Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

02. Xôi nếp đắng

05 Tháng Tám 201100:00(Xem: 9812)
02. Xôi nếp đắng

HAI CHỮ MẸ CHA
Chân Hiền Tâm
Nhà xuất bản Thành Phố Hồ Chí Minh 2007

XÔI NẾP ĐẮNG 

Anh lớn lên trong bối cảnh không mấy thuận chiều. Cha bỏ mẹ theo vợ bé. Mẹ tảo tần buôn bán tận phương xa. Mẹ cho anh hình hài, nhưng không đủ tình thương. Mẹ nuôi anh khôn lớn, nhưng bỏ anh nửa đường. Anh vất vưởng từ những ngày thơ bé. Bóng mẹ còn xa vời vợi, nói gì hơi hướm chuối ba hương, xôi nếp ngọt hay đường mía lau ... 

Mẹ ra đi khi nếp nhăn chưa kịp có, khi anh chưa kịp nếm vị ngọt của đậu xôi. Anh căm hận bản thân, gia đình, người thân. Anh hất đổ mọi thứ kể cả tình thương của mọi người. Bởi nó không phải là tình thương của mẹ, chỉ là sự thương hại xót xa. Nó không lấp được khoảng trống mà anh thiếu hụt. Anh đập phá tất cả, hất bỏ mọi tình thương chung quanh, nhưng vẫn không hả giận. Cuối cùng, anh đập bàn thờ, đổ lư hương. Bởi không có bà, anh đã không có mặt trên cuộc đời này. Bà cho anh cuộc đời, bà mang cho anh sự sống, nhưng là cuộc đời thiếu trước hụt sau, một sự sống anh không mong muốn. Một cuộc đời mà với anh, đầy khốn nạn!

Platon, một triết gia trước công nguyên, từng nói “Tình mẫu tử không thể có ngay lúc đó. Nó chỉ lớn dần cùng với đứa con và sự săn sóc của người mẹ. Tình cảm trở nên vĩ đại khi đứa con là sự đúc kết công lao to lớn của bà”. Tình thương là kết quả của một quá trình săn sóc và chăm chút hai chiều, không ở kiếp này thì từ những kiếp trước. Dù có bứt ruột đẻ ra, tình cảm cũng chỉ hình thành trong quá trình tiếp xúc nâng niu. Tình thương tuy là thứ sẵn đủ trong mỗi sinh linh, nhưng vì biến động bể dâu bao lần, đã bị cái tôi che khuất, nên với người bình thường, không thể đòi hỏi ở họ một sự hiếu thuận khi quanh họ chỉ toàn chuối hột đường thiu. Hàng thánh nhân có thể hiếu nghĩa trọn đầy dù trải qua trăm đắng ngàn cay, nhưng người bình thường thì không. Bởi con người là tập hợp của vô lượng vô số si mê tối thượng. Thành muốn được thương yêu, mình phải BIẾT CÁCH yêu thương và chăm sóc tình yêu đó. 

Mẹ không phải là người không có tình thương với anh, nhưng anh không hưởng được hương vị đậm nồng, chỉ vì hoàn cảnh không cho phép. Xảy ra nhiều thiếu sót thương tâm, chỉ vì cuộc sống quá khó khăn. Mẹ nếu không hứng chịu phần việc nuôi sống của cha, có lẽ bà có thời gian ấp ủ anh hơn. Anh nếu được dòng sữa đậm tình nơi mẹ, có lẽ không đến nỗi trở tính hất bỏ mọi tình thương quanh mình. Nhưng sao cảnh ấy không rơi vào ai mà rơi vào anh? Phật nói, tất cả đều do nhân duyên từ đời trước.

Cha mẹ, con cái, anh em hiện diện ngày nay, đều bắt nguồn từ những mối nhân duyên trong bao kiếp trước. Đời trước, nếu duyên giữa tôi và anh có, nghĩa là mình từng có những liên hệ ân oán khắn khít với nhau, đời này mình sẽ có sợi dây ràng buộc cùng nhau. Có thể là cha con, anh em, cũng có thể là vợ chồng, mẹ con. Nếu đời trước cái dây ấy là ÂN, thì đời này cha thương con, vợ kính chồng. Nếu đời trước chỉ là OÁN, đời nay mẹ bỏ con, chị oán em, mọi thứ đều trái nghịch. Thầy bói nói cha khắc con, vợ khắc chồng là đó. Chẳng qua vì ân hay oán từ kiếp trước mà ra. Thành có khi đồng là con, nhưng tình thương với đứa này nhiều hơn đứa kia. Có khi đồng là con, mà đứa thì hiếu thảo, đứa lại không. Đó là do cái duyên đời này bị chi phối bởi MỘT PHẦN duyên nghiệp của đời trước. Chính do một phần duyên nghiệp đó, mà cuộc đời như lắm bất công. Nhưng không, chỉ là biểu hiện thường tình của luật nhân quả. Mọi thứ đều có nhân có duyên. Đều có sự tương thích công bằng trong đó. 

Một lúc, tôi kịp nhận ra, con trai út mình luôn thiệt thòi hơn hai đứa lớn, dù mình không hề có ý thương đứa lớn hơn đứa nhỏ. Việc trong nhà, thằng út làm nhiều hơn thằng lớn, nên thằng út bị la nhiều hơn thằng lớn. Vì đứa không làm thì không sót lỗi để la. Không phải chỉ trong công việc, chuyện tiền bạc và mọi vấn đề, thứ gì thuộc thằng lớn, được hay không, mình cũng tin tưởngrộng rãi. Thằng lớn thế nào, mình cũng không thấy khó chịu. Nó nói câu gì, mình cũng thấy bình thường. Nhưng thằng út thì không. Chuyện chưa đâu vào đâu mình đã hét toán. Mình ít có suy nghĩ chính chắn về con. Nó làm gì, cũng khiến mình dễ bực dọc dù có khi nó làm chỉ vì ý nghĩ lo toan. Mình la những cái nó không đúng, nhưng có những cái nó đúng, mình cũng cứ đó mà la. Không chỉ với con mà cháu cũng vậy. Đứa mè nheo thế nào, mình cũng dễ dỗ dành thương yêu, nhưng đứa chỉ mới nghiên cái ly, mình đã thấy bực mình. Mình cứ thế mà sống, thương cái gì mình thương, ghét cái gì mình ghét, như thể đó là chuyện thường tình. Mà không nhận ra rằng, thứ mình cho là thường đó, chính là đầu mối nối dài những oan nghiệt về sau.

Cuộc đời nếu không biết đạo, tai ương hoạn nạn rất nhiều. Nếu không tỉnh giác, vô vàn nghiệp nhân bất hảo xảy ra. Cái quả bất hạnh theo đó mà hiện. Không chỉ đời này mà cả đời sau. Không thể đòi hỏi tình thương nơi con, khi mình luôn sống thiên lệch, dù cái lệch đó xứng đáng với những nghiệp nhân nó đã gây ra trong quá khứ. Không thể đòi hỏi ở con ý thức trách nhiệm hay sự lo lắng gia đình, khi nó cảm thấy mình luôn nghi kỵ tách biệt với việc nó làm. Đó là cái quả gần nhất mình phải gánh chịu. Cái quả tương lai, là nếu mình để những thứ thiên lệch kéo dài, chỉ cần mỗi kiếp một ít, khổ nạn không sao tránh khỏi. Bởi thương yêuhận thù không có biên giới. Có khi, tình thương càng nhiều, chuyển dịch thù hận càng lớn. 

Ngày nay, con có thể cầm dao giết mẹ, cha có thể đánh nát xương con, chỉ vì những nghịch nhân trong quá khứ đã ra hoa. Nhân đã ra hoa, nhưng không biết đạo, nên mình không tỉnh với những suy tưởng và hành động của chính mình, thành hoa mới thành quả. Thay vì tỉnh giác an phận bỏ qua, hay tỉnh giác không để quả xấu xảy ra, mình lại oán hận phá tán hay thừa thắng xông lên cho thỏa tam bành lục tặc trong mình. Quả xấu, mình bất mãn đối đầu. Quả tốt, mình quá trớn vun tay. Nghịch thuận gì mình cũng vun tay vượt tầm, thành khổ nạn khó vơi. Đó chính là cái nhân để những nghịch quả về sau có cơ phát triển. Kiếp này anh khiến tôi mất mát oán hận. Kiếp sau tôi khiến anh oán hận mất mát. Cứ vậy mà nối tiếp xoay vần … Cho đến khi, tự mình thấu hiểu nhân duyên, tự mình tỉnh giác với những nghịch duyên rồi dừng. Nhân chấm dứt, quả mới chấm dứt. Không thì cứ thế xoay tròn trong oán hận sầu thương, vĩnh kiếp nối dài.

Thức đêm mới biết đêm dài, đoạn trường ai có qua cầu mới hay. Khó mà hiểu được nỗi đau của người, khi mình là kẻ bàng quan. Mình dễ phê phán người khác, nhưng đến phiên mình có khi còn tệ gấp bội. Nhưng thật tình mà nói, oán hận không hề giúp gì cho mình ngoài khổ đau và mất mát. Mình có đánh đổ được mọi thứ chung quanh, cũng không nguôi được cơn giận trong lòng. Chỉ thêm trống rỗng khổ đau. Càng níu kéo, oán hận, càng đau khổ không nguôi. Chỉ có tha thứ và rủ bỏ mới thanh thản nhẹ nhàng. Tha thứ cho những gì trong hiện tại, chính là tha thứ cho những nghiệp nhân mình đã gây tạo trong quá khứ. Rủ bỏ và bình thản với những gì trong hiện tại, chính là rủ bỏ cái nhân bất hảo một thời đã qua. Có vậy, mới chấm dứt được vòng oan nghiệt luân hồi

Một nén hương thơm dâng cha
Chỉ vì ông đã cho ta thân xác con người

Một nén hương thơm dâng mẹ

Chỉ vì bà đã mang nặng đẻ đau

Một nén hương thơm dâng Phật

Nguyện cho oán hận không còn

Nguyện cho thế giới bình an

Nguyện cho hiếu nghĩa luôn đầy

Nguyện cho cha mẹ luôn đầy tình thương 

Vu lan ...

Ngày để cha mẹ thương yêu 

Ngày để con trẻ niệm đức sinh thành 

Ngày để mọi người mở lòng buông bỏ

Cho cuộc đời ... 

Thanh thản, bình yên 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 19847)
"Đây là con đường duy nhất để thanh lọc tâm, chấm dứt lo âu, phiền muộn, tiêu diệt thân bệnh và tâm bệnh, đạt thánh đạochứng ngộ Niết Bàn. Đó là Tứ Niệm Xứ".
(Xem: 19538)
Để diệt trừ cái khổ, người ta phải nhận ra bản chất nội tại của vấn đề khổ. Mà để được vậy, trước hết người ta phải cần có một cái tâm an tịnh...
(Xem: 33436)
Những lúc vô sự, người góp nhặt thường dạo chơi trong các vườn Thiền cổ kim đông tây. Tiêu biểu là các vườn Thiền Trung Hoa, Việt Nam, Nhật Bản và Hoa Kỳ.
(Xem: 34504)
Không thể có một bậc Giác Ngộ chứng nhập Niết Bàn mà chưa hiểu về mình và chưa thấy rõ gốc cội khổ đau của mình.
(Xem: 54532)
Muốn thực sự tiếp xúc với thực tại, cho dù đó bất cứ là gì, chúng ta phải biết cách dừng lại trong kinh nghiệm của mình, lâu đủ để nó thấm sâu vào và lắng đọng xuống...
(Xem: 37742)
Thực hành thiền trong Đạo Phật rốt ráo là để Thực Nghiệm sự thật VÔ NGÃđức Phật đã giác ngộ (khám phá). Đó cũng là để chứng thực KHÔNG TÁNH của vạn pháp.
(Xem: 21143)
Do bốn niệm xứ được tu tập, được làm cho sung mãn, thưa Hiền giả, khi Như Lai nhập Niết-bàn, Diệu pháp được tồn tại lâu dài.
(Xem: 17894)
Đức Phật khám phá ra rằng một tâm hạnh phúc nhất là tâm không bị dính mắc. Đây là một niềm hạnh phúc rất sâu sắc, khác hẳn với những gì chúng ta vẫn thường biết.
(Xem: 63668)
Đàn Kinh được các môn đệ của Huệ Năng nhìn nhận đã chứa đựng giáo lý tinh nhất của Thầy mình, và giáo lý được lưu truyền trong hàng đệ tử như là một di sản tinh thần...
(Xem: 17394)
Thiền giữ vai trò rất quan trọng trong đạo Phật. "Ngay cơ sở của Phật giáo, tất cả đều là kết quả của sự khảo sát về Thiền, và nhờ có tư duy về Thiền mà Phật giáo mới được thể nghiệm hóa...
(Xem: 49671)
Khi ta phát triển định tâm, ta sẽ có thể giữ những chướng ngại tạm thời ở một bên. Khi những chướng ngại được khắc phục, tâm ta trở nên rõ ràng trong sáng.
(Xem: 16869)
Thiền có nghĩa là tỉnh thức: thấy biết rõ ràng những gì anh đang làm, những gì anh đang suy nghĩ, những gì anh đang cảm thọ; biết rõ mà không lựa chọn...
(Xem: 16381)
Bất kì ai cũng có khả năng giác ngộ nếu có khát vọng. Khát vọng hướng về mẫu số chung “tự tri-tỉnh thức-vô ngã”, khát vọng đó là minh sư vĩ đại nhất của chính mình.
(Xem: 14495)
Thiền tông, nói mây, nói cuội, nói chuyện nghịch đời… chẳng qua đối duyên khai ngộ, để phá cho được cái dòng vọng tưởng tương tục của người, hy vọng ngay đó người nhận ra “chân”...
(Xem: 22476)
Nhờ thiền sư Munindra tận tâm hướng dẫn chu đáo từng bước một nên bà tiến bộ rất nhanh chóng. Đi từ cấp thiền cổ điển đến tiến bộ trong chánh niệm (progress insight).
(Xem: 56986)
Tập sách Thiền và Bát-nhã này là phần trích Luận Năm và Luận Sáu, trong bộ Thiền luận, tập hạ, của D. T. Suzuki. Tập này gồm các thiên luận về Hoa nghiêm và Bát-nhã.
(Xem: 13850)
Giác ngộ không phải là cầu toàn, vì càng cầu toàn con càng khổ đau thất vọng, mà là cần thấy ra bản chất bất toàn của cuộc sống. Chỉ cần vừa đủ trầm tĩnh sáng suốt...
(Xem: 29020)
Đức Phật dạy rằng hạnh phúcvấn đề thiết thực hiện tại, không phải là những ước mơ đẹp đẽ cho tương lai, hay những kỷ niệm êm đềm trong quá khứ.
(Xem: 33327)
Thầy bảo: “Chuyện vi tiếu nếu nghe mà không thấy thì cứ để vậy rồi một ngày kia sẽ thấy, tự khám phá mới hay chứ giải thích thì còn hứng thú gì.
(Xem: 38398)
Sở dĩ chúng ta mãi trôi lăn trong luân hồi sinh tử, phiền não khổ đau là vì thân tâm luôn hướng ngoại tìm cầu đối tượng của lòng tham muốn. Được thì vui mừng, thích thú...
(Xem: 31245)
Nếu không có cái ta ảo tưởng xen vào thì pháp vốn vận hành rất hoàn hảo, tự nhiên, và tánh biết cũng biết pháp một cách hoàn hảo, tự nhiên, vì đặc tánh của tâm chính là biết pháp.
(Xem: 13916)
Thực tế, thì căn bản của sự thực thiền của các hành giả chân chánh là khám phá ra những hành động nào đem lại khổ đau hoặc hạnh phúc. Sau đó, tránh các hành động gây nghiệp...
(Xem: 14633)
Thực hành phát triển Định Tuệ sẽ xa dần các tà kiến và các thiên chấp; sẽ sống với nhân cách tự-do-tinh-thần; cởi bỏ gánh nặng nô lệ thị phi, tập tục.
(Xem: 14308)
“Phản văn văn tự tánh” là “quay cái nghe nghe tự tánh”. Tự tánhthực thể đang nghe đang thấy đang biết, đồng thời đang tự biết tự thấy…
(Xem: 12647)
Hành thiền, cốt tuỷ nhất, là tự tri, là quán tâm. Học Thiền, tức học đạogiác ngộ, cốt tuỷ nhất là nương ngôn từ để thấy biết trạng thái tâm trí.
(Xem: 14819)
Tôi có một số kinh nghiệm vững chắc về định, tĩnh, và quán tưởng. Điều đó thúc đẩy tôi đến với Thiền Minh Sát. Các tu sĩ ở đây khuyến khích tôi xuất gia.
(Xem: 19205)
Nếu thấy tất cả con người, muôn vật đều hư giả, tạm bợ thì không còn tham sân nữa. Mình không thật, có ai chửi mình cũng không giận. Cái tôi không thật, lời chửi thật được sao...
(Xem: 13821)
Trong Phật giáo có những phương pháp dùng để thực hành Thiền từ bi. Các thiền giả nhằm khích động lòng từ bi đối với tất cả chúng sinh...
(Xem: 12660)
Thế giới, với người ngộ đạo, đã được lộn trái trở lại: sanh tử lộn ngược thành Niết Bàn. Đời sốngý nghĩakhông tịch. Đời sống là sự biểu hiện của tính sáng.
(Xem: 30400)
Thiền Quán là tri nhận Giác Thức thành Giác Trí. Giác Thức và Giác Trí được quán tưởng theo thời gian. Khi Tưởng Tri thì Thức và Trí luôn nối tiếp nhau làm cho ta có tư tưởng...
(Xem: 11839)
Cuộc cách mạng thực tập Thiền Chánh Niệm bắt đầu bằng một động tác giản dị là chú ý đến hơi thở, cảm thọ trong thân và tâm, nhưng rõ ràng là có thể đi rất xa.
(Xem: 30663)
Sự giác ngộ đem lại lợi ích thực sự ngay trong kiếp sống này. Khi đề cập đến Pháp hành ta nhất thiết phải tìm hiểu qui trình tu tập hợp lý và hợp với giáo huấn của Đức Phật.
(Xem: 29400)
“Chẳng có ai cả” là một tuyển tập những lời dạy ngắn gọn, cô đọng và thâm sâu nhất của Ajahn Chah, vị thiền sư lỗi lạc nhất thế kỷ của Thái Lan về pháp môn Thiền Minh Sát.
(Xem: 30587)
Thiện tri thức! Tâm lượng quảng đại, biến mãn khắp pháp giới, về dụng thì mỗi mỗi phân minh, ứng dụng ra thì biết được tất cả là một, một là tất cả... Thích Nữ Trí Hải dịch
(Xem: 31206)
Bên ngoài xa lìa các tướng gọi là “thiền”, bên trong không loạn gọi là “định”. Bên ngoài nếu như tuy có tướng, song bên trong bổn tính vẫn không loạn, thì đó là cái tự tịnh tự định bổn nguyên.
(Xem: 37095)
Thiện tri thức, khi chưa ngộ thì Phật tức chúng sanh, lúc một niệm khai ngộ, chúng sanh tức Phật. Nên biết vạn pháp đều ở nơi tự tâm...
(Xem: 32238)
Này chư Thiện tri thức, cái trí Bồ Đề Bát Nhã, người thế gian vốn tự có, nhưng bởi tâm mê, nên chẳng tự ngộ được... Minh Trực Thiền Sư Việt dịch
(Xem: 23663)
Quyển "THIỀN QUÁN - Tiếng Chuông Vượt Thời Gian" là một chuyên đề đặc biệt giới thiệu về truyền thống tu tập thiền Tứ Niệm Xứ của đức Phật dưới sự hướng dẫn của thiền sư U Ba Khin.
(Xem: 12223)
Thực tập chánh niệm có thể ảnh hưởng tích cực đến nhiều hoạt động của hạch hạnh nhân, khu vực có kích thước bằng hạt đậu nằm ở trung tâm não bộ...
(Xem: 14232)
Thiền Tiệm Ngộpháp hành từ tập trung trí và thức gom vào một đề mục duy nhất, hoặc dùng một đối tượng đặt ra do tư tưởng định trước.
(Xem: 14092)
Khi chấp nhận thực hành thiền, chúng ta phải có niềm tin sâu sắc vào khả năng của tâm chúng ta ngay từ lúc khởi đầu, và phải duy trì niềm tin ấy...
(Xem: 33977)
Nếu tâm chúng ta dịu dàng, nhân ái, hiểu biết, và có sự đồng cảm đối với tha nhân, chúng ta sẽ tu tập tâm từ đến người khác không mấy khó khăn.
(Xem: 27726)
Đức Phật bảo rằng cần có mười lăm đức tính để tự hoàn thiện, để có thể sinh lòng từ bi đối với mọi người quanh ta hay rộng hơn cho đến tất cả nhân loại...
(Xem: 12457)
Không biết tự bao giờ, Trà trở thành thân quen trong nếp sống Thiền gia Phật Giáo Bắc Truyền, rồi trà thành một phần văn hóa của Phật Giáo...
(Xem: 28644)
Sách này đặt tên "Kiến Tánh Thành Phật", nghĩa là sao? Bởi muốn cho người ngưỡng mộ tên này, cần nhận được lý thật của nó. Như kinh nói: "Vì muốn cho chúng sanh khai, thị, ngộ, nhập tri kiến Phật".
(Xem: 29364)
Những bài kinh Phật không có bài nào là không hay. Có miệt mài trên những trang kinh xưa mới cảm được sự vang động của suối nguồn trí tuệ.
(Xem: 12391)
Vị trí cực kỳ quan trọng của Lục Tổ Huệ Năng đối với sự hình thành và phát triển của Thiền tông Trung Quốc đã khiến các đệ tử Phật môn luôn nhắc về ông...
(Xem: 29222)
Trong sách này Ngài Sayadaw diễn tả đầy đủ phương pháp quán niệmgiải thích với đầy đủ chi tiết đường lối suy tư về lý vô ngã có thể dẫn đến mức độ thành tựu Niết Bàn.
(Xem: 28003)
Vào năm 1986-1987 Hòa Thượng giảng Kinh Nguyên Thủy; đối chiếu Kinh Pali (dịch ra Việt Ngữ) và A Hàm tại Thường Chiếu giúp cho Thiền sinh thấy rõ nguồn mạch Phật Pháp từ Nguyên Thủy đến Đại ThừaThiền Tông.
(Xem: 25669)
Con đường thiền tậpchánh niệm tỉnh giác, chứng nghiệm vào thực tại sống động. Khi tâm an định, hành giả có sự trầm tĩnh sáng suốt thích nghi với mọi hoàn cảnh thuận nghịch...
(Xem: 26037)
Cuốn Ba Thiền Sư ghi lại cuộc đời của Ikkyu Sojun (1394-1481), Hakuin Ekaku (1686-1768), và Ryokan Taigu (1758-1831). Mỗi vị Sư đều hiển lộ Thiền Tông trong cách riêng.
(Xem: 22271)
Với người đã mở mắt đạo thì ngay nơi “sắc” hiện tiền đó mà thấy suốt không chướng ngại, không ngăn che, nên mặc dù Sắc có đó vẫn như không, không một chút dấu vết mê mờ...
(Xem: 33143)
Thiền Tông nhấn mạnh vào mặt kinh nghiệm cá nhân, nhắm đưa từng con người chúng ta giáp mặt trực tiếp với chân lý trong ngay chính hoàn cảnh hiện tiền của chúng ta.
(Xem: 31816)
Các pháp thế gian đều kỵ chấp trước, chỗ qui kính của Thích tử không ai bằng Phật mà có khi vẫn phải quở. Bởi có ta mà không kia, do ta mà không do kia vậy.
(Xem: 39588)
Quả thật, chân lý thiền vốn ở ngay nơi người, ngay trong tự tâm chúng ta đây thôi. Vậy ai có tâm thì chắc chắc có thiền, không nghi ngờ gì nữa.
(Xem: 22441)
Bắt đầu bằng cách bỏ qua một bên tất cả những mối quan tâm ở bên ngoài, và quay vào quán sát nội tâm cho đến khi ta biết tâm trong sáng hay ô nhiễm, yên tĩnh hay tán loạn như thế nào.
(Xem: 34478)
Đây là phần thứ 2 trong 3 phần chính của cuốn Zen no Rekishi (Lịch Sử Thiền) do giáo sư Ibuki Atsushi soạn, xuất bản lần đầu tiên năm 2001 tại Tôkyô.
(Xem: 27347)
Thật ra chân lý nó không nằm ở bên đúng hay bên sai, mà nó vượt lên trên tất cả đối đãi, chấp trước về hiện hữu của Nhị Nguyên. Chân lý là điểm đến, còn hướng đến chân lý có nhiều con đường dẫn đến khác nhau.
(Xem: 28369)
Trong tiếng Phạn (Sanskrit), từ "Thiền" có ngữ nguyên là dhyâna. Người Trung Hoa đã dịch theo âm thành "Thiền na". Ý nghĩa "trầm tư mặc tưởng" của nó từ xưa trong sách vở Phật giáo lại được biểu âm bằng hai chữ yoga (du già).
(Xem: 35260)
Cuốn sách này giới thiệu với độc giả cách thọ trì đúng đắn thiền Samatha-Vipassanā (Định-Tuệ) như đã được Đức Phật giảng dạy, tu tập chánh định và thấu suốt vào các pháp chân đế...
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant