Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

06. Xả thiền

03 Tháng Hai 201200:00(Xem: 21941)
06. Xả thiền
NƠI ẤY LÀ BÂY GIỜ VÀ Ở ÐÂY 
Nguyên tác: Wherever You Go, There You Are. 
Tác giả: Jon Kabat-Zinn - Dịch giả: Nguyễn Duy Nhiên. 
"Thiền tập áp dụng vào đời sống hằng ngày"

PHẦN HAI 
TRÁI TIM CỦA SỰ TU TẬP 

6.- XẢ THIỀN 

Những giây phút chót trong giờ ngồi thiền, cũng có những khó khăn riêng của chúng. Chánh niệm của ta có thể trở nên dễ duôi, và mong chờ cho đến hết giờ. Thái độ của ta trong lúc này rất là quan trọng. Chính những giai đoạn chuyển tiếp này là một sự thử thách cho ta, làm sao giữ cho chánh niệm được sâu sắc hơn và nới rộng được phạm vi của nó. 

Vào lúc cuối giờ ngồi thiền, nếu bạn không cẩn thận và thiếu ý thức, có thể bạn sẽ bắt qua làm chuyện khác mà không hề biết giờ thiền của mình đã chấm dứt ra sao, hoặc như thế nào? Giai đoạn chuyển tiếp ấy đối với bạn sẽ chỉ là một bóng mờ. Bạn có thể dùng ngọn đèn chánh niệm soi sáng tiến trình này, bằng cách tiếp xúc với những ý nghĩ và sự thúc đẩy là đã đến giờ xả thiền. Dù bạn đã ngồi yên một giờ đồng hồ hoặc chỉ dăm ba phút, có thể sẽ có một cảm giác thật mạnh nói với bạn rằng: "Thôi! bấy nhiêu đó đủ rồi". Hoặc là bạn hé mắt nhìn đồng hồ và thấy rằng đã đến giờ xả thiền. 

Trong giờ thiền tọa, thử xem bạn có thể ghi nhận được ý nghĩ đầu tiên thức đẩy mình đi nghĩ không. Và tiếp theo đó sẽ có nhiều ý nghĩ tương tự khởi lên, càng lúc càng mạnh mẽ hơn. Mỗi khi ghi nhận được chúng, hãy thở vài giây và tự hỏi: "Ai là người đã đủ rồi?" Hãy cố gắng nhìn sâu vào những gì nằm đằng sau những tư tưởng ấy. Có phải chúng chỉ là những mệt mỏi, buồn chán, đau đớn, bồn chồn, nóng nảy; hay thật sự là lúc ta nên đi nghỉ? Nhưng dù gì đi nữa, thay vì máy móc đứng dậy đi làm việc khác, bạn hãy quán chiếu câu hỏi ấy, và có chánh niệm về những cử động xả thiền của mình, như bất cứ một đề mục nào khác trong giờ thiền tập

Sự thực tập này còn có thể giúp ta phát huy chánh niệm trong bất cứ một hoàn cảnh nào đòi hỏi một sự hoàn tất, chấm dứt và bắt đầu khởi sự một công việc mới. Nó có thể đơn giản và ngắn ngủi như là tiếp xúc với cử động đóng cửa của mình, hoặc phức tạpđau đớn như một đoạn đời nào đó của ta vừa đi qua. Ta rất dễ đóng cửa một cách máy móc, vì hành động ấy tầm thường quá, không nghĩa lý gì so với những đại sự khác. Nhưng cũng chính vì nó tầm thường mà khi ta thực tập đóng cánh cửa trong chánh niệm, nó lại có tác dụng phát khởi và làm sâu sắc thêm sự bén nhạy, khả năng tiếp xúc với thực tại, cũng như hóa giải những thói quen vô ý thức của ta. 

Trong đời sống cũng thế, sự thất niệm cũng có thể len lỏi vào những giây phút chuyển tiếp nghiêm trọng nhất trong đời ta, như là tuổi già hoặc giờ phút hấp hối. Và trong lãnh vực này chánh niệm cũng có một năng lượng chữa trị rất lớn. Vì không dám trực diện với những cảm xúc đau đớn - cho dù đó là buồn nản, tủi hổ, thất vọng, sân hận, hoặc có thể là vui sướng, thỏa mãn - ta có thể vô tình đi lẫn trốn trong đám mây mù của sự tê lặng. Nơi đó, ta không cho phép mình được cảm giác một cái gì hết, hoặc ý thức được những gì mình đang cảm xúc. Như một vầng mây mù, thất niệm trùm phủ những giây phút quan trọng nhất, sâu sắc nhất, trong cuộc đời chúng ta. Nó che mờ hết những cơ hội có thể giúp ta thấy được sự vận hành của luật vô thường, tiếp xúc được với tự tánh vô ngã, với điều bí mật của sự nhỏ nhoi, mong manh và tạm thời của hiện hữu, cũng như giúp ta được bình thản trước những đổi thay không thể nào tránh được. 

Trong các thiền viện theo truyền thống Zen, những giờ thiền đường được chấm dứt bằng một tiếng động lớn, do hai thanh gỗ đánh mạnh vào nhau. Không có một tiếng chuông thanh nhẹ, dịu dàng báo hiệu giờ xả thiền. Thông điệp ấy ở đây là sự cắt ngang - đã đến lúc chúng ta tiếp sang việc khác. Nếu bạn đang mơ mộng gì đó khi tiếng gõ vang lên, dù một chút thôi, âm thanh ấy sẽ làm bạn giật mình và giúp bạn thấy rằng mình đã không thật sự có mặt trong giờ phút hiện tại. Nó nhắc nhở ta giờ phút ngồi thiền đã qua rồi, và bây giờ là một giây phút mới, ta phải đối diện lại từ đầu. 

Trong những truyền thống khác, một tiếng chuông êm nhẹ thường được dùng để báo hiệu vào cuối giờ hành thiền. Âm thanh trầm ấm của tiếng chuông cũng có khả năng mang ta trở về với hiện tại và nhắc nhở nếu ta đang sống trong thất niệm. Vì vậy, vào cuối giờ ngồi thiền, một âm thanh êm nhỏ cũng tốt, mạnh cũng tốt. Cái nào cũng chỉ để nhắc nhở ta phải có mặt trọn vẹn trong giây phút chuyển tiếp này, sự chấm dứt nào cũng phải là một sự bắt đầu, điều đó mới thật sự là quan trọng, như trong kinh Kim Cương có nói: "Giữ một tâm không chấp trước vào bất cứ một cái gì hết" (Tâm vô sở trụ). Và chỉ đến chừng ấy, chúng ta mới có thể thấy được chân tướng của mọi vật, và tiếp xúc với chúng bằng một cảm xúc và một tuệ giác trọn vẹn

Thị dĩ thánh nhân
Xử vô vi chi sự. 
Hành bất ngôn chi giáo, 
Vạn vật tác yên nhi bất từ. 
Lão Tử, Ðạo Ðức Kinh 

Dịch: 

Vậy nên, thánh nhân
Dùng vô vixử sự
Dùng bất ngôn mà dạy dỗ, 
Ðể cho vạn vật nên mà không cản. 

Thực tập: Hãy giữ chánh niệm, chú ý đến việc bạn chấm dứt giờ ngồi thiền của mình như thế nào. Dù trong bất cứ một tư thế nào - đi, đứng, nằm, ngồi - "Ai là người xả thiền", bằng cách nào, ra sao và vì sao? Ðừng bao giờ phán xét nó hoặc chính bạn - chỉ quan sát thôi và cố gắng tiếp xúc với sự chuyển tiếp từ việc này sang việc khác. 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 18435)
Truyền thuyết “Niêm hoa vi tiếu” không biết có từ lúc nào, chỉ thấy ghi chép thành văn vào đời Tống (960-1127) trong “Tông môn tạp lục” mục “Nhơn thiên nhãn”...
(Xem: 19917)
"Đây là con đường duy nhất để thanh lọc tâm, chấm dứt lo âu, phiền muộn, tiêu diệt thân bệnh và tâm bệnh, đạt thánh đạochứng ngộ Niết Bàn. Đó là Tứ Niệm Xứ".
(Xem: 19593)
Để diệt trừ cái khổ, người ta phải nhận ra bản chất nội tại của vấn đề khổ. Mà để được vậy, trước hết người ta phải cần có một cái tâm an tịnh...
(Xem: 33502)
Những lúc vô sự, người góp nhặt thường dạo chơi trong các vườn Thiền cổ kim đông tây. Tiêu biểu là các vườn Thiền Trung Hoa, Việt Nam, Nhật Bản và Hoa Kỳ.
(Xem: 34624)
Không thể có một bậc Giác Ngộ chứng nhập Niết Bàn mà chưa hiểu về mình và chưa thấy rõ gốc cội khổ đau của mình.
(Xem: 54613)
Muốn thực sự tiếp xúc với thực tại, cho dù đó bất cứ là gì, chúng ta phải biết cách dừng lại trong kinh nghiệm của mình, lâu đủ để nó thấm sâu vào và lắng đọng xuống...
(Xem: 37852)
Thực hành thiền trong Đạo Phật rốt ráo là để Thực Nghiệm sự thật VÔ NGÃđức Phật đã giác ngộ (khám phá). Đó cũng là để chứng thực KHÔNG TÁNH của vạn pháp.
(Xem: 21212)
Do bốn niệm xứ được tu tập, được làm cho sung mãn, thưa Hiền giả, khi Như Lai nhập Niết-bàn, Diệu pháp được tồn tại lâu dài.
(Xem: 17955)
Đức Phật khám phá ra rằng một tâm hạnh phúc nhất là tâm không bị dính mắc. Đây là một niềm hạnh phúc rất sâu sắc, khác hẳn với những gì chúng ta vẫn thường biết.
(Xem: 63778)
Đàn Kinh được các môn đệ của Huệ Năng nhìn nhận đã chứa đựng giáo lý tinh nhất của Thầy mình, và giáo lý được lưu truyền trong hàng đệ tử như là một di sản tinh thần...
(Xem: 17453)
Thiền giữ vai trò rất quan trọng trong đạo Phật. "Ngay cơ sở của Phật giáo, tất cả đều là kết quả của sự khảo sát về Thiền, và nhờ có tư duy về Thiền mà Phật giáo mới được thể nghiệm hóa...
(Xem: 49775)
Khi ta phát triển định tâm, ta sẽ có thể giữ những chướng ngại tạm thời ở một bên. Khi những chướng ngại được khắc phục, tâm ta trở nên rõ ràng trong sáng.
(Xem: 16919)
Thiền có nghĩa là tỉnh thức: thấy biết rõ ràng những gì anh đang làm, những gì anh đang suy nghĩ, những gì anh đang cảm thọ; biết rõ mà không lựa chọn...
(Xem: 16449)
Bất kì ai cũng có khả năng giác ngộ nếu có khát vọng. Khát vọng hướng về mẫu số chung “tự tri-tỉnh thức-vô ngã”, khát vọng đó là minh sư vĩ đại nhất của chính mình.
(Xem: 14526)
Thiền tông, nói mây, nói cuội, nói chuyện nghịch đời… chẳng qua đối duyên khai ngộ, để phá cho được cái dòng vọng tưởng tương tục của người, hy vọng ngay đó người nhận ra “chân”...
(Xem: 22542)
Nhờ thiền sư Munindra tận tâm hướng dẫn chu đáo từng bước một nên bà tiến bộ rất nhanh chóng. Đi từ cấp thiền cổ điển đến tiến bộ trong chánh niệm (progress insight).
(Xem: 57111)
Tập sách Thiền và Bát-nhã này là phần trích Luận Năm và Luận Sáu, trong bộ Thiền luận, tập hạ, của D. T. Suzuki. Tập này gồm các thiên luận về Hoa nghiêm và Bát-nhã.
(Xem: 13900)
Giác ngộ không phải là cầu toàn, vì càng cầu toàn con càng khổ đau thất vọng, mà là cần thấy ra bản chất bất toàn của cuộc sống. Chỉ cần vừa đủ trầm tĩnh sáng suốt...
(Xem: 29083)
Đức Phật dạy rằng hạnh phúcvấn đề thiết thực hiện tại, không phải là những ước mơ đẹp đẽ cho tương lai, hay những kỷ niệm êm đềm trong quá khứ.
(Xem: 33389)
Thầy bảo: “Chuyện vi tiếu nếu nghe mà không thấy thì cứ để vậy rồi một ngày kia sẽ thấy, tự khám phá mới hay chứ giải thích thì còn hứng thú gì.
(Xem: 38449)
Sở dĩ chúng ta mãi trôi lăn trong luân hồi sinh tử, phiền não khổ đau là vì thân tâm luôn hướng ngoại tìm cầu đối tượng của lòng tham muốn. Được thì vui mừng, thích thú...
(Xem: 31298)
Nếu không có cái ta ảo tưởng xen vào thì pháp vốn vận hành rất hoàn hảo, tự nhiên, và tánh biết cũng biết pháp một cách hoàn hảo, tự nhiên, vì đặc tánh của tâm chính là biết pháp.
(Xem: 13949)
Thực tế, thì căn bản của sự thực thiền của các hành giả chân chánh là khám phá ra những hành động nào đem lại khổ đau hoặc hạnh phúc. Sau đó, tránh các hành động gây nghiệp...
(Xem: 14665)
Thực hành phát triển Định Tuệ sẽ xa dần các tà kiến và các thiên chấp; sẽ sống với nhân cách tự-do-tinh-thần; cởi bỏ gánh nặng nô lệ thị phi, tập tục.
(Xem: 14329)
“Phản văn văn tự tánh” là “quay cái nghe nghe tự tánh”. Tự tánhthực thể đang nghe đang thấy đang biết, đồng thời đang tự biết tự thấy…
(Xem: 12702)
Hành thiền, cốt tuỷ nhất, là tự tri, là quán tâm. Học Thiền, tức học đạogiác ngộ, cốt tuỷ nhất là nương ngôn từ để thấy biết trạng thái tâm trí.
(Xem: 14879)
Tôi có một số kinh nghiệm vững chắc về định, tĩnh, và quán tưởng. Điều đó thúc đẩy tôi đến với Thiền Minh Sát. Các tu sĩ ở đây khuyến khích tôi xuất gia.
(Xem: 19245)
Nếu thấy tất cả con người, muôn vật đều hư giả, tạm bợ thì không còn tham sân nữa. Mình không thật, có ai chửi mình cũng không giận. Cái tôi không thật, lời chửi thật được sao...
(Xem: 13862)
Trong Phật giáo có những phương pháp dùng để thực hành Thiền từ bi. Các thiền giả nhằm khích động lòng từ bi đối với tất cả chúng sinh...
(Xem: 12707)
Thế giới, với người ngộ đạo, đã được lộn trái trở lại: sanh tử lộn ngược thành Niết Bàn. Đời sốngý nghĩakhông tịch. Đời sống là sự biểu hiện của tính sáng.
(Xem: 30480)
Thiền Quán là tri nhận Giác Thức thành Giác Trí. Giác Thức và Giác Trí được quán tưởng theo thời gian. Khi Tưởng Tri thì Thức và Trí luôn nối tiếp nhau làm cho ta có tư tưởng...
(Xem: 11885)
Cuộc cách mạng thực tập Thiền Chánh Niệm bắt đầu bằng một động tác giản dị là chú ý đến hơi thở, cảm thọ trong thân và tâm, nhưng rõ ràng là có thể đi rất xa.
(Xem: 30773)
Sự giác ngộ đem lại lợi ích thực sự ngay trong kiếp sống này. Khi đề cập đến Pháp hành ta nhất thiết phải tìm hiểu qui trình tu tập hợp lý và hợp với giáo huấn của Đức Phật.
(Xem: 29469)
“Chẳng có ai cả” là một tuyển tập những lời dạy ngắn gọn, cô đọng và thâm sâu nhất của Ajahn Chah, vị thiền sư lỗi lạc nhất thế kỷ của Thái Lan về pháp môn Thiền Minh Sát.
(Xem: 30684)
Thiện tri thức! Tâm lượng quảng đại, biến mãn khắp pháp giới, về dụng thì mỗi mỗi phân minh, ứng dụng ra thì biết được tất cả là một, một là tất cả... Thích Nữ Trí Hải dịch
(Xem: 31314)
Bên ngoài xa lìa các tướng gọi là “thiền”, bên trong không loạn gọi là “định”. Bên ngoài nếu như tuy có tướng, song bên trong bổn tính vẫn không loạn, thì đó là cái tự tịnh tự định bổn nguyên.
(Xem: 37196)
Thiện tri thức, khi chưa ngộ thì Phật tức chúng sanh, lúc một niệm khai ngộ, chúng sanh tức Phật. Nên biết vạn pháp đều ở nơi tự tâm...
(Xem: 32337)
Này chư Thiện tri thức, cái trí Bồ Đề Bát Nhã, người thế gian vốn tự có, nhưng bởi tâm mê, nên chẳng tự ngộ được... Minh Trực Thiền Sư Việt dịch
(Xem: 23753)
Quyển "THIỀN QUÁN - Tiếng Chuông Vượt Thời Gian" là một chuyên đề đặc biệt giới thiệu về truyền thống tu tập thiền Tứ Niệm Xứ của đức Phật dưới sự hướng dẫn của thiền sư U Ba Khin.
(Xem: 12262)
Thực tập chánh niệm có thể ảnh hưởng tích cực đến nhiều hoạt động của hạch hạnh nhân, khu vực có kích thước bằng hạt đậu nằm ở trung tâm não bộ...
(Xem: 14255)
Thiền Tiệm Ngộpháp hành từ tập trung trí và thức gom vào một đề mục duy nhất, hoặc dùng một đối tượng đặt ra do tư tưởng định trước.
(Xem: 14119)
Khi chấp nhận thực hành thiền, chúng ta phải có niềm tin sâu sắc vào khả năng của tâm chúng ta ngay từ lúc khởi đầu, và phải duy trì niềm tin ấy...
(Xem: 34042)
Nếu tâm chúng ta dịu dàng, nhân ái, hiểu biết, và có sự đồng cảm đối với tha nhân, chúng ta sẽ tu tập tâm từ đến người khác không mấy khó khăn.
(Xem: 27796)
Đức Phật bảo rằng cần có mười lăm đức tính để tự hoàn thiện, để có thể sinh lòng từ bi đối với mọi người quanh ta hay rộng hơn cho đến tất cả nhân loại...
(Xem: 12496)
Không biết tự bao giờ, Trà trở thành thân quen trong nếp sống Thiền gia Phật Giáo Bắc Truyền, rồi trà thành một phần văn hóa của Phật Giáo...
(Xem: 28709)
Sách này đặt tên "Kiến Tánh Thành Phật", nghĩa là sao? Bởi muốn cho người ngưỡng mộ tên này, cần nhận được lý thật của nó. Như kinh nói: "Vì muốn cho chúng sanh khai, thị, ngộ, nhập tri kiến Phật".
(Xem: 29444)
Những bài kinh Phật không có bài nào là không hay. Có miệt mài trên những trang kinh xưa mới cảm được sự vang động của suối nguồn trí tuệ.
(Xem: 12470)
Vị trí cực kỳ quan trọng của Lục Tổ Huệ Năng đối với sự hình thành và phát triển của Thiền tông Trung Quốc đã khiến các đệ tử Phật môn luôn nhắc về ông...
(Xem: 29297)
Trong sách này Ngài Sayadaw diễn tả đầy đủ phương pháp quán niệmgiải thích với đầy đủ chi tiết đường lối suy tư về lý vô ngã có thể dẫn đến mức độ thành tựu Niết Bàn.
(Xem: 28110)
Vào năm 1986-1987 Hòa Thượng giảng Kinh Nguyên Thủy; đối chiếu Kinh Pali (dịch ra Việt Ngữ) và A Hàm tại Thường Chiếu giúp cho Thiền sinh thấy rõ nguồn mạch Phật Pháp từ Nguyên Thủy đến Đại ThừaThiền Tông.
(Xem: 25746)
Con đường thiền tậpchánh niệm tỉnh giác, chứng nghiệm vào thực tại sống động. Khi tâm an định, hành giả có sự trầm tĩnh sáng suốt thích nghi với mọi hoàn cảnh thuận nghịch...
(Xem: 26104)
Cuốn Ba Thiền Sư ghi lại cuộc đời của Ikkyu Sojun (1394-1481), Hakuin Ekaku (1686-1768), và Ryokan Taigu (1758-1831). Mỗi vị Sư đều hiển lộ Thiền Tông trong cách riêng.
(Xem: 22332)
Với người đã mở mắt đạo thì ngay nơi “sắc” hiện tiền đó mà thấy suốt không chướng ngại, không ngăn che, nên mặc dù Sắc có đó vẫn như không, không một chút dấu vết mê mờ...
(Xem: 33216)
Thiền Tông nhấn mạnh vào mặt kinh nghiệm cá nhân, nhắm đưa từng con người chúng ta giáp mặt trực tiếp với chân lý trong ngay chính hoàn cảnh hiện tiền của chúng ta.
(Xem: 31869)
Các pháp thế gian đều kỵ chấp trước, chỗ qui kính của Thích tử không ai bằng Phật mà có khi vẫn phải quở. Bởi có ta mà không kia, do ta mà không do kia vậy.
(Xem: 39660)
Quả thật, chân lý thiền vốn ở ngay nơi người, ngay trong tự tâm chúng ta đây thôi. Vậy ai có tâm thì chắc chắc có thiền, không nghi ngờ gì nữa.
(Xem: 22523)
Bắt đầu bằng cách bỏ qua một bên tất cả những mối quan tâm ở bên ngoài, và quay vào quán sát nội tâm cho đến khi ta biết tâm trong sáng hay ô nhiễm, yên tĩnh hay tán loạn như thế nào.
(Xem: 34557)
Đây là phần thứ 2 trong 3 phần chính của cuốn Zen no Rekishi (Lịch Sử Thiền) do giáo sư Ibuki Atsushi soạn, xuất bản lần đầu tiên năm 2001 tại Tôkyô.
(Xem: 27414)
Thật ra chân lý nó không nằm ở bên đúng hay bên sai, mà nó vượt lên trên tất cả đối đãi, chấp trước về hiện hữu của Nhị Nguyên. Chân lý là điểm đến, còn hướng đến chân lý có nhiều con đường dẫn đến khác nhau.
(Xem: 28465)
Trong tiếng Phạn (Sanskrit), từ "Thiền" có ngữ nguyên là dhyâna. Người Trung Hoa đã dịch theo âm thành "Thiền na". Ý nghĩa "trầm tư mặc tưởng" của nó từ xưa trong sách vở Phật giáo lại được biểu âm bằng hai chữ yoga (du già).
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant