải thoátgiác ngộ.
(Xem: 12679)
Vô Niệm Viên Thông Yếu Quyết nếu cắt nghĩa chung thì ta có thể nói là bí quyết thoát trần, bí quyết thoát vòng tục lụy, bí quyết giải thoát, bí quyết để chứng thẳng chơn tâm hay bí quyết để đi vào minh tâm kiến tánh.
(Xem: 9728)
Chúng ta tu học Phật pháp, mục tiêu đầu tiên tất nhiên phải thoát ly sinh tử, ra khỏi lục đạo luân hồi.
(Xem: 10496)
xem thường chúng sinh, chính mình luôn có thái độ cống cao ngã mạn khiến cơ hội vãng sinh bất thoái thành Phật.
(Xem: 10613)
Thiền là phương pháp buông xả. Khi hành Thiền, bạn buông xả cả thế giới phức tạp bên ngoài để đạt đến trạng thái an tịnh nội tâm đầy uy lực.
(Xem: 10370)
Kinh Đại Tập nói rằng: ”Thời đại mạt pháp hàng trăm triệu người tu hành, ít có một người đắc đạo, chỉ nương niệm Phật sẽ qua được biển sinh tử”.
(Xem: 9950)
Phật giáogiáo dục, đích thực là giáo dục chí thiện viên mãn của Thích Ca Mâu Ni Phật đối với chúng sanh trong chín pháp giới.
(Xem: 11095)
Hãy sống trọn vẹn, thực hành tinh tấn và tập trung vào những gì mà bạn làm hoặc khi bạn đi, đứng, nằm, ngồi hay làm việc.
(Xem: 12042)
Đức Phật dạy chúng ta niệm A Di Đà Phật, chúng ta nghe theo lời dạy của đức Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật mà niệm Phật cầu sanh Tịnh Độ.
(Xem: 10185)
Phật giáo Trung Quốc được lần lượt truyền từ Ấn Độ sang đến nay đã hơn hai nghìn năm và được truyền bá rộng rãi đến ngày nay.
(Xem: 10816)
Phật, chính là thực tướng các pháp, chân tướng của tất cả pháp. Nếu bạn trái với chân tướng thì chính là ma,
(Xem: 9586)
Khổ đau đã gắng liền với con người như bóng với hình, cho dù có trốn chạy cũng không thể nào thoát ra. Đã không trốn chạy được, phương pháp hay nhất là ...
(Xem: 9941)
Chúng ta may mắn được nghe Phật Pháp, đương nhiên cần phải chiếu cố đến chúng sanh ở tận hư không pháp giới, nhất là những oan gia trái chủ của mình trong nhiều đời nhiều kiếp.
(Xem: 8835)
Phương pháp tiêu trừ nghiệp chướng tốt nhất là đoạn ác tu thiện, tích công bồi đức, một lòng niệm Phật.
(Xem: 9534)
Người niệm Phật tu hành chẳng những được phước rất lớn, mà chính mình cũng được vãng sanh Cực Lạc.
(Xem: 14574)
Yếu chỉ của tam muội trong pháp môn niệm Phật là sự " lắng nghe" chứ không cốt niệm cho nhiều mà tâm chẳng rõ.
(Xem: 8815)
Tại sao công phu niệm Phật của mọi người không được đắc lực? Nguyên nhân là vì không nhìn thấu, không buông xả, và cũng vì chưa hiểu rõ được chân tướng của vũ trụ nhân sanh.
(Xem: 12610)
Chính nương vào nhị đế mới có thể thi thiết phương tiện thiện xảo để độ mình, độ người và xiển dương Chánh Pháp.
(Xem: 10469)
Thiền là một pháp môn hay là một trường phái của Phật giáo, và những người thực tập theo pháp môn này xem nó như là cốt tủy của đạo Phật.
(Xem: 9129)
Một lòng chuyên niệm không có tâm Bồ Đề, cũng không thể vãng sanh, cho nên phát tâm Bồ Đề cùng một lòng chuyên niệm phải kết hợp lại, thì bạn quyết định được sanh Tịnh Độ.
(Xem: 10610)
Tất cả những giáo lý về con đường Ati Dzogchen có thể xếp vào ba chủ đề : Nền Tảng, Con Đường, và Quả.
(Xem: 9371)
Niệm Phật là một pháp môn dễ hành nhưng khó tin, nhất là trong thời đại điện toán này, thời đạicon người lo cho vật chất nhiều hơn là lo cho đời sống tâm linh.
(Xem: 8830)
"Cực Lạc Thù Thắng", có nghĩa là người tu về Pháp môn Tịnh độ chuyên lòng niệm Phật A Di Đà, cầu sanh về cõi Cực lạc, được y báo chánh báo trang nghiêm thù thắng.
(Xem: 10562)
Kinh Phật nói: “Tất cả sự khổ vui đều do tâm tạo”. Vậy muốn cải thiện con người, tạo hoàn cảnh tốt, phải tìm sửa đổi từ chỗ phát nguyên....
(Xem: 9247)
Chúng sinh tận hư không khắp pháp giới, chúng ta đều phải độ. Vậy chữ “độ” này có ý nghĩa gì? Nếu dùng ngôn ngữ hiện đại, thì “độ” là quan tâm, yêu quí, dốc lòng dốc sức giúp đỡ.
(Xem: 8394)
Cần chân thật phát nguyện cầu sanh Tịnh Độ, thế giới Cực Lạc trong ao bảy báu liền mọc lên một nụ hoa, chính là hoa sen.
(Xem: 12081)
Hãy nhớ rằng duy chỉ có bạn là người có thể thay đổi cuộc đời mình tốt đẹp hơn và thiền đã chứng tỏ sự hiệu nghiệm của nó đối với không biết bao nhiêu người.
(Xem: 9742)
Trong Kinh tạng Pàli, có một số văn đoạn nêu rõ kinh nghiệm hành thiền của Đức Phật, rất quan trọng và bổ ích cho việc hành thiền của người Phật tử.
(Xem: 10250)
Hãy thực hành bằng sự tinh tấn dũng mảnh, bền bỉ, và không để mất chút thì giờ nào. Hãy khuyên và khuyến khích những người khác cùng thực hành.
(Xem: 10266)
Thực tập chánh niệm ngày càng trở thành một đề tài được ưa chuộng trong giới lãnh đạo doanh nghiệp.
(Xem: 19211)
Bản dịch tiếng Việt Ba Trụ Thiền do chúng tôi thực hiện lần đầu tiên vào năm 1985 tại Sài gòn, Việt nam
(Xem: 9454)
Chúng ta nên tu theo pháp môn niệm Phật, ai có nhân duyên về Tịnh độ trước thì lo chuẩn bị tiếp rước người đến sau. Nếu chí thành theo con đường niệm Phật Di Đà cầu sanh tịnh độ thì dứt khoát sau nầy cả gia đình, ngay cả dòng họ sẽ gặp nhau cả
(Xem: 9027)
Phật phápchân lý của vũ trụ nhân sanh, chân thật thông đạt tường tận rồi thì hoan hỉbố thí, không chút bỏn xẻn. Bố thí càng nhiều vui sướng càng cao,
(Xem: 9609)
Ta được biết là có nhiều cõi Tịnh Độ, nhiều cõi linh thánh của những Đấng Giác ngộchúng ta gọi là chư Phật. Cõi Tịnh Độ của Đức Phật Vô Lượng Quang A Di Đà thì đúng là một nơi độc nhất vô nhị.
(Xem: 9033)
Vãng sanh nhất định phải đầy đủ tín, nguyện, hạnh. Nếu như tín nguyện của bạn không kiên định, không thiết tha, thì Phật hiệu niệm nhiều bao nhiêu đi nữa cũng không thể vãng sanh.
(Xem: 14810)
Nguyện đem lòng thành kính, gởi theo đám mây hương, Phưởng phất khắp mười phương, cúng dường ngôi Tam bảo.
(Xem: 10127)
Ước vọng của con người luôn là những gì tốt đẹp, sung túc và dài lâu, cần phải đạt được trong một tương lai gần nhất.
(Xem: 8402)
Phật cho chúng ta một lợi ích vô cùng lớn vô cùng thù thắng, đó là dạy chúng ta trong một đời này được thành Phật.
(Xem: 8983)
Tâm mình thanh tịnh, tự tại, yên ổn thì đó tức là Tịnh độ. Chư Phật và chư Tổ khai huyền xiển giáo để chúng sanh trong đời này có đường hướng để đi, mà đường hướng nào cuối cùng cũng gặp nhau nơi tự tánh Di Đà, duy tâm Tịnh độ.
(Xem: 9023)
Đức Thích Ca Mâu Ni khai thị pháp môn niệm Phật tức là muốn cho hết thảy chúng sinh thâu nhiếp lục căn, khiến được tịnh niệm tương tục, xưng niệm “Nam Mô A Di Đà Phật”, niệm đến cảnh giới tâm cảnh đều vắng lặng thì Phật tánh sẽ tự hiển hiện.
(Xem: 8771)
Pháp môn Tịnh độ là một pháp môn thích đáng, khế hợp mọi căn cơ, dễ tu, dễ chứng, chư Phật trong mười phương đã dùng pháp môn này để cứu vớt hết thảy chúng sinh xa rời nẻo khổ, chứng đắc Niết bàn ngay trong một đời.
(Xem: 9408)
Pháp môn niệm Phật còn gọi là pháp môn Tịnh độ, lại được gọi là “Liên Tông”, lại được gọi là “Tịnh Tông”. Lòng từ của Đức Thích Ca Mâu Ni thật là vô hạn, Ngài quán xét căn cơ của chúng sinhcõi Ta bàban cho pháp môn tối thắng này.
(Xem: 14656)
不二 hay "vô nhị", tiếng Sanskrit gọi là “Advaita”, tiếng Anh gọi là "Nonduality". Phật học tiểu từ điển giải thích “bất nhị” là “không phân biệt đối với tất cả mọi hiện tượng”, siêu việt trên mọi phân biệt.
(Xem: 9062)
Ái hà ngàn thước sóng xao, Muôn trùng biển khổ lấp đầu than ôi! Muốn cho khỏi kiếp luân hồi, Phải mau gấp niệm Nam mô Di Đà.
(Xem: 8816)
Pháp môn niệm Phật để cầu sanh về Tịnh độ (Cực lạc), thì phải hiểu biết lịch sử của đức Phật A Di Đà thế nào, và 48 lời nguyện ra sao.
(Xem: 9072)
Kinh Dược Sư Lưu Ly bổn nguyện công đức dạy rằng: “Cứu thả các sinh mạng được tiêu trừ bệnh tật, thoát khỏi các tai nạn.” Người phóng sinh tu phước, cứu giúp muôn loài thoát khỏi khổ ách thì bản thân không gặp các tai nạn.
(Xem: 10574)
Ngài nhận một bó cỏ Cát tường (Kusa) từ người nông dân chăn trâu tên Svastika, rồi trải cỏ làm tòa ngồi và tuyên thệ: “Nếu ta không tìm ra Chân lý tối thượng, ta quyết không rời khỏi nơi này”
(Xem: 8674)
Tinh thần của Phật pháp là nhằm xét đoán chính mình, chứ không xét đoán người khác, người khác đều là người tốt, đều là Phật, Bồ Tát, những gì người khác làm đều đúng đắn, đều chính xác.
(Xem: 10039)
pháp môn niệm Phật, lấy nhất tâm niệm Phật, cầu sinh Tây phương, ly khổ đắc lạc. Nhìn vào thấy như là Tiểu thừa, chỉ tự lợi mình, nhưng thực tế mà nói thì là Đại thừa, có thể lợi tha.
(Xem: 24375)
Phật giáo Bắc tông nói chung, Thiền tông nói riêng đều lấy giác ngộ làm mục đích tiến tu. Dù là tu sĩ xuất gia hay cư sĩ tại gia trong khi tu hành được đôi phần giác ngộ đều được mọi người quí kính.
(Xem: 10220)
Sau khi thành đạo, Đức Phật Thích Ca đã thấu suốt cội nguồn pháp giới trong vũ trụ. Ngài đã nhìn thấy rõ mỗi chúng sanh đều có Phật tánh, nhưng vì mê muội mà chưa nhận được.
(Xem: 11077)
A Di Đà Phật, danh hiệu này là vạn đức hồng danh, tại sao vậy? Danh hiệu này là danh hiệu của tự tánh, là danh hiệu của tánh đức.
(Xem: 9052)
Pháp môn Tịnh độ theo như huyền ký của Đức Phật trong Kinh Vô Lượng ThọKinh Đại Tập là một pháp môn thù thắng và rất thích hợp với chúng sanh trong thời mạt pháp này.
(Xem: 9515)
Pháp môn niệm Phật từ trước đến nay được phổ biến rộng rãi, hàng Phật tử đều có thể ứng dụng thực hành và đã chứng nghiệman lạc, lợi ích từ câu Phật hiệu.
(Xem: 8035)
Một trong những duyên khởi đưa tôi tới sự học hỏi pháp môn Tịnh Độ là lần đi cúng thất đầu tiên của bác tôi
(Xem: 9313)
Trong Phật giáo, niệm là một thuộc tính của tâm, gọi là tâm sở pháp
(Xem: 15415)
Quyển Ngữ Lục này là tập hợp từ những lời thị chúng của Thiền Sư Duy Lực trong những kỳ thiền thất tại Việt Nam kể từ năm 1983 cho đến những năm tháng cuối đời.
(Xem: 10379)
Vun xới các phẩm tính nội tâm chính là cách hữu hiệu hơn cả để giúp mình giúp đỡ kẻ khác.
(Xem: 9608)
Buổi sáng hôm đó, nắng vàng rất đẹp, mây xanh trong vắt và những bông hoa lựu đỏ thắm, nở rực rỡ trên con đường dẫn ra bờ sông Neranjara.
(Xem: 17494)
Chúng tôi giảng rất nhiều lần bộ kinh Vô Lượng Thọ, tính sơ đến nay cũng khoảng mười lần. Mỗi lần giảng giải đều không giống nhau.
(Xem: 21506)
Giáo pháp được đưa vào thế giới khi Đức Thích Ca chứng đạo tối thượng, lần đầu tiên thuyết về Chân Như và về những phương pháp hành trì đưa đến chứng ngộ.
(Xem: 12206)
Pháp Sự Toàn Tập Giảng Ký, Lão pháp sư Thích Tịnh Không giảng tại Úc Châu Tịnh Tông Học Viện, Chuyển ngữ: Bửu Quang Tự đệ tử Như Hòa
(Xem: 10267)
Trong rừng hương giáo pháp, “Những Đoá Hoa Thiền” cũng mang một đặc vẻ đặc kỳ diễm ảo của chúng. “Như nhân ẩm thủy, lãnh noãn tự tri.”
(Xem: 19334)
Thiền sư Nghi Mặc Huyền Khế tìm được những lời của đại sư Hà Ngọc nơi bộ Ngũ Tông lục của Quách Chánh Trung và những trứ tác của các vị Huệ Hà, Quảng Huy, Hối Nhiên...
(Xem: 26122)
Kinh quán Vô Lượng Thọ Phật là một trong ba bộ kinh chính yếu của tông Tịnh Độ, được xếp vào Đại chánh tạng, tập 16, No. 1756.
(Xem: 8009)
Từng đợt lá thay nhau úa vàng, héo khô, lả tả rơi theo gió mùa. Từng cơn mưa nặng hạt, rơi xuống những mảnh đất đã cằn khô, nứt nẻ.
(Xem: 14874)
Tết là ngày lễ hội lớn nhất trong năm, là dịp để mọi người đều hớn hở và đặt tất cả những niềm hy vọngước mơ của mình vào tương lai.
(Xem: 10672)
Giật mình nhìn lên bệ, Cứ ngỡ rằng trong mơ: Pho tượng Phật đi vắng. Ngoài kia xuân đã về.
(Xem: 11396)
Những bài kinh Phật không có bài nào là không hay. Có miệt mài trên những trang kinh xưa mới cảm được sự vang động của suối nguồn trí tuệ.
(Xem: 9560)
Pháp môn Tịnh Độcon đường chính yếu dẫn chúng sanh thời nay thoát sanh tử, là chiếc thuyền vững chắc đưa mọi người vượt thẳng qua năm đường.
(Xem: 18758)
Quyển Luận này về hình lượng rất bé bỏng, nhưng về phẩm chất thật quí vô giá. Một hành giả nếu thâm đạt ý chí quyển Luận này là đã thấy lối vào Đạo.
(Xem: 12412)
Pháp tu Tonglen, hay cho (tong) và nhận (len), là một pháp tu của chư Bồ tát, những đứa con thiện nam tín nữ dũng cảm nhất của các đấng chiến thắng
(Xem: 11940)
Ta đã có được thân người hy hữu khó tìm, cùng với các tự dothuận lợi đầy ý nghĩa. Ta đã gặp được giáo huấn hiếm có của Đức Phật.
(Xem: 10798)
Tôi sẽ dựa theo tác phẩm có tựa đề Năm Điểm Chỉ Giáo về Pháp Chiết Xuất Tinh Chất, do Đức Đạt Lai Lạt Ma thứ Hai, Gendun Gyatso sáng tác.
(Xem: 13384)
Pháp luyện tâm nói về hành trì của các hành giả cao cả. Khi tu tập để phát bồ đề tâm, trước hết, ta phải phát khởi các thực chứng của một hành giả sơ căn và trung căn trong lamrim...
(Xem: 10043)
Chúng ta đã có được kiếp sống lý tưởng, hỗ trợ cho các tự dothuận lợi rất khó tìm. Ta đã gặp được giáo huấn quý báu vốn khó gặp của Đức Phật, đã tìm ra các vị thầy tâm linh khó tìm của Đại thừa...
(Xem: 9300)
Người tu Thiền chơn chính được gọi là ngồi Thiền "vô sở đắc" lại nữa đó cũng gọi là "Bổn chứng diệu tu" của sự tọa Thiền.
(Xem: 9425)
Quả thật là có một cõi như thế, gọi là cõi Tịnh Độ Hiện Tiền. Cõi ấy không bị giới hạn bởi không gian hay thời gian...
(Xem: 15952)
Tập sách chủ yếu làm sáng tỏ một số điểm giáo lýpháp môn thực hành nòng cốt của Phật giáo từ Nguyên thủy cho đến Đại thừa...
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant