Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

07. Phật dạy báo ân

05 Tháng Tám 201100:00(Xem: 10969)
07. Phật dạy báo ân

HAI CHỮ MẸ CHA
Chân Hiền Tâm
Nhà xuất bản Thành Phố Hồ Chí Minh 2007

Phật dạy báo ân [03]

Lúc ấy trong đại thành Vương Xá, có năm trăm trưởng giả. Tên họ là Diệu Đức, Dũng Mãnh v.v... Các đại phú trưởng giả này đều đã thành tựu chánh kiến, cúng dường Như Lai và các thánh chúng. Trưởng giả là những vị giàu cóphúc đức vào thời đức Phật, nên gọi là ĐẠI PHÚ TRƯỞNG GIẢ. Các vị này đã thọ tam qui ngũ giới, đã biết qui hướng Tam bảo. Tam bảo là Phật, Pháp và Tăng bảo. Như ngày nay mình đến chùa qui y thọ giới, có pháp danh, cúng dường Tam bảo để Tam bảo được trường tồnthế gian. Đều là một trong những biểu hiện của người có chánh kiến

CHÁNH KIẾN là cái thấy chân chánh. Từ cái thấy này, mình sẽ có những hành vi tương ưng, mà cái quả của nó là hạnh phúcan lạc. Vận mệnh mình không do một đấng thượng đế nào định đoạn mà do chính suy nghĩhành vi của mình. Có cái nhìn như thế gọi là chánh kiến. Tương tự, những cái thấy như : Bố thí thì có cái quả phú quí. Thâm lạm của người thì bị quả báo tàn mạt. Ở hiền gặp lành v.v… đều là những dạng gọi là chánh kiến

Các trưởng giả này nghe Thế Tôn ca ngợi pháp môn tâm địa Đại thừa, mới nghĩ rằng “Ta thấy Như Lai phóng kim sắc quang, biểu hiện khổ hạnh khó hành của Bồ tát. Ta không thích tâm hành khổ hạnh. Ai có thể vĩnh kiếp trụ ở sanh tửø vì chúng sanh thọ các khổ não?”.

Pháp tu nào giúp mình nhận ra mình có trí tuệlòng từ như Phật, chỉ vì một chút không tỉnh, chạy theo những suy nghĩ tham ái sân giận mà gây tạo những nghiệp nhân không tốt, khiến thế giới Phật của mình trở thành thế giới nạn tai đau khổ, pháp môn đó gọi là PHÁP MÔN TÂM ĐỊA

Không nương vào những nghi thức cầu cúng bên ngoài, chỉ ngay nơi tâm mà tu, niệm sân khởi lên biết đó là niệm sân, dừng lại. Niệm tham nổi lên BIẾT đó là niệm tham, dừng lại. Bất cứ niệm nào hiện lên trong tâm mình đều BIẾT. BIẾT đến khi nhận được bản chất thực của nó, cũng như bản chất thực của vạn phápthế gian. Đó là lúc ta nhận được tâm chân thật của chính mình, tu vậy là mình đang áp dụng PHÁP MÔN TÂM ĐỊA.

KIM SẮC QUANG, chỉ cho quang minh sắc vàng tỏa ra từ người Phật. Quang minh đó là kết quả có được từ quá trình hành Bồ tát đạo, trải dài sanh tử làm lợi ích cho những người hữu duyên, cũng là quá trình thanh lọc những nhiễm ô vi tế trong tàng thức. Vì thế nói “Ta thấy Như Lai phóng kim sắc quang, biểu hiện khổ hạnh khó hành của Bồ tát”.

Phật nói “Giàu sang mà chịu học đạo là khó”. [04] Giàu sang mà chịu bỏ thì giờ đến chùa, chỉ để cúng dường xây chùa độ tăng, là đã thấy khó, huống là chịu đọc học kinh sách rồi ứng dụng nó vào cuộc sống thường nhật của mình. Phật nói khó, vậy mà các trưởng giả nói đây đều làm được, thì biết chủng nhân Phật pháp các vị từng gieo trong quá khứ rất thâm sâu. Chính vì chủng Phật pháp đã thâm sâu, Phật mới giảng pháp Đại thừaNhất thừa cho chư vị nghe. Có điều, do phước báu đời nay lớn quá, đời sống vật chất lẫn tinh thần quá sung túc, nên hạt giống Phật pháp trong các vị … bị che lấp. Nghe hành Bồ tát đạo, trải dài sanh tử học đạo, cứu giúp muôn người, người đói cơm cho cơm, người đói pháp cho pháp v.v… Các vị sinh tâm e ngại. Đây là chuyện thường tình ở thế gian. Bồ tát ra đời cách ấm còn mê. Gốc là Bồ tát, nhưng cứ một lần mất thân trước có thân sau, mình lại quên cái gốc của mình. Phải gặp thiện tri thức, nghe pháp v.v… mình mới dần dần nhớ lại và thực hiện tiếp hạnh nguyện mình đã làm trong quá khứ

Nghĩ vậy rồi, liền từ chỗ ngồi đứng dậy, quì xuống trước Phật, chấp tay cung kính cùng bạch Phật rằng : Bạch Thế Tôn! Chúng con không thích Bồ tát hạnh của Đại thừa, cũng không hoan hỉ khi nghe hai từ khổ hạnh. Vì sao? Vì hạnh nguyện tu hành của Bồ tát không phải là biết ân và báo ân. Vì sao? Vì xa lìa phụ mẫu hướng về xuất gia. Vì theo ý muốn của người mà đem cho vợ con. Lại theo chỗ ưa cầu của người mà bố thí đầu mắt tủy nảo của mình, chịu các khổ não. Phải đến ba a tăng kỳ kiếp tu đủ các độ và tám vạn bốn ngàn hạnh ba-la-mật, vượt giòng sanh tử mới được cái lạc của đại bồ đề. Chẳng bằng thú hướng đạo quả Nhị thừa, ba đời trăm kiếp tu tập tư lương, [05]đoạn nhân sanh tử, chứng quả niết bàn, chóng được an lạc, mới gọi báo ân.

Các vị trưởng giả nêu lý do vì sao các vị không thích tu Bồ tát hạnh. Có hai lý do:

1. Với những việc mà Phật đã làm, thì hành Bồ tát đạo là quá khổ và quá khó. 

2. Vì các hạnh mà một vị Bồ tát làm không phải là biết ân và báo ân

Vì khổ hoặc cảm thấy bất an trong cuộc sống, mình mới tìm đến đạo. Đến với đạo là để có một cuộc sống hạnh phúc từ vật chất đến tinh thần. Giờ tu hành rồi, tu một thời gian đầy đủ phước báu rồi, lại nghe Phật dạy phải hành Bồ tát đạo, phải trải dài từ đời này sang đời khác làm lợi lạc cho chúng hữu tình. Tu vậy thì tu chi cho cực? Chính vì vậy các vị phản đối.

Phật nói ân nghĩa trên đời không gì sánh được với công cha nghĩa mẹ. Giờ muốn làm Bồ tát thì phải xuất gia học đạo mới có thể làm Bồ tát (như đức Phật vượt thành, bỏ cha tha phương tìm đạo rồi hành đạo). Nhưng làm vậy thì thứ nhất, cha mẹ để nhà không ai cung phụng nuôi dưỡng sớm hôm. Thứ hai, làm vậy cha mẹ sẽ buồn lòng. Vì ngoại trừ những vị thâm hiểu Phật pháp, còn lại không bậc cha mẹ nào đẻ con ra, nuôi con khôn lớn, mà muốn nó bỏ mình cạo đầu vô chùa ăn chay nằm phản, hạn chế mọi thú vui ở đời. Do đó các vị nói hành Bồ tát đạo là không biết ân và báo ân.

ĐEM CHO VỢ CONsự tích đức Phật, trong một kiếp làm thái tử, thực hành hạnh nguyện bố thí ba-la-mật. BỐ THÍ BA-LA-MẬT là ai xin thứ gì, cho liền thứ đó, cho đến khi không còn gì để cho. Thái tử xin vua cha mở kho báu để mình được bố thí bất cứ vật gì mà người ta xin. Vua cha đồng ý. Vì ai xin gì cũng cho, nên cho luôn voi báu của vua cha. Vua tưởng ai xin gì cũng cho, là chỉ cho vàng bạc châu báu thóc gạo, không ngờ voi quí của mình nó cũng đem cho. Giận thằng con tự thịngu si, vua đuổi thái tử ra khỏi cung. 

Phu nhân thái tử là người lễ nghĩa, dù thái tử nói “Ta phải bố thí tận cùng những gì mình có cho tròn hạnh nguyện” và không muốn mang bà theo, bà vẫn một mực chấp nhận tất cả để theo chồng thọ pháp. Vợ chồng cùng hai con lên đường … Trên đường, các Bà-la-môn lại tiếp tục đến xin. Thái tử rộng tay bố thí luôn cả ba mẹ con, để thực thi hành nguyện bố thí ba-la-mật của mình. 

Vợ con, nếu nghịch đạo dữ dằn ác ôn, thiên hạ xin mà nhờ đó mình đắc đạo thành Phật, thì không đợi Phật dạy, mình cũng sẵn sàng. Nhưng vợ con ngoan hiền, ân nghĩa đầy tràn, tự dưng chỉ vì sự thành đạo của mình mà đem cho thiên hạ, phải nói là bất nhẫn. Song không bất nhẫn như thế, không buông xả được tận cùng như thế, thì đời này không có Phật, không có giáo pháp của Phật. Chúng sanh chìm trong biển khổ vô vàn. Sự hy sinh phải nói là to lớn. 

BỐ THÍ TỦY MẮT … THEO CHỖ ƯA CẦU CỦA NGƯỜI là do nghe sự tích : Trong một tiền kiếp, khi Phật còn hành Bồ tát đạo, ngài là một vị vua ở cõi Diêm-phù-đề, tên là Chiên-đàn-bà-la-tỳ, cũng đang thực hành hạnh bố thí ba-la-mật. 

Lúc đó có một Bà-la-môn tên Lao Độ Sai đến xin vua bố thí, không phải vật dụng châu báu mà chính là đầu của nhà vua. Ai nghe cũng hoảng, nhưng nhà vua thì bằng lòng. Mọi người cản ngăn, nhưng ông giải thích “Con người vì bị tình ái từ kiếp lâu xa trói buộc, nên bị ách sanh tử bức bách. Từ vô thủy kiếp đến nay, sống chết không biết bao lần, lúc trong nước phân tro, khi lại ở hố than, chết đây sanh kia. Thân ta đây, máu tanh huyết nồng, một ngày nào đó cũng tan rả, có gì luyến tiếc mà không xả bỏ để tu lấy pháp chân thường tịch tĩnh. Ta bỏ cái đầu này để thực hành hạnh nguyện Bồ tát. Sau khi thành đạo, ta sẽ hóa độ các ông thoát khỏi cái khổ sanh già bệnh chết”. Nói rồi ban đầu cho Lao Độ Sai mà không hề viện cớ mình là người đức độ, mình sống muôn dân mới được nhờ, mình chết ai độ muôn dân v.v... Đã nói cho là cho tất, dù đó là thân mạng mình.

Tu mà đụng ai xin thứ gì cũng cho như vậy, đang khổ nghe còn ngán, huống là các vị đang sống trong giàu sang sung sướng. Phản đối là chuyện thường tình.

Song hai hình tượng trên chỉ là những hình tượng bên ngoài, nói lên thân tâm bên trong đã hết chấp trước nhiễm ô. Nghĩa là, muốn thành Phật thì tâm hết nhiễm ô mới là chính, không phải cứ cho vợ con hay bố thí thân mình, là đã thành Phật. Nếu chỉ lấy hình tướng bên ngoài đó làm tiêu chuẩn đánh giá vấn đề thành Phật, thì những chàng cảm tử Irad đều thành Phật. Nhưng chắc chắn mấy ông đó không thể thành Phật. Những hình tượng đó chỉ muốn nói lên sự thanh tịnh, không còn dính mắc của thân tâm

Cho nên, cuối kinh, Phật có nêu lên 3 loại ba-la-mật. Loại thứ nhất là Bố thí ba-la-mật, chỉ cho hình ảnh thứ nhất, là bố thí những thứ ngoài thân. Loại thứ hai là Thân cận Ba-la-mật, chỉ cho hình ảnh thứ hai, là bố thí những thứ ngay thân. Còn một loại nữa là Chân thật ba-la mật, là sống được với tâm chân thật của mình. Phật muốn Phật tử phải báo ân theo kiểu thứ ba. Sẽ được giải thích ở cuối kinh. 

Nếu có một pháp tu mà áp dụng nó, thân tâm mình hết nhiễm ô, thì mình chỉ cần áp dụng pháp tu đó, không cần phải cho vợ con hay chính bản thân mình. Vì thành Phật hay không chính là ở tự tâm còn nhiễm hay không, không phải ở những hình tướng bên ngoài. Gia đình cư sĩ Bàng Long Uẩn, vợ con vẫn xum vầy, nhưng cả ông và hai con đều ra đi rất tự tại. Vì tuy còn vợ con, nhưng đời sống vợ chồng, tình cảm ràng buộc con cái đã không còn, tâm không còn dích mắc bất cứ thứ gì. 

ĐẠO QUẢ NHỊ THỪA, là chỉ cho các quả vị có được mà không cần hành Bồ tát đạo. Chỉ cần chịu ngồi một mình trong chốn tĩnh lặng và thiền định. Nhập được trạng thái thiền định của hàng La Hán thì thoát được sanh, già, bệnh, chết, hưởng được sự an lạc vô biên.

Tóm lại, các vị trưởng giả không thích tu pháp Đại thừa. Vì với cái nhìn của chư vị, tu Đại thừa quá khổ. Nếu phải tu thì cùng lắm là tu theo Nhị thừa, thoát cái khổ sanh già bệnh chết. Tức đã tu thì chỉ có tiến tới, vui ít tiến lên vui nhiều, không thể nhảy từ chỗ đang vui lùi lại chỗ khổ cực. Chắc ai cũng đồng tình với các vị trưởng giả đây. 

Phật nói với 500 trưởng giả : Lành thay! Lành thay! Các ông nghe tán thán Đại thừa, tâm sinh thối chuyển phát khởi đại nghĩa, khiến cho tất cả chúng sanh không biết ân nghĩa trong thời vị lai đều được lợi ích an lạc. Thuyết pháp, người nghe phản bác, Phật không bực mình mà còn tán thán “Lành thay!Lành thay! Các ông nghe tán thán Đại thừa, tâm sinh thối chuyển phát khởi đại nghĩa …”. Không phải khen vì các vị phản bác, cũng không phải khen vì các vị nghe tu Đại thừa sinh tâm thối chuyển. Khen, vì nhờ sự thối tâm đó, Phật mới biết được lý do thối tâmgiải thích, giúp người ở thời vị lai, là những người như mình đây, chưa hiểu về báo ân có cơ hội hiểu nó rõ ràng.

Lắng nghe, lắng nghe rồi khéo suy nghiệm! Ta nay vì ông phân biệt tuyên thuyết những chỗ ân nghĩa thuộc cả thế gianxuất thế gian. Này thiện nam tử! Chỗ nói của các ông chưa đáng là chánh lý. Vì sao? Vì ân nghĩathế gianxuất thế gian có 4 loại : 
1. Ân cha mẹ

2. Ân chúng sanh

3. Ân tổ quốc. 

4. Ân Tam bảo.

Bốn ân đó, chúng sanh đều phải đảm đương như nhau. 

Lắng nghe lắng nghe là muốn người nghe để tâm nghe cho kỹ. Nghe thế nào hiểu đúng thế ấy, đừng phân tâm để chữ thì tới tai, chữ lại không, khiến vấn đề trở thành sai lệch. 

CHƯA ĐÁNG CHÁNH LÝ, là các vị mới biết một mà chưa biết hai. 

ÂN không phải chỉ có ân cha mẹ, mà có đến bốn : Cha mẹ, chúng sanh, tổ quốc và Tam bảo. Tất cả mọi người đều phải có bổn phận đền đáp những ân này.

BÁO ÂN không phải chỉ có một mà đến hai. Không phải chỉ có dùng phẩm vật, công sức v.v… thuộc thế gian mới gọi là báo ân, mà còn có cách báo ân xuất thế gian. Cách báo ân này mới thật là báo ân, mới có thể báo hết 4 ân trên. Nó vượt xa cách báo ân thế gian.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 18419)
Truyền thuyết “Niêm hoa vi tiếu” không biết có từ lúc nào, chỉ thấy ghi chép thành văn vào đời Tống (960-1127) trong “Tông môn tạp lục” mục “Nhơn thiên nhãn”...
(Xem: 19896)
"Đây là con đường duy nhất để thanh lọc tâm, chấm dứt lo âu, phiền muộn, tiêu diệt thân bệnh và tâm bệnh, đạt thánh đạochứng ngộ Niết Bàn. Đó là Tứ Niệm Xứ".
(Xem: 19583)
Để diệt trừ cái khổ, người ta phải nhận ra bản chất nội tại của vấn đề khổ. Mà để được vậy, trước hết người ta phải cần có một cái tâm an tịnh...
(Xem: 33475)
Những lúc vô sự, người góp nhặt thường dạo chơi trong các vườn Thiền cổ kim đông tây. Tiêu biểu là các vườn Thiền Trung Hoa, Việt Nam, Nhật Bản và Hoa Kỳ.
(Xem: 34596)
Không thể có một bậc Giác Ngộ chứng nhập Niết Bàn mà chưa hiểu về mình và chưa thấy rõ gốc cội khổ đau của mình.
(Xem: 54589)
Muốn thực sự tiếp xúc với thực tại, cho dù đó bất cứ là gì, chúng ta phải biết cách dừng lại trong kinh nghiệm của mình, lâu đủ để nó thấm sâu vào và lắng đọng xuống...
(Xem: 37805)
Thực hành thiền trong Đạo Phật rốt ráo là để Thực Nghiệm sự thật VÔ NGÃđức Phật đã giác ngộ (khám phá). Đó cũng là để chứng thực KHÔNG TÁNH của vạn pháp.
(Xem: 21194)
Do bốn niệm xứ được tu tập, được làm cho sung mãn, thưa Hiền giả, khi Như Lai nhập Niết-bàn, Diệu pháp được tồn tại lâu dài.
(Xem: 17947)
Đức Phật khám phá ra rằng một tâm hạnh phúc nhất là tâm không bị dính mắc. Đây là một niềm hạnh phúc rất sâu sắc, khác hẳn với những gì chúng ta vẫn thường biết.
(Xem: 63754)
Đàn Kinh được các môn đệ của Huệ Năng nhìn nhận đã chứa đựng giáo lý tinh nhất của Thầy mình, và giáo lý được lưu truyền trong hàng đệ tử như là một di sản tinh thần...
(Xem: 17441)
Thiền giữ vai trò rất quan trọng trong đạo Phật. "Ngay cơ sở của Phật giáo, tất cả đều là kết quả của sự khảo sát về Thiền, và nhờ có tư duy về Thiền mà Phật giáo mới được thể nghiệm hóa...
(Xem: 49750)
Khi ta phát triển định tâm, ta sẽ có thể giữ những chướng ngại tạm thời ở một bên. Khi những chướng ngại được khắc phục, tâm ta trở nên rõ ràng trong sáng.
(Xem: 16908)
Thiền có nghĩa là tỉnh thức: thấy biết rõ ràng những gì anh đang làm, những gì anh đang suy nghĩ, những gì anh đang cảm thọ; biết rõ mà không lựa chọn...
(Xem: 16419)
Bất kì ai cũng có khả năng giác ngộ nếu có khát vọng. Khát vọng hướng về mẫu số chung “tự tri-tỉnh thức-vô ngã”, khát vọng đó là minh sư vĩ đại nhất của chính mình.
(Xem: 14516)
Thiền tông, nói mây, nói cuội, nói chuyện nghịch đời… chẳng qua đối duyên khai ngộ, để phá cho được cái dòng vọng tưởng tương tục của người, hy vọng ngay đó người nhận ra “chân”...
(Xem: 22528)
Nhờ thiền sư Munindra tận tâm hướng dẫn chu đáo từng bước một nên bà tiến bộ rất nhanh chóng. Đi từ cấp thiền cổ điển đến tiến bộ trong chánh niệm (progress insight).
(Xem: 57077)
Tập sách Thiền và Bát-nhã này là phần trích Luận Năm và Luận Sáu, trong bộ Thiền luận, tập hạ, của D. T. Suzuki. Tập này gồm các thiên luận về Hoa nghiêm và Bát-nhã.
(Xem: 13890)
Giác ngộ không phải là cầu toàn, vì càng cầu toàn con càng khổ đau thất vọng, mà là cần thấy ra bản chất bất toàn của cuộc sống. Chỉ cần vừa đủ trầm tĩnh sáng suốt...
(Xem: 29056)
Đức Phật dạy rằng hạnh phúcvấn đề thiết thực hiện tại, không phải là những ước mơ đẹp đẽ cho tương lai, hay những kỷ niệm êm đềm trong quá khứ.
(Xem: 33371)
Thầy bảo: “Chuyện vi tiếu nếu nghe mà không thấy thì cứ để vậy rồi một ngày kia sẽ thấy, tự khám phá mới hay chứ giải thích thì còn hứng thú gì.
(Xem: 38435)
Sở dĩ chúng ta mãi trôi lăn trong luân hồi sinh tử, phiền não khổ đau là vì thân tâm luôn hướng ngoại tìm cầu đối tượng của lòng tham muốn. Được thì vui mừng, thích thú...
(Xem: 31283)
Nếu không có cái ta ảo tưởng xen vào thì pháp vốn vận hành rất hoàn hảo, tự nhiên, và tánh biết cũng biết pháp một cách hoàn hảo, tự nhiên, vì đặc tánh của tâm chính là biết pháp.
(Xem: 13943)
Thực tế, thì căn bản của sự thực thiền của các hành giả chân chánh là khám phá ra những hành động nào đem lại khổ đau hoặc hạnh phúc. Sau đó, tránh các hành động gây nghiệp...
(Xem: 14656)
Thực hành phát triển Định Tuệ sẽ xa dần các tà kiến và các thiên chấp; sẽ sống với nhân cách tự-do-tinh-thần; cởi bỏ gánh nặng nô lệ thị phi, tập tục.
(Xem: 14320)
“Phản văn văn tự tánh” là “quay cái nghe nghe tự tánh”. Tự tánhthực thể đang nghe đang thấy đang biết, đồng thời đang tự biết tự thấy…
(Xem: 12676)
Hành thiền, cốt tuỷ nhất, là tự tri, là quán tâm. Học Thiền, tức học đạogiác ngộ, cốt tuỷ nhất là nương ngôn từ để thấy biết trạng thái tâm trí.
(Xem: 14862)
Tôi có một số kinh nghiệm vững chắc về định, tĩnh, và quán tưởng. Điều đó thúc đẩy tôi đến với Thiền Minh Sát. Các tu sĩ ở đây khuyến khích tôi xuất gia.
(Xem: 19233)
Nếu thấy tất cả con người, muôn vật đều hư giả, tạm bợ thì không còn tham sân nữa. Mình không thật, có ai chửi mình cũng không giận. Cái tôi không thật, lời chửi thật được sao...
(Xem: 13854)
Trong Phật giáo có những phương pháp dùng để thực hành Thiền từ bi. Các thiền giả nhằm khích động lòng từ bi đối với tất cả chúng sinh...
(Xem: 12703)
Thế giới, với người ngộ đạo, đã được lộn trái trở lại: sanh tử lộn ngược thành Niết Bàn. Đời sốngý nghĩakhông tịch. Đời sống là sự biểu hiện của tính sáng.
(Xem: 30450)
Thiền Quán là tri nhận Giác Thức thành Giác Trí. Giác Thức và Giác Trí được quán tưởng theo thời gian. Khi Tưởng Tri thì Thức và Trí luôn nối tiếp nhau làm cho ta có tư tưởng...
(Xem: 11870)
Cuộc cách mạng thực tập Thiền Chánh Niệm bắt đầu bằng một động tác giản dị là chú ý đến hơi thở, cảm thọ trong thân và tâm, nhưng rõ ràng là có thể đi rất xa.
(Xem: 30743)
Sự giác ngộ đem lại lợi ích thực sự ngay trong kiếp sống này. Khi đề cập đến Pháp hành ta nhất thiết phải tìm hiểu qui trình tu tập hợp lý và hợp với giáo huấn của Đức Phật.
(Xem: 29442)
“Chẳng có ai cả” là một tuyển tập những lời dạy ngắn gọn, cô đọng và thâm sâu nhất của Ajahn Chah, vị thiền sư lỗi lạc nhất thế kỷ của Thái Lan về pháp môn Thiền Minh Sát.
(Xem: 30660)
Thiện tri thức! Tâm lượng quảng đại, biến mãn khắp pháp giới, về dụng thì mỗi mỗi phân minh, ứng dụng ra thì biết được tất cả là một, một là tất cả... Thích Nữ Trí Hải dịch
(Xem: 31273)
Bên ngoài xa lìa các tướng gọi là “thiền”, bên trong không loạn gọi là “định”. Bên ngoài nếu như tuy có tướng, song bên trong bổn tính vẫn không loạn, thì đó là cái tự tịnh tự định bổn nguyên.
(Xem: 37154)
Thiện tri thức, khi chưa ngộ thì Phật tức chúng sanh, lúc một niệm khai ngộ, chúng sanh tức Phật. Nên biết vạn pháp đều ở nơi tự tâm...
(Xem: 32311)
Này chư Thiện tri thức, cái trí Bồ Đề Bát Nhã, người thế gian vốn tự có, nhưng bởi tâm mê, nên chẳng tự ngộ được... Minh Trực Thiền Sư Việt dịch
(Xem: 23732)
Quyển "THIỀN QUÁN - Tiếng Chuông Vượt Thời Gian" là một chuyên đề đặc biệt giới thiệu về truyền thống tu tập thiền Tứ Niệm Xứ của đức Phật dưới sự hướng dẫn của thiền sư U Ba Khin.
(Xem: 12252)
Thực tập chánh niệm có thể ảnh hưởng tích cực đến nhiều hoạt động của hạch hạnh nhân, khu vực có kích thước bằng hạt đậu nằm ở trung tâm não bộ...
(Xem: 14244)
Thiền Tiệm Ngộpháp hành từ tập trung trí và thức gom vào một đề mục duy nhất, hoặc dùng một đối tượng đặt ra do tư tưởng định trước.
(Xem: 14116)
Khi chấp nhận thực hành thiền, chúng ta phải có niềm tin sâu sắc vào khả năng của tâm chúng ta ngay từ lúc khởi đầu, và phải duy trì niềm tin ấy...
(Xem: 34018)
Nếu tâm chúng ta dịu dàng, nhân ái, hiểu biết, và có sự đồng cảm đối với tha nhân, chúng ta sẽ tu tập tâm từ đến người khác không mấy khó khăn.
(Xem: 27773)
Đức Phật bảo rằng cần có mười lăm đức tính để tự hoàn thiện, để có thể sinh lòng từ bi đối với mọi người quanh ta hay rộng hơn cho đến tất cả nhân loại...
(Xem: 12479)
Không biết tự bao giờ, Trà trở thành thân quen trong nếp sống Thiền gia Phật Giáo Bắc Truyền, rồi trà thành một phần văn hóa của Phật Giáo...
(Xem: 28690)
Sách này đặt tên "Kiến Tánh Thành Phật", nghĩa là sao? Bởi muốn cho người ngưỡng mộ tên này, cần nhận được lý thật của nó. Như kinh nói: "Vì muốn cho chúng sanh khai, thị, ngộ, nhập tri kiến Phật".
(Xem: 29417)
Những bài kinh Phật không có bài nào là không hay. Có miệt mài trên những trang kinh xưa mới cảm được sự vang động của suối nguồn trí tuệ.
(Xem: 12456)
Vị trí cực kỳ quan trọng của Lục Tổ Huệ Năng đối với sự hình thành và phát triển của Thiền tông Trung Quốc đã khiến các đệ tử Phật môn luôn nhắc về ông...
(Xem: 29283)
Trong sách này Ngài Sayadaw diễn tả đầy đủ phương pháp quán niệmgiải thích với đầy đủ chi tiết đường lối suy tư về lý vô ngã có thể dẫn đến mức độ thành tựu Niết Bàn.
(Xem: 28068)
Vào năm 1986-1987 Hòa Thượng giảng Kinh Nguyên Thủy; đối chiếu Kinh Pali (dịch ra Việt Ngữ) và A Hàm tại Thường Chiếu giúp cho Thiền sinh thấy rõ nguồn mạch Phật Pháp từ Nguyên Thủy đến Đại ThừaThiền Tông.
(Xem: 25725)
Con đường thiền tậpchánh niệm tỉnh giác, chứng nghiệm vào thực tại sống động. Khi tâm an định, hành giả có sự trầm tĩnh sáng suốt thích nghi với mọi hoàn cảnh thuận nghịch...
(Xem: 26084)
Cuốn Ba Thiền Sư ghi lại cuộc đời của Ikkyu Sojun (1394-1481), Hakuin Ekaku (1686-1768), và Ryokan Taigu (1758-1831). Mỗi vị Sư đều hiển lộ Thiền Tông trong cách riêng.
(Xem: 22315)
Với người đã mở mắt đạo thì ngay nơi “sắc” hiện tiền đó mà thấy suốt không chướng ngại, không ngăn che, nên mặc dù Sắc có đó vẫn như không, không một chút dấu vết mê mờ...
(Xem: 33193)
Thiền Tông nhấn mạnh vào mặt kinh nghiệm cá nhân, nhắm đưa từng con người chúng ta giáp mặt trực tiếp với chân lý trong ngay chính hoàn cảnh hiện tiền của chúng ta.
(Xem: 31844)
Các pháp thế gian đều kỵ chấp trước, chỗ qui kính của Thích tử không ai bằng Phật mà có khi vẫn phải quở. Bởi có ta mà không kia, do ta mà không do kia vậy.
(Xem: 39631)
Quả thật, chân lý thiền vốn ở ngay nơi người, ngay trong tự tâm chúng ta đây thôi. Vậy ai có tâm thì chắc chắc có thiền, không nghi ngờ gì nữa.
(Xem: 22490)
Bắt đầu bằng cách bỏ qua một bên tất cả những mối quan tâm ở bên ngoài, và quay vào quán sát nội tâm cho đến khi ta biết tâm trong sáng hay ô nhiễm, yên tĩnh hay tán loạn như thế nào.
(Xem: 34526)
Đây là phần thứ 2 trong 3 phần chính của cuốn Zen no Rekishi (Lịch Sử Thiền) do giáo sư Ibuki Atsushi soạn, xuất bản lần đầu tiên năm 2001 tại Tôkyô.
(Xem: 27393)
Thật ra chân lý nó không nằm ở bên đúng hay bên sai, mà nó vượt lên trên tất cả đối đãi, chấp trước về hiện hữu của Nhị Nguyên. Chân lý là điểm đến, còn hướng đến chân lý có nhiều con đường dẫn đến khác nhau.
(Xem: 28434)
Trong tiếng Phạn (Sanskrit), từ "Thiền" có ngữ nguyên là dhyâna. Người Trung Hoa đã dịch theo âm thành "Thiền na". Ý nghĩa "trầm tư mặc tưởng" của nó từ xưa trong sách vở Phật giáo lại được biểu âm bằng hai chữ yoga (du già).
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant