Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Lời mở

03 Tháng Hai 201200:00(Xem: 20041)
Lời mở
NƠI ẤY LÀ BÂY GIỜ VÀ Ở ÐÂY 
Nguyên tác: Wherever You Go, There You Are. 
Tác giả: Jon Kabat-Zinn - Dịch giả: Nguyễn Duy Nhiên. 
"Thiền tập áp dụng vào đời sống hằng ngày"

LỜI MỞ 

Bạn có biết không? Nói cho cùng thì bất cứ một nơi nào bạn đến cũng sẽ là bây giờ và ở đây mà thôi. Trong giờ phút này bạn đang bận bịu với những vấn đề gì, thì chúng cũng đã là những việc bạn đã bận bịu trong quá khứ. Những gì bạn đang suy nghĩ ngay bây giờ là những gì đang ở trong tâm bạn. Bất cứ việc gì đã xảy ra thì nó đã xảy ra. Câu hỏi quan trọng là ta sẽ xử sự với chúng như thế nào. Nói một cách khác: "Bây giờ sao đây?" 

Dù muốn dù không, ta chỉ duy có mỗi giây phút hiện tại này để sống mà thôi. Tuy vậy, ta lại cứ sống trong quên lãng, không nhớ rằng mình đang ở nơi đây, nơi ta đang có mặt, và đang sống trong hoàn cảnh ta đã có. Trong mỗi giây phút, chúng ta bắt gặp mình đứng trước một ngã tư đường của bây giờ và ở đây. Nhưng khi đám mây mờ của sự quên lãng che phủ giây phút hiện tại, chúng ta bị lạc lối. Và lúc ấy "Bây giờ sao đây?" thật sự trở thành một vấn đề

Bị lạc lối, ở đây tôi muốn nói là khi ta tạm thời không còn tiếp xúc được với chính mình, cũng như với tất cả những tiềm năng của mình. Thay vì vậy, chúng ta lại bị rơi vào một trạng thái hành xử, quan sátsuy nghĩ như một người máy. Trong những giây phút ấy, ta cắt đứt sự liên lạc của mình với những gì sâu kín nhất trong nội tâm, mà chúng có thể đem lại cho ta những cơ hội rất lớn cho sự sáng tạo, học hỏi và phát triển. Và nếu không cẩn thận, những giây phút mờ mịt ấy có thể kéo dài ra và trở thành cuộc đời của mình. 

Muốn thực sự tiếp xúc với thực tại, cho dù đó bất cứ là gì, chúng ta phải biết cách dừng lại trong kinh nghiệm của mình, lâu đủ để nó thấm sâu vào và lắng đọng xuống, lâu đủ để ta có thể thật sự cảm giác được giây phút hiện tại, thấy được nó một cách toàn vẹn, giữ nó trong tâm, để ta có thể biết và hiểu rõ ràng hơn. Chỉ chừng ấy, ta mới có thể chấp nhận được sự thật của giây phút này trong cuộc sống, để được học từ nó và rồi tiếp tục. Nhưng thay vì vậy, chúng ta thường bị ám ảnh bởi một quá khứ đã qua rồi hoặc một tương lai chưa tới. Chúng ta luôn đi tìm ở một nơi nào khác, với hy vọng rằng ở nơi đó mọi việc sẽ được tốt đẹp hơn, hạnh phúc hơn, sẽ giống như ý ta muốn, hoặc sẽ được lại như xưa. Nhưng hầu hết chúng ta chỉ ý thức được một phần rất nhỏ của sự dằn co này, nếu ta có ý thức được chúng. Hơn nữa, chúng ta cũng chỉ có một ý thức nhỏ nhoi về những gì mình đang làm trong và đối với cuộc sống này, cũng như ảnh hưởng của chúng. Và tinh tế hơn nữa là ảnh hưởng của những ý nghĩ của ta trên những gì mình thấy và không thấy, những gì ta làm và không làm. 

Ví dụ, chúng ta thường bị kẹt, một cách vô ý thức, vào sự giả định cho rằng những gì mình nghĩ - tư tưởng, ý kiến ta hằng nuôi dưỡng - là một chân lý tuyệt đối về những gì đang xảy ra ngoài kia cũng như ở trong tâm ta. Mà sự thật thì không bao giờ như vậy. 

Chúng ta đã trả một giá rất đắt cho sự sai lầm cũng như cho cái giả định vô căn cứ ấy, khi ta đã cố ý xem thường tính cách nhiệm mầu của giây phút hiện tại. Hậu quả của chúng đã được tích lũy trong lặng lẽ và tô màu cho cuộc sống, trong khi chúng ta không hề hay biết hoặc có thể làm gì khác hơn được. Và có lẽ chúng ta cũng sẽ không bao giờ thật sự được là mình, không bao giờ có thể tiếp xúc được với tất cả những tiềm năng trong ta. Vì chúng ta thường hay tự khó chặt mình trong một ảo tuởng, rằng ta đã biết mình là ai, ta biết mình đang ở đâu và đang đi về đâu, rằng ta biết việc gì đang xảy ra. Trong khi sự thật ta đang bị liệm kín trong những ý nghĩ, mơ mộng, và những sự thúc đẩy, phần nhiều là về quá khứ hoặc tương lai, về những gì ta ưa thích hoặc ghét bỏ, chúng quay tít mù, che lấp kín con đường chúng ta đi và ngay cả mảnh đất ta đang đứng. 

Quyển sách bạn đang cầm trên tay, đây là nói về một sự tỉnh thức dậy từ những giấc mơ ấy, nhiều khi chúng lại trở thành những ác mộng. Không ý thức được rằng mình đang sống trong mộng, đạo Phật gọi đó là vô minh, hoặc thất niệm. Và ý thức được sự không biết đó, ta gọi là chánh niệm. Công phu đánh thức mình dậy từ những giấc mơ ấy chính là Thiền tập, một phương pháp thực tậphệ thống, giúp ta phát triển sự tỉnh thức, một khả năng ý thức được giây phút hiện tại. Sự tỉnh thức này đi song đôi với tuệ giác, tức một cái thấy sâu sắc về nhân và quả, về tính cách liên hệ mật thiết của mọi vật với nhau, nó giúp ta không còn bị kẹt trong một thực tại ảo tưởng về những tạo vật do chính mình dựng lên. Muốn tìm được con đường đi cho mình, ta cần phải biết chú ý hơn đến giây phút hiện tại này. Ta chỉ có mỗi một giây phút này để sống, để phát triển, để cảm nhận và để thay đổi. Chúng ta cần phải trở nên thật cẩn thậnđề phòng sự lôi kéo rất mãnh liệt của hai hấp lực quá khứ và tương lai, cũng như cái thế giới mộng tưởng chúng dâng tặng ta trong cuộc sống. 

Khi nói đến Thiền tập, điều quan trọng là bạn nên biết rằng đây không phải là một việc làm nào lạ kỳ hoặc bí ẩn hết, Nó không có nghĩa là bắt ta phải trở thành một người lạnh lùng, xa lạ, lãnh đạm, cuồng tín, huyền bí hoặc làm một triết gia. Thiền tập chỉ đơn giản có nghĩa là làm chính mình và thật sự biết được một chút gì về con người ấy. Ðây là một ý thức rằng ta đang đi trên một con đường, cho dù mình có ưa thích hay không, và con đường ấy chính là cuộc đời của ta. Thiền tập có thể giúp ta thấy được con đường mà ta gọi là cuộc đời này nó có một phương hướng, luôn luôn khai mở trong từng giây phút một, và những gì đang xảy ra bây giờ sẽ ảnh hưởng đến những gì xảy ra kế tiếp

Và nếu việc xảy ra trong giây phút này sẽ có tác dụng đến việc xảy ra trong giây phút kế, thỉnh thoảng ta cũng nên nhìn lại chung quanh mình một chút, để có thể tiếp xúc với chúng sâu sắc hơn, và từ đó có được một nhận thức rõ ràng về con đường cũng như phương hướng chúng ta đang theo, như vậy thì có hay hơn không? Ðược như vậy, có lẽ ta sẽ có được một vị thế tốt đẹp hơn để có thể tự định cho mình một con đường nào thật sự thích hợp - một con đường tâm linh, một con đường của tình thương, một con đường của chính ta. Bằng không, sự thúc đẩy, xung lực của sự vô ý thức trong giây phút này sẽ quyết định cho giây phút kế. Những ngày, tháng, năm của ta sẽ trôi qua như chiếc bóng mờ của một con ngựa thoáng bên ngoài cửa sổ, thời gian ấy ta không hề biết tới và cũng không dùng đến. 

Chúng ta rất dễ rơi thẳng vào một con dốc trơn bị sương mù che kín, dẫn ngay vào huyệt mộ của mình. Hoặc là một giây phút tỉnh táo nào đó vào lúc cuối đời trên giường bệnh, ta chợt tỉnh thức dậy và hiểu rằng những gì mình tưởng là quan trọng, là lối sống trong những năm qua, thật ra chỉ là một phần nhỏ của sự thật dựa trên sự sợ hãivô minh, chúng chỉ là những ý niệm giới hạn của ta về sự sống, chứ không hề là chân lý hoặc thật sự là một con đường sống. 

Không một ai có thể làm công việc đánh thức dùm ta được, mặc dù đôi khi gia đình, bè bạn cũng đã cố gắng hết sức để truyền thông với ta, giúp ta thấy sáng suốt hơn cũng như phá tan sự mù tối của mình. Nhưng cuối cùng thì sự tỉnh thức là việc của mỗi chúng ta chỉ có thể làm cho chính mình. Chung quy lại thì bất cứ nơi nào ta đến, chỉ có thể là bây giờ và ở đây. Ðó chính là cuộc sống của chính ta đang khai mở. 

Trọn cuộc đời, đức Phật đã đi truyền dạy một giáo lý sống tỉnh thức. Có lẽ đức Phật cũng có những hàng đệ tử lúc nào cũng mong ngài giúp họ đễ dàng tìm được một con đường cho họ. Vào lúc cuối đời, đức Phật cũng đã tóm tắt lại một lời này cho các đệ tử của ngài: "Các con hãy tự thắp đuốc lên mà đi". 

Chánh niệm là một thực tậpliên quan đến sự chú ý và tỉnh thức, đó là những nhân tính rất phổ thông của loài người. Nhưng trong xã hội này, chúng ta lại hay xem thường những khả năng ấy, không nghĩ đến chuyện phát triển chúng một cách có hệ thống để phục vụ cho sự tự hiểu cũng như tuệ giác của chúng ta. Thiền tập là một quá trình giúp ta làm sâu sắc thêm sự chú ý cũng như chánh niệm của mình, tôi luyện chúng và đem áp dụng vào những sự việc cụ thể trong đời sống hàng ngày. 

Mục đích của quyển sách này là để mời gọi đọc giả ý thức rằng, qua các kinh nghiệm trực tiếp bằng sự chú ý đến những việc đa số chúng ta thường bỏ qua, có một lý do thật sự để chúng ta đem sự thực tập chánh niệm thể nhập vào cơ cấu đời sống của mình. 

Nhưng không phải tôi nói rằng chánh niệm là một liều thuốc tiêncông năng, chữa trị bá bệnh, giải quyết hết mọi khó khăn của cuộc sống. Không hề là vậy. Tôi không biết là thật sự có một giải pháp kỳ diệu nào không, thật sự tôi cũng không muốn đi tìm. Một cuộc sống toàn vẹn phải được vẽ bằng những đường nét rộng lớn. Có nhiều con đường dẫn đến sự hiểu biếttuệ giác. Mỗi người chúng ta có những nhu cầu riêng cần được xử lý và đeo đuổi trong cuộc hành trình của đời mình. Mỗi người chúng ta phải tự vạch lấy con đường đi và nó phải thích hợp với sự sẵn sàng của chính mình. 

Lẽ dĩ nhiên bạn phải sẵn sàng cho sự thực tập thiền quán. Bạn phải biết đến với nó vào đúng lúc trong đời mình, ở một thời điểm bạn đã sẵn sàng biết thật sự lắng nghe giọng nói, con tim và hơi thở của mình - biết có mặt với chúng, không cần phải đi đâu hoặc cải tiến hay thay đổi bất cứ một việc gì hết. Nó là một công phu tu tập

Quyển sách này mở những cánh cửa đơn sơ để giúp ta bước vào và tiếp xúc với bản chất của thiền tập chánh niệm, cũng như những ứng dụng cụ thể của nó. Nó đặc biệt giúp ích cho những ai cảm thấy không thích hợp với những chương trình được ấn địnhquy củ, không bị thích trực tiếp hướng dẫn, nhưng tò mò muốn tìm hiểu về chánh niệm và sự áp dụng của nó. Trong sách, tôi thỉnh thoảng có đóng góp những lời nhắn nhủ và gợi ý cho sự thực tập

Và cùng một lúc, quyển sách này cũng cung cấp cho những ai đã và đang thực tập thiền quán, muốn mở rộng, đào sâucủng cố ước vọng muốn sống một cuộc đời tỉnh thức và minh triết. Nơi đây, trong những chương ngắn, tôi đặt trong tâm vào tinh thần của chánh niệm, trong cả hai lãnh vực: sự tu tập nghiêm túc theo quy củsự cố gắng đem phương pháp thực tập áp dụng vào mọi phương diện của cuộc sống. Mỗi chương là một cái nhìn lướt qua trên một mặt nhỏ của viên kim cương chánh niệm có muôn ngàn mặt. Ðôi khi chúng có vẻ tương tự như nhau, nhưng mỗi mặt đều có một nét đặc thù và hoàn cảnh khác biệt. 

Sự khám phá viên kim cương của chánh niệm này được dâng tặng cho những ai muốn tìm cho mình một con đường đi đến sự giải thoát và minh triết trong đời sống. Nó chỉ đòi hỏi một sự cương quyết, muốn nhìn sâu sắc vào giây phút hiện tại, cho dù đó là bất cứ một hoàn cảnh gì, với lòng từ ái đối với chính mình, và sự cởi mở đối với những gì có thể xảy ra. 

Phần một giới thiệu lý do căn bản và nền tảng của việc thực tập cũng như phát huy chánh niệm trong đời sống cá nhân. Nó thách thức đọc giả hãy kinh nghiệm, thử áp dụng chánh niệm vào đời sống của mình qua nhiều phương cách khác nhau. Phần hai giới thiệu một vài phương diện căn bản của một sự tu tập nghiêm túc. Tu tập nghiêm túc ở đây nói về những khi ta bỏ ra một thời gian nhất định, khi ta ngưng hết mọi sinh hoạt thường ngày với mục đích thực hành những phương pháp thiền tập để phát huy chánh niệmđịnh lực. Nhiều chương trong phần ba của quyển sách được chấm dứt bằng những bài thực tập, chúng gợi ý cho đọc giả những phương cách đem ứng dụng chánh niệm vào đời sống hằng ngày.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 18435)
Truyền thuyết “Niêm hoa vi tiếu” không biết có từ lúc nào, chỉ thấy ghi chép thành văn vào đời Tống (960-1127) trong “Tông môn tạp lục” mục “Nhơn thiên nhãn”...
(Xem: 19917)
"Đây là con đường duy nhất để thanh lọc tâm, chấm dứt lo âu, phiền muộn, tiêu diệt thân bệnh và tâm bệnh, đạt thánh đạochứng ngộ Niết Bàn. Đó là Tứ Niệm Xứ".
(Xem: 19593)
Để diệt trừ cái khổ, người ta phải nhận ra bản chất nội tại của vấn đề khổ. Mà để được vậy, trước hết người ta phải cần có một cái tâm an tịnh...
(Xem: 33501)
Những lúc vô sự, người góp nhặt thường dạo chơi trong các vườn Thiền cổ kim đông tây. Tiêu biểu là các vườn Thiền Trung Hoa, Việt Nam, Nhật Bản và Hoa Kỳ.
(Xem: 34622)
Không thể có một bậc Giác Ngộ chứng nhập Niết Bàn mà chưa hiểu về mình và chưa thấy rõ gốc cội khổ đau của mình.
(Xem: 54612)
Muốn thực sự tiếp xúc với thực tại, cho dù đó bất cứ là gì, chúng ta phải biết cách dừng lại trong kinh nghiệm của mình, lâu đủ để nó thấm sâu vào và lắng đọng xuống...
(Xem: 37851)
Thực hành thiền trong Đạo Phật rốt ráo là để Thực Nghiệm sự thật VÔ NGÃđức Phật đã giác ngộ (khám phá). Đó cũng là để chứng thực KHÔNG TÁNH của vạn pháp.
(Xem: 21212)
Do bốn niệm xứ được tu tập, được làm cho sung mãn, thưa Hiền giả, khi Như Lai nhập Niết-bàn, Diệu pháp được tồn tại lâu dài.
(Xem: 17955)
Đức Phật khám phá ra rằng một tâm hạnh phúc nhất là tâm không bị dính mắc. Đây là một niềm hạnh phúc rất sâu sắc, khác hẳn với những gì chúng ta vẫn thường biết.
(Xem: 63777)
Đàn Kinh được các môn đệ của Huệ Năng nhìn nhận đã chứa đựng giáo lý tinh nhất của Thầy mình, và giáo lý được lưu truyền trong hàng đệ tử như là một di sản tinh thần...
(Xem: 17452)
Thiền giữ vai trò rất quan trọng trong đạo Phật. "Ngay cơ sở của Phật giáo, tất cả đều là kết quả của sự khảo sát về Thiền, và nhờ có tư duy về Thiền mà Phật giáo mới được thể nghiệm hóa...
(Xem: 49774)
Khi ta phát triển định tâm, ta sẽ có thể giữ những chướng ngại tạm thời ở một bên. Khi những chướng ngại được khắc phục, tâm ta trở nên rõ ràng trong sáng.
(Xem: 16917)
Thiền có nghĩa là tỉnh thức: thấy biết rõ ràng những gì anh đang làm, những gì anh đang suy nghĩ, những gì anh đang cảm thọ; biết rõ mà không lựa chọn...
(Xem: 16448)
Bất kì ai cũng có khả năng giác ngộ nếu có khát vọng. Khát vọng hướng về mẫu số chung “tự tri-tỉnh thức-vô ngã”, khát vọng đó là minh sư vĩ đại nhất của chính mình.
(Xem: 14526)
Thiền tông, nói mây, nói cuội, nói chuyện nghịch đời… chẳng qua đối duyên khai ngộ, để phá cho được cái dòng vọng tưởng tương tục của người, hy vọng ngay đó người nhận ra “chân”...
(Xem: 22541)
Nhờ thiền sư Munindra tận tâm hướng dẫn chu đáo từng bước một nên bà tiến bộ rất nhanh chóng. Đi từ cấp thiền cổ điển đến tiến bộ trong chánh niệm (progress insight).
(Xem: 57108)
Tập sách Thiền và Bát-nhã này là phần trích Luận Năm và Luận Sáu, trong bộ Thiền luận, tập hạ, của D. T. Suzuki. Tập này gồm các thiên luận về Hoa nghiêm và Bát-nhã.
(Xem: 13900)
Giác ngộ không phải là cầu toàn, vì càng cầu toàn con càng khổ đau thất vọng, mà là cần thấy ra bản chất bất toàn của cuộc sống. Chỉ cần vừa đủ trầm tĩnh sáng suốt...
(Xem: 29083)
Đức Phật dạy rằng hạnh phúcvấn đề thiết thực hiện tại, không phải là những ước mơ đẹp đẽ cho tương lai, hay những kỷ niệm êm đềm trong quá khứ.
(Xem: 33388)
Thầy bảo: “Chuyện vi tiếu nếu nghe mà không thấy thì cứ để vậy rồi một ngày kia sẽ thấy, tự khám phá mới hay chứ giải thích thì còn hứng thú gì.
(Xem: 38449)
Sở dĩ chúng ta mãi trôi lăn trong luân hồi sinh tử, phiền não khổ đau là vì thân tâm luôn hướng ngoại tìm cầu đối tượng của lòng tham muốn. Được thì vui mừng, thích thú...
(Xem: 31297)
Nếu không có cái ta ảo tưởng xen vào thì pháp vốn vận hành rất hoàn hảo, tự nhiên, và tánh biết cũng biết pháp một cách hoàn hảo, tự nhiên, vì đặc tánh của tâm chính là biết pháp.
(Xem: 13949)
Thực tế, thì căn bản của sự thực thiền của các hành giả chân chánh là khám phá ra những hành động nào đem lại khổ đau hoặc hạnh phúc. Sau đó, tránh các hành động gây nghiệp...
(Xem: 14665)
Thực hành phát triển Định Tuệ sẽ xa dần các tà kiến và các thiên chấp; sẽ sống với nhân cách tự-do-tinh-thần; cởi bỏ gánh nặng nô lệ thị phi, tập tục.
(Xem: 14329)
“Phản văn văn tự tánh” là “quay cái nghe nghe tự tánh”. Tự tánhthực thể đang nghe đang thấy đang biết, đồng thời đang tự biết tự thấy…
(Xem: 12702)
Hành thiền, cốt tuỷ nhất, là tự tri, là quán tâm. Học Thiền, tức học đạogiác ngộ, cốt tuỷ nhất là nương ngôn từ để thấy biết trạng thái tâm trí.
(Xem: 14879)
Tôi có một số kinh nghiệm vững chắc về định, tĩnh, và quán tưởng. Điều đó thúc đẩy tôi đến với Thiền Minh Sát. Các tu sĩ ở đây khuyến khích tôi xuất gia.
(Xem: 19245)
Nếu thấy tất cả con người, muôn vật đều hư giả, tạm bợ thì không còn tham sân nữa. Mình không thật, có ai chửi mình cũng không giận. Cái tôi không thật, lời chửi thật được sao...
(Xem: 13862)
Trong Phật giáo có những phương pháp dùng để thực hành Thiền từ bi. Các thiền giả nhằm khích động lòng từ bi đối với tất cả chúng sinh...
(Xem: 12707)
Thế giới, với người ngộ đạo, đã được lộn trái trở lại: sanh tử lộn ngược thành Niết Bàn. Đời sốngý nghĩakhông tịch. Đời sống là sự biểu hiện của tính sáng.
(Xem: 30479)
Thiền Quán là tri nhận Giác Thức thành Giác Trí. Giác Thức và Giác Trí được quán tưởng theo thời gian. Khi Tưởng Tri thì Thức và Trí luôn nối tiếp nhau làm cho ta có tư tưởng...
(Xem: 11885)
Cuộc cách mạng thực tập Thiền Chánh Niệm bắt đầu bằng một động tác giản dị là chú ý đến hơi thở, cảm thọ trong thân và tâm, nhưng rõ ràng là có thể đi rất xa.
(Xem: 30772)
Sự giác ngộ đem lại lợi ích thực sự ngay trong kiếp sống này. Khi đề cập đến Pháp hành ta nhất thiết phải tìm hiểu qui trình tu tập hợp lý và hợp với giáo huấn của Đức Phật.
(Xem: 29469)
“Chẳng có ai cả” là một tuyển tập những lời dạy ngắn gọn, cô đọng và thâm sâu nhất của Ajahn Chah, vị thiền sư lỗi lạc nhất thế kỷ của Thái Lan về pháp môn Thiền Minh Sát.
(Xem: 30683)
Thiện tri thức! Tâm lượng quảng đại, biến mãn khắp pháp giới, về dụng thì mỗi mỗi phân minh, ứng dụng ra thì biết được tất cả là một, một là tất cả... Thích Nữ Trí Hải dịch
(Xem: 31311)
Bên ngoài xa lìa các tướng gọi là “thiền”, bên trong không loạn gọi là “định”. Bên ngoài nếu như tuy có tướng, song bên trong bổn tính vẫn không loạn, thì đó là cái tự tịnh tự định bổn nguyên.
(Xem: 37195)
Thiện tri thức, khi chưa ngộ thì Phật tức chúng sanh, lúc một niệm khai ngộ, chúng sanh tức Phật. Nên biết vạn pháp đều ở nơi tự tâm...
(Xem: 32336)
Này chư Thiện tri thức, cái trí Bồ Đề Bát Nhã, người thế gian vốn tự có, nhưng bởi tâm mê, nên chẳng tự ngộ được... Minh Trực Thiền Sư Việt dịch
(Xem: 23753)
Quyển "THIỀN QUÁN - Tiếng Chuông Vượt Thời Gian" là một chuyên đề đặc biệt giới thiệu về truyền thống tu tập thiền Tứ Niệm Xứ của đức Phật dưới sự hướng dẫn của thiền sư U Ba Khin.
(Xem: 12260)
Thực tập chánh niệm có thể ảnh hưởng tích cực đến nhiều hoạt động của hạch hạnh nhân, khu vực có kích thước bằng hạt đậu nằm ở trung tâm não bộ...
(Xem: 14255)
Thiền Tiệm Ngộpháp hành từ tập trung trí và thức gom vào một đề mục duy nhất, hoặc dùng một đối tượng đặt ra do tư tưởng định trước.
(Xem: 14119)
Khi chấp nhận thực hành thiền, chúng ta phải có niềm tin sâu sắc vào khả năng của tâm chúng ta ngay từ lúc khởi đầu, và phải duy trì niềm tin ấy...
(Xem: 34042)
Nếu tâm chúng ta dịu dàng, nhân ái, hiểu biết, và có sự đồng cảm đối với tha nhân, chúng ta sẽ tu tập tâm từ đến người khác không mấy khó khăn.
(Xem: 27793)
Đức Phật bảo rằng cần có mười lăm đức tính để tự hoàn thiện, để có thể sinh lòng từ bi đối với mọi người quanh ta hay rộng hơn cho đến tất cả nhân loại...
(Xem: 12495)
Không biết tự bao giờ, Trà trở thành thân quen trong nếp sống Thiền gia Phật Giáo Bắc Truyền, rồi trà thành một phần văn hóa của Phật Giáo...
(Xem: 28708)
Sách này đặt tên "Kiến Tánh Thành Phật", nghĩa là sao? Bởi muốn cho người ngưỡng mộ tên này, cần nhận được lý thật của nó. Như kinh nói: "Vì muốn cho chúng sanh khai, thị, ngộ, nhập tri kiến Phật".
(Xem: 29443)
Những bài kinh Phật không có bài nào là không hay. Có miệt mài trên những trang kinh xưa mới cảm được sự vang động của suối nguồn trí tuệ.
(Xem: 12469)
Vị trí cực kỳ quan trọng của Lục Tổ Huệ Năng đối với sự hình thành và phát triển của Thiền tông Trung Quốc đã khiến các đệ tử Phật môn luôn nhắc về ông...
(Xem: 29295)
Trong sách này Ngài Sayadaw diễn tả đầy đủ phương pháp quán niệmgiải thích với đầy đủ chi tiết đường lối suy tư về lý vô ngã có thể dẫn đến mức độ thành tựu Niết Bàn.
(Xem: 28110)
Vào năm 1986-1987 Hòa Thượng giảng Kinh Nguyên Thủy; đối chiếu Kinh Pali (dịch ra Việt Ngữ) và A Hàm tại Thường Chiếu giúp cho Thiền sinh thấy rõ nguồn mạch Phật Pháp từ Nguyên Thủy đến Đại ThừaThiền Tông.
(Xem: 25746)
Con đường thiền tậpchánh niệm tỉnh giác, chứng nghiệm vào thực tại sống động. Khi tâm an định, hành giả có sự trầm tĩnh sáng suốt thích nghi với mọi hoàn cảnh thuận nghịch...
(Xem: 26104)
Cuốn Ba Thiền Sư ghi lại cuộc đời của Ikkyu Sojun (1394-1481), Hakuin Ekaku (1686-1768), và Ryokan Taigu (1758-1831). Mỗi vị Sư đều hiển lộ Thiền Tông trong cách riêng.
(Xem: 22332)
Với người đã mở mắt đạo thì ngay nơi “sắc” hiện tiền đó mà thấy suốt không chướng ngại, không ngăn che, nên mặc dù Sắc có đó vẫn như không, không một chút dấu vết mê mờ...
(Xem: 33215)
Thiền Tông nhấn mạnh vào mặt kinh nghiệm cá nhân, nhắm đưa từng con người chúng ta giáp mặt trực tiếp với chân lý trong ngay chính hoàn cảnh hiện tiền của chúng ta.
(Xem: 31869)
Các pháp thế gian đều kỵ chấp trước, chỗ qui kính của Thích tử không ai bằng Phật mà có khi vẫn phải quở. Bởi có ta mà không kia, do ta mà không do kia vậy.
(Xem: 39659)
Quả thật, chân lý thiền vốn ở ngay nơi người, ngay trong tự tâm chúng ta đây thôi. Vậy ai có tâm thì chắc chắc có thiền, không nghi ngờ gì nữa.
(Xem: 22522)
Bắt đầu bằng cách bỏ qua một bên tất cả những mối quan tâm ở bên ngoài, và quay vào quán sát nội tâm cho đến khi ta biết tâm trong sáng hay ô nhiễm, yên tĩnh hay tán loạn như thế nào.
(Xem: 34557)
Đây là phần thứ 2 trong 3 phần chính của cuốn Zen no Rekishi (Lịch Sử Thiền) do giáo sư Ibuki Atsushi soạn, xuất bản lần đầu tiên năm 2001 tại Tôkyô.
(Xem: 27413)
Thật ra chân lý nó không nằm ở bên đúng hay bên sai, mà nó vượt lên trên tất cả đối đãi, chấp trước về hiện hữu của Nhị Nguyên. Chân lý là điểm đến, còn hướng đến chân lý có nhiều con đường dẫn đến khác nhau.
(Xem: 28457)
Trong tiếng Phạn (Sanskrit), từ "Thiền" có ngữ nguyên là dhyâna. Người Trung Hoa đã dịch theo âm thành "Thiền na". Ý nghĩa "trầm tư mặc tưởng" của nó từ xưa trong sách vở Phật giáo lại được biểu âm bằng hai chữ yoga (du già).
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant