THERAVĀDA
- PHẬT GIÁO NGUYÊN THỦY
CƯ SĨ GIỚI
PHÁP
Tỳ
kheo Giác Giới (Bodhisīla Bhikkhu) biên soạn
PL.
2550 - TL. 2006
CHƯƠNG
IV
CÁC NGHI THỨC
KHÓA LỄ
IV-2.
NGHI THỨC QUI Y
Những
người nam hoặc nữ cư sĩ muốn tu tập theo Phật giáo đã
có lòng kính tin Tam bảo, phát tâm qui y Phật-Pháp-Tăng. Trường
hợp như vậy có thể áp dụng một trong hai nghi thức qui y.
A-
Tự phát nguyện qui y
Trường
hợp này khi người cư sĩ không có dịp đến chùa gặp chư
Tăng xin qui y mà ở nhà tự phát nguyện. Bằng nghi thức như
sau:
Nên
sắp xếp một nơi trong nhà thờ hình tượng Phật; sau khi
dâng hương đăng trên bàn thờ, quì lạy kim thân Đức Phật
ba lạy, bắt đầu tụng đọc như vầy:
Itipi
so bhagavā arahaṃ sammāsambuddho vijjācaranasampanno sugato lokavidū
anuttaro purisadammasārathī satthādevamanussānaṃ buddho bha-gavā’
ti.
Đức
Thế Tôn ấy là bậc Ưng Cúng, Chánh Biến Tri, Minh Hạnh Túc,
Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Điều Ngự Trượng
Phu, Thiên Nhân Sư, Phật, Thế Tôn.
Svākkhāto
bhagavatā dhammo sa diṭṭhiko akāliko ehipassiko opanayiko paccattaṃ
veditabbo viñ-ñūhī’ ti.
Giáo
pháp được Đức Thế Tôn khéo thuyết, thiết thực hiện
tại, bất luận thời gian, đến để thấy, hiệu năng hướng
thượng, đáng được người trí tự chứng.
Supaṭipanno
bhagavato sāvakasaṅgho ujupatipanno bhagavato sāvakasaṅgho ñāyapaṭipanno
bhagavato sāvakasaṅgho sāmīcipaṭipanno bhagavato sāvakasaṅgho.
Yadidaṃ cattāri purisayugāni aṭṭha purisapuggalā esa bhagavato
sāvakasaṅgho āhuneyyo pāhuneyyo dakkhineyyo añjalikaraṇīyo anuttaraṃ
puññakkhettaṃ lokassā’ ti.
Tăng
đệ tử Thế Tôn là thiện hạnh, Tăng đệ tử Thế Tôn là
trực hạnh, Tăng đệ tử Thế Tôn là như lý hạnh, Tăng đệ
tử Thế Tôn là chân chánh hạnh. Tăng đệ tử Thế Tôn gồm
bốn đôi tám vị đáng nhận lễ phẩm, đáng nhận tặng phẩm,
đáng nhận tế phẩm, đáng được chắp tay lễ bái, là phước
điền vô thượng của thế gian. (lạy một lạy).
Arahaṃ
sammāsambuddho bhagavā buddhaṃ bhagavantaṃ abhivādemi.
Con
kính lạy Đức Phật Thế Tôn là bậc A la hán Chánh Đẳng
Giác. (1 lạy).
Svākkhāto
bhagavatā dhammo dhammaṃ namassāmi.
Con
kính lạy giáo pháp là pháp được khéo thuyết bởi Đức
Thế Tôn. (1 lạy).
Supaṭipanno
bhagavato sāvakasaṅgho saṅghaṃ namāmi.
Con
kính lạy Tăng chúng là Tăng đệ tử Đức Thế Tôn, bậc
thiện hạnh. (1 lạy).
Buddhaṃ
saraṇaṃ gacchāmi
Dhammaṃ
saraṇaṃ gacchāmi
Saṅghaṃ
saraṇaṃ gacchāmi.
Dutiyampi
buddhaṃ saraṇaṃ gacchāmi
Dutiyampi
dhammaṃ saraṇaṃ gacchāmi
Dutiyampi
saṅghaṃ saraṇaṃ gacchāmi.
Tatiyampi
buddhaṃ saraṇaṃ gacchāmi
Tatiyampi
dhammaṃ saraṇaṃ gacchāmi
Tatiyampi
saṅghaṃ saraṇaṃ gacchāmi.
Con
xin qui y Phật, con xin qui y Pháp, con xin qui y Tăng.
Lần
thứ hai, con xin qui y Phật, con xin qui y Pháp, con xin qui y Tăng.
Lần
thứ ba, con xin qui y Phật, con xin qui y Pháp, con xin qui y Tăng.
(1 lạy).
Natthi
me saraṇaṃ aññaṃ buddho me saraṇaṃ varaṃ. Etena saccavajjena
hotu me jayamaṅgalaṃ.
Natthi
me saraṇaṃ aññaṃ dhammo me saraṇaṃ varaṃ. Etena saccavajjena
hotu me jaya-maṅgalaṃ.
Natthi
me saraṇaṃ aññaṃ saṅgho me saraṇaṃ varaṃ. Etena saccavajjena
hotu me jayamaṅgalaṃ.
Chẳng
có chi khác là chỗ nương cho con, chỉ Đức Phật đối với
con là chỗ nương cao quí. Do lời chân thật này mong cho con
được kiết tường thắng lợi.
Chẳng
có chi khác là chỗ nương cho con, chỉ Giáo pháp đối với
con là chỗ nương cao quí. Do lời chân thật này, mong cho con
được kiết tường thắng lợi.
Chẳng
có chi khác là chỗ nương cho con, chỉ Tăng chúng đối với
con là chỗ nương cao quí. Do lời chân thật này, mong cho con
được kiết tường thắng lợi.-- (lạy 3 lạy).
Từ
khi phát nguyện qui y, đã thành người cận sự trong Phật
giáo, hãy giữ niềm tin Tam bảo và giữ gìn năm giới.
B-
Qui y trực diện Tăng
Người
cư sĩ qui y trực diện Tăng là sau khi đi đến chùa, trực
tiếp xin qui y trước sự chứng minh của một hoặc nhiều
vị sư. Tốt nhất là lễ qui y nên cử hành tại chánh điện.
Phải
làm theo nghi thức sau đây:
Trước
tiên nên sám hối tội lỗi để bắt đầu nhập đạo. Sau
khi đảnh lễ Phật-Pháp-Tăng ba lạy, bắt đầu đọc như
sau:
Accayo
maṃ bhante accagamā yathābālaṃ ya-thāmūḷhaṃ yathā-akusalaṃ.
Yo’haṃ [1] bhante kāyena vā vācāya vā manasā vā buddhassa vā
dhammassa vā saṅghassa vā agāravaṃ akāsiṃ. Tassa [2] me ayyo
[3] accayaṃ accayo paṭiggaṇhātu āyatiṃ saṃvarāya.
Bạch
đại đức [4], vì con là người thiểu trí, lầm lạc, không
minh mẫn nên đã phạm các tội lỗi. Bạch đại đức, sợ
e con đã dể duôi, không có lòng thành kính, do thân khẩu ý
của con bất tịnh mà phạm đến Phật Pháp Tăng. Bạch đại
đức, cầu xin đại đức xá tội lỗi ấy cho con, bởi các
tội lỗi ấy là quấy thật, đặng cho con làm những việc
lành từ nay về sau (1 lạy).
Vị
sư chứng minh, hoặc chư Tăng chứng minh nên xác chứng lời
sám hối bằng tiếng "Sādhu, sādhu, sādhu".
Người
ấy tiếp tục bằng lời thệ nguyện qui y như sau:
Esvāhaṃ
[5] bhante suciraparinibbutampi taṃ bha-gavantaṃ saraṇaṃ gacchāmi
dhammañca bhikkhusaṅ-ghañca upāsakaṃ [6] maṃ ayyo dhāretu [7]
ajjatagge pāṇu-petaṃ saraṇaṅgataṃ.
Bạch
đại đức [8], con cầu xin thọ phép qui y Phật đã níp bàn,
cầu xin thọ phép qui y pháp, cầu xin thọ phép qui y tăng. Xin
đại đức nhận biết cho con là người cận sự nam [9] đã
qui y Tam bảo kể từ nay cho đến trọn đời. (1 lạy).
Khi
ấy vị sư chứng qui y, hoặc một trong những vị Tăng chứng,
hãy truyền qui giới cho người cư sĩ ấy (áp dụng nghi thức
thọ ngũ giới).
Sau
khi người cư sĩ ấy đã thọ trì qui giới và trở thành một
Phật tử, chư Tăng sách tấn bằng một pháp thoại ngắn rồi
phúc chúc an lành đến người Phật tử mới qui y.
Nếu
trong lễ qui y có nhiều thiện nam tín nữ tham dự thì khi chư
Tăng vừa dứt lời chúc phúc, chư thiện tín đồng đọc bài
kệ hoan hỷ có thêm bạn đạo.
Ngưỡng
cầu Đức Phật ban ơn
Độ
người chánh kiến tầm chơn đạo thiền
Ngưỡng
cầu đức pháp vô biên
Độ
người hữu chí cần chuyên đạo hành
Ngưỡng
cầu hai bậc Tăng lành
Độ
người mộ đạo tâm thành qui y
Cầu
xin thiên chúng hộ trì
Giúp
người giới luật luôn khi giữ tròn
Chúc
cho bạn mới lòng son
Tu
hành tinh tấn dạ mong Níp bàn
Thiện
nam, tín nữ lưỡng ban
Xin
cùng đồng chí bạn vàng nhận thâu
Phước
lành đạo tạo bấy lâu
Đồng
xin hồi hướng nguyện cầu quả cao
Đạo
mầu gắng chí dồi trau
Thoát
đường tội lỗi, trần lao dứt lần
Tìm
người trí thức xa gần
Học
người đạo đức ân cần hỏi han
Ngày
đêm tu tập đoan trang
Công
phu hành đạo tìm đàng vô sanh
Dọn
thân khẩu ý trọn lành
Kịp
thời thoát tục thực hành đạo cao
Tìm
đường bát chánh lần vào
Siêu
phàm nhập thánh tiêu dao Níp bàn.
Dứt
nghi thức qui y
I.6.
VAI TRÒ CƯ SĨ TRONG PHẬT GIÁO
Đức
Phật có tâm đại bi với chúng sanh, Ngài thuyết pháp vừa
theo trình độ và hoàn cảnh của mỗi người, để họ có
thể thực hành theo giáo pháp hầu được an vui hạnh phúc
và giải thoát khỏi khổ luân hồi như Ngài.
Giáo
pháp của Đức Phật ứng dụng cho cả hai giới xuất gia và
tại gia.
Người
cư sĩ trong Phật giáo cũng có trách nhiệm nặng nề đối
với việc tồn vong của chánh pháp.
Đức
Phật có thuyết rằng:
"Ở
đây, sau khi Như Lai nhập diệt, các tỳ kheo, các tỳ kheo ni,
nam cư sĩ, nữ cư sĩ sống tôn trọng và qui thuận bậc Đạo
Sư, sống tôn trọng và qui thuận giáo pháp, sống tôn trọng
và qui thuận Tăng chúng, sống tôn trọng và qui thuận học
giới, sống tôn trọng và qui thuận lẫn nhau. Đây là nguyên
nhân chánh pháp được tồn tại lâu dài sau khi Như Lai viên
tịch" (A.III.247).
Người
cư sĩ Phật giáo, đúng nghĩa là cận sự nam và cận sự nữ
không phải là người chi đến với Phật giáo như một học
giả nghiên cứu triết học Đông phương. Mà phải nhận thức
rõ vai trò của mình đối với Phật pháp, phải thiết tha
sống theo tinh thần lời dạy của Đức Phật để hướng
tìm mục đích giải thoát, thành tựu hạnh phúc thật sự.
Người
cư sĩ chân chánh trong Phật giáo có hai vai trò:
1.
Vai trò người hộ pháp (Dhammarakkhaka).
2.
Vai trò người thừa tự pháp (Dhammadāyadaka).
Vai
trò hộ pháp
Hộ
pháp tức là hộ trì Tam bảo: hộ trì Phật bảo, hộ trì
Pháp bảo, hộ trì Tăng bảo.
Hộ
trì Phật bảo, gọi là hộ pháp. Vì rằng Đức Phật là bậc
giác ngộ chân lý, bậc đã tìm ra pháp giải thoát, bậc kính
trọng chánh pháp. Do vậy, sự hộ trì Phật bảo cũng gọi
là hộ pháp.
Hộ
trì Pháp bảo, gọi là hộ pháp. Vì rằng giáo lý của Đức
Phật là pháp đem đến sự an vui cho chúng sanh thiết thực
hiện tại, lợi ích tương lai, và thoát khỏi luân hồi. Giữ
vững giáo pháp cho đúng tinh thần chánh pháp, không để bị
mai một, bị sai lệch văn cú ý nghĩa lời dạy của Đức
Phật. Đó gọi là hộ pháp.
Hộ
trì Tăng bảo, gọi là hộ pháp. Vì rằng Tăng chúng là những
vị đệ tử thừa hành giáo lý của Đức Phật, truyền thừa
Phật pháp tồn tại trong thế gian ngay khi Đức Phật còn tại
thế và sau khi Đức Phật níp bàn. Tăng chúng còn là Giáo
pháp còn, do đó sự hộ trì Tăng bảo cũng là hộ pháp.
a)
Hộ trì Phật Bảo
Người
cư sĩ hộ trì Phật bảo bằng bốn hình thức sau đây:
1-
Giữ vững niềm tin đối với Đức Phật, không có hoài nghi
sự giác ngộ của Ngài.
2-
Hằng tán dương Đức Phật và hoan hỷ người khác tán dương
Đức Phật.
3-
Thường xuyên lễ bái Đức Phật qua hình, tượng, xá lợi.
4-
Xây dựng đền tháp, tôn thờ Phật cảnh trang nghiêm để
tôn vinh Đức Phật. Nếu không có khả năng tự mình làm thì
ủng hộ người khác cùng làm.
Việc
thờ phụng Đức Phật, người cư sĩ làm vai trò ấy là hợp
lý hơn các vị xuất gia. Khi Đức Thế Tôn sắp viên tịch,
tôn giả Ānanda đã bạch hỏi Ngài về việc xử sự đối
với thân Xá Lợi của Thế Tôn phải như thế nào? Đức Phật
bảo rằng:
"Này
Ānanda, các ngươi chớ bận lo việc thờ phượng Xá Lợi của
Như Lai; hãy tinh tấn tự lợi, hãy chuyên cần tự lợi, hãy
sống nỗ lực nhiệt tâm, không dể duôi. Này Ānanda, có các
hiền trí Sát đế lỵ, các hiền trí Bà la môn, các hiền
trí gia chủ tín ngưỡng Như Lai, những người ấy sẽ thờ
phượng thân xá lợi của Như Lai" (D.II.141).
b)
Hộ trì Pháp bảo
Người
cư sĩ hộ trì Pháp bảo bằng năm hình thức sau đây:
1-
Giữ vững niềm tin đối với giáo pháp, không có hoài nghi
về hiệu năng hướng thượng của Giáo pháp.
2-
Siêng năng học hỏi giáo pháp, thọ trì đúng chánh pháp, không
mê tín dị đoan, không xu hướng ngoại đạo.
3-
Hoan hỷ cúng dường đến các vị tỳ kheo, sa di là bậc đa
văn, những vị học pháp, hành pháp và duy trì giáo pháp.
4-
Có sự ưu tư trong việc chấn hưng Phật pháp khi thấy có
dấu hiệu bi suy thoái, bị phá hoại.
5-
Tùy khả năng của mình, hỗ trợ chư Tăng kết tập kinh điển,
in ấn sách kinh, mở trường lớp Phật học v.v...
Từ
thời Đức Phật đã có những tấm gương cư sĩ hộ pháp
như ông Anāthapiṇḍika, bà Visākhā, vua Pasenadi, sau này có
vua Asoka ... chẳng những họ cúng dường vật chất hộ độ
Đức Phật và Tăng chúng mà họ còn rất quan tâm để hộ
trì chánh pháp, cũng cố Phật pháp, làm sao cho giáo pháp hưng
thịnh.
Người
cư sĩ hộ trì chánh pháp nổi bậc nhất là đức vua Asoka
(A Dục vương). Với quyền hành của mình, nhà vua đã cố
gắng học Phật pháp cho thông suốt để sàng lọc ra những
vị tu sĩ giả danh gây xáo trộn trong Phật giáo, nhà vua cũng
đã nhiệt tâm hộ độ chư Tăng kết tập kinh điển lần
thứ ba, nhà vua cũng tận tâm giúp đỡ chư Tăng đi hoằng
pháp mở mang Phật giáo đến các nước lân bang ...
c)
Hộ trì Tăng bảo
Người
cư sĩ hộ trì Tăng bảo bằng năm hình thức sau đây:
1-
Có niềm tin vững chắc nơi Tăng chúng, không vì lý do một
vài phần tử cá nhân xấu mà mất niềm tin với Tăng chúng.
2-
Thường xuyên hộ độ cúng dường các nhu cầu vật chất
đến chư tăng.
3-
Luôn luôn bảo vệ uy tín và thanh danh cho Tăng chúng.
4-
Quan tâm đến sự an nguy thịnh suy của Tăng chúng, đồng vui
cộng khổ với chư tăng.
5-
Đối xử với Tăng chúng bằng sự kính trọng và nhu thuận.
Các
cư sĩ thời Đức Phật như ông Jīvakakomārabhacca, bà Visākhā,
vua Pasenadi ... là những người hộ Tăng tiêu biểu, vừa hộ
độ thực phẩm, vừa bảo vệ thanh danh chư tăng, vừa khéo
góp ý nhắc nhở những vị có hành vi sai trái để chấn chỉnh
giáo hội tốt đẹp.
Vai
trò thừa tự pháp
Thừa
tự (dāyada) là sự kế thừa, thừa hưởng, như là thừa tự
tài sản, thừa hưởng gia sản v.v... thừa tự pháp là kế
thừa Giáo pháp của Đức Phật.
Trong
kinh Trung Bộ, Đức Thế Tôn có dạy rằng: "Này các tỳ kheo,
các ngươi hãy là người thừa tự pháp của ta, đừng là
người thừa tự tài vật - Dhamma-dāyādā me bhikkhave bhavatha
mā āmisadāyādā" -- (M.I.12).
Ở
vai trò thừa tự pháp, người cư sĩ có ba phận sự:
- Học
hỏi giáo lý
-
Thực hành giáo pháp
-
Duy trì Phật giáo
a)
Học hỏi giáo lý
Để
lãnh hội những tinh hoa Phật pháp và có được chánh kiến,
người cư sĩ phải siêng năng học hỏi giáo lý, ưa thích
tìm hiểu Phật pháp. Sự học hỏi giáo lý cho thông suốt,
gọi là thừa tự pháp. Ví như một người con kế thừa sự
nghiệp của ông cha, là phải biết được giá trị những
gì mà ông cha đã để lại, cũng vậy, giáo pháp mà đấng
từ phụ đã để lại, đệ tử xuất gia hay tại gia phải
chuyên cần học tập để biết được giá trị của giáo
pháp ấy, như thế mới đáng gọi là đệ tử thừa tự pháp.
Người
cư sĩ học hỏi giáo lý bằng nhiều phương tiện, có thể
bằng cách nghe chư Tăng thuyết Phật pháp.
Hoặc
có thể học hỏi bằng cách nghiên cứu tham khảo kinh sách
Phật giáo.
Hoặc
có thể học hỏi bằng cách tìm gặp nhau để đàm luận Phật
pháp.
Các
cư sĩ thời xưa khi đến viếng thăm Đức Phật hay các vị
Tỳ kheo, bao giờ họ cũng hoan hỷ nghe pháp, thiết tha học
giáo pháp, như vua Pasenadi, ông Anāthapiṇḍika, bà Visākhā
v.v... Có vậy mới xứng đáng gọi là cư sĩ thừa tự pháp.
b)
Thực hành giáo pháp
Người
cư sĩ không phải chỉ đơn thuần là người có tín ngưỡng
tôn giáo, là người theo đạo Phật. Người cư sĩ phải sống
theo pháp, thực hành giáo pháp, chấp nhận giáo pháp ứng dụng
vào đời sống như là một nhu cầu không thể thiếu. Người
cư sĩ có thực hành như vậy mới hưởng được hương vị
tuyệt vời của giáo pháp, như khi có nếm qua món ăn rồi
mới thưởng thức được hương vị của món ăn đó. Gọi
là người cư sĩ thừa tự pháp, phải thật sự cảm nhận
được sự đặc thù của chánh pháp qua kinh nghiệm tu tập.
Người
cư sĩ ngoài việc học hỏi giáo lý thông suốt, còn phải
thực hành nữa. Khi nào còn người thực hành theo giáo pháp
thì khi đó Phật pháp còn tồn tại, bởi thế vai trò thừa
tự pháp của người cư sĩ cũng rất quan trọng.
Sự
thực hành giáo pháp, tức là hành theo ba điều căn bản:
"Không
làm các điều ác" (Sabbapāpassa akaraṇaṃ). Nghĩa là người
cư sĩ sống né tránh không làm điều tội lỗi như sát sanh,
trộm cắp, tà dâm, nói dối, nói chia rẽ, nói độc ác, nói
vô ích, tham lam, sân hận và tà kiến.
"Thực
hiện các việc lành" (Kusalassa upasampadā). Nghĩa là người
cư sĩ thiết tha làm những điều thiện như bố thí, trì giới,
tu tiến, cung kính, phục vụ, thính pháp, nói pháp, hồi hướng
phước, tùy hỷ phước và cải chánh tri kiến.
"Thanh
lọc nội tâm" (Sacittapariyodapanaṃ). Nghĩa là người cư sĩ
tinh tấn thiền định để rèn luyện nội tâm, làm cho tâm
trong sạch không bị ô nhiễm bởi phiền não tham, sân, si.
Sự
tu tập của người cư sĩ theo ba điều trên, gọi là người
cư sĩ thực hành giáo pháp.
c)
Duy trì Phật giáo
Người
cư sĩ thừa tự pháp, ngoài hai phận sự là học hỏi giáo
lý và thực hành giáo pháp, còn có một phận sự nữa cũng
rất quan trọng, đó là duy trì Phật giáo.
Phật
giáo được tồn tại lâu dài là nhờ vào tứ chúng: tỳ kheo,
tỳ kheo ni, cận sự nam và cận sự nữ hết lòng phụng sự
duy trì chánh pháp. Trong tứ chúng ấy, tỳ kheo và tỳ kheo
ni là hàng xuất gia; cận sự nam và cận sự nữ thuộc hàng
tại gia cư sĩ. Bậc xuất gia đóng vai trò chính trong phận
sự duy trì Phật pháp vững bền; còn đối với hàng cư sĩ
chỉ là vai trò phụ.
Tuy
người cư sĩ đối với phận sự duy trì Phật pháp là vai
trò phụ nhưng không phải là không quan trọng. Vì nếu người
cư sĩ không xuất gia hoặc cư sĩ cha mẹ không hoan hỷ cho
con cháu xuất gia thì làm sao có tỳ kheo, tỳ kheo ni để duy
trì Phật pháp? Lại nữa, nếu người cư sĩ không ủng hộ
cúng dường hoặc bảo vệ Tăng chúng Phật giáo thì làm sao
các vị tỳ kheo, tỳ kheo ni có điều kiện thuận lợi làm
phận sự duy trì Phật pháp?
Bởi
thế, người cư sĩ cũng có phận sự duy trì Phật giáo là
gián tiếp. Và người cư sĩ duy trì Phật giáo được gọi
là người thừa tự giáo pháp.
Một
thời, khi đức vua Asoka (A Dục vương) trở thành Phật tử,
đức vua đã ra sức xây cất 84.000 chùa tháp để tôn thờ
Xá lợi Đức Phật. Đức vua bạch hỏi chư Thánh Tăng: Sự
đại thí như vầy, không biết có ai đã từng làm chưa?
Trưởng
lão Moggalliputtatissa thay mặt chư Tăng đã trả lời rằng:
"Thưa
Đại vương, dù khi Đức Thế Tôn còn hiện tiền và cho đến
nay cũng chưa có một ai làm được việc đại thí như thế
này. Chỉ có Đại vương là nguời duy nhất làm được việc
đại thí này thôi".
Đức
vua Asoka lắng nghe trưởng lão Moggalli-puttatissa trả lời, lòng
tràn ngập phỉ lạc. Vua đã suy nghĩ, nếu ta là người đã
làm được đại thí này chắc hẳn ta là người thừa kế
Phật giáo (Dāyādo sāsanassa) chăng? Nghĩ vậy, Đức vua bèn
bạch hỏi vị trưởng lão nữa.
"Kính
bạch Tôn giả, trẫm đã làm được đại thí như thế, vậy
trẫm có phải là người kế thừa của Phật giáo chăng?"
Trưởng
lão đáp:
"Thưa
đại vương, người chỉ bố thí bốn món vật dụng, dù có
là đại thí chăng nữa cũng chỉ gọi là thí chủ vật dụng
(paccayadāyaka), chứ chưa phải là người kế thừa Phật giáo
(sāsanadāyada).
Đức
vua liền hỏi vị trưởng lão, người thế nào mới gọi là
kế thừa Phật giáo. Trưởng lão đáp:
"Những
người cha mẹ nào hoan hỷ cho phép con của mình xuất gia trở
thành tỳ kheo trong Phật giáo, như vậy, người cha mẹ ấy
mới được gọi là người kế thừa Phật giáo."
Đức
vua Asoka nghe vậy khởi tâm tịnh tín bèn cho phép hai người
con là hoàng tử Mahinda và công chúa Saṅghamittā xuất gia làm
tỳ kheo và tỳ kheo ni trong Phật giáo. Sau khi xuất gia, cả
hai vị đều đắc quả A la hán, và chính Đại Đức Mahinda
đã mở đầu công cuộc hoằng hóa giáo pháp tại xứ Tích
Lan.
Các
bậc xuất gia duy trì Phật pháp bằng cách hoằng pháp, còn
đối với người cư sĩ thì duy trì Phật pháp bằng cách hộ
độ chư Tăng hoằng pháp, và tạo người nối truyền hoằng
pháp, tức là nếu con em có ý muốn xuất gia thì mình khích
lệ, động viên, và hoan hỷ cho phép.
DỨT
CHƯƠNG I