Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

22. Đức rộng lượng

03 Tháng Hai 201200:00(Xem: 21001)
22. Đức rộng lượng
NƠI ẤY LÀ BÂY GIỜ VÀ Ở ÐÂY 
Nguyên tác: Wherever You Go, There You Are. 
Tác giả: Jon Kabat-Zinn - Dịch giả: Nguyễn Duy Nhiên. 
"Thiền tập áp dụng vào đời sống hằng ngày"

PHẦN MỘT 
SỰ NHIỆM MẦU CỦA GIÂY PHÚT HIỆN TẠI 

22.- ÐỨC RỘNG LƯỢNG 

Ðức rộng lượng cũng như những đức tính khác, như là kiên nhẫn, buông bỏ, không phê phán và tin tưởng, nó cung cấp một nền tảng vững chắc cho sự tu tập chánh niệm của ta. Chúng ta có thể kinh nghiệm đức rộng lượng như là một phương tiện tự quán chiếu sâu sắc hoặc là một bài tập bố thí. Và bài tập về đức rộng lượng ấy, chúng ta nên bắt đầu từ chính ta. Thỉnh thoảng, bạn có thể tự tặng cho mình những món quà thật sự là quý báu, như là một thái độ tự chấp nhận, hoặc là một ngày không cần có chương trìnhmục đích. Bạn cũng nên tập cảm thấy mình xứng đáng nhận lãnh những món quà ấy - chỉ cần giản dị tiếp nhận tự chính ta, và từ vũ trụ. 

Bạn có thể tiếp xúc được với bản chất của con người mình không, nơi ấy giàu cóphong phú hơn tất cả những gì bạn có thể tìm kiếm được! Hãy để nơi ấy tỏa chiếu năng lượng của nó ra bên ngoài, tràn ngập thân thể ta, và tỏa phát ra chung quanh ta. Bạn hãy thí nghiệm sự ban phát năng lượng này - ban đầu một chút thôi - hướng nó về chính mình và cho những người khác mà không cần mong cầu được lại một cái gì hết. Hãy cho nhiều hơn là bạn nghĩ mình có thể, và tin rằng ta giàu có hơn là mình tưởng. Ăn mừng sự giàu có này của ta, hãy ban cho như là ta có một kho tàng vô tận. Ðó chính là con đường "bố thí theo vương đạo" trong nhà Phật. 

Tôi không phải chỉ nói về vấn đề tiền bạc hay của cải, mặc dù sự chia xẻ giàu có vật chất cũng rất lợi ích, có thể làm tăng trưởng, nâng cao tâm hồn ta rất nhiều. Nhưng điều tôi muốn nói là ta nên thực tập chia xẻ sự toàn vẹn của con người mình, một cái tôi tốt đẹp nhất, nhiệt tình của ta, sức sống của ta, tâm hồn ta, niềm tin tưởng, sự cởi mở và trên hết tất cả, là sự có mặt của ta. Hãy chia xẻ nó với chính ta, với gia đình ta, và thế giới chung quanh ta. 

Thực tập: Hãy ghi nhận sự thúc đẩy lại ý muốn bố thí, những lo âu về tương lai, cảm tưởng rằng có lẽ ta đã cho quá nhiều, không được ai tán thưởng, hoặc giả ta sẽ bị đuối sức, không được lợi lộc gì hết, hay là mình sẽ không còn lại một cái gì. Bạn hãy xét lại những lo nghĩ ấy, vì rất có thể chúng không thực chút nào hết. Chúng có thể chỉ là những hình tướng của một sự lười biếng, nhỏ nhen hoặc ích kỷ, bắt nguồn từ một sự sợ hãi. Cái ý nghĩcảm giác này là những góc cạnh của thô thiển, gồ ghề của tính tự lợi. Chúng va chạm với thế giới chung quanh và thường đem lại khổ đau cho ta cũng như cho kẻ khác, một cảm giác ngăn cách, cô lập và suy tổn. Ðức bố thí sẽ dùi mài và làm phẳng láng những góc cạnh còn thô ấy và giúp ta trở nên có ý thức hơn về sự giàu có trong nội tâm của mình. Bằng sự thực tập chánh niệm về đức rộng lượng, bằng sự bố thíquan sát ảnh hưởng của chúng trên chính ta và kẻ khác, ta sẽ bắt đầu tự chuyển hóa, tự thanh lọc và khám phá được một con người mới của ta rộng lớn hơn. 

Có thể bạn phản đối rằng, bạn không còn đủ năng lượng hoặc nhiệt tình để ban bố bất cứ một cái gì hết, rằng bạn đã quá mệt mỏi và nghèo túng lắm rồi. Hoặc có thể bạn cảm thấy cả đời mình chỉ có ban choban cho, mà không ai biết ơn hay để ý gì đến cả. Cũng có thể bạn xử dụng sự bố thí như là một phương tiện để đi trốn tránh một nỗi đau và sự sợ hãi, hay vì muốn kẻ khác ưa thích và chịu lệ thuộc vào mình. Bạn nên chú tâmquán chiếu những loại bố thí ấy cho thật cẩn thận. Vì bố thí mà thiếu chánh niệm sẽ không bao giờ lành mạnh, hoặc rộng lượng. Ðiều quan trọng là bạn phải hiểu được động cơ thúc đẩy mình bố thí, và ý thức được khi nào sự bố thí của mình bắt nguồn từ sự sợ hãi và thiếu tự tin, thay vì từ một lòng độ lượng

Trong sự thực tập bố thí với chánh niệm, ta không cần thiết phải cho tất cả những gì mình có, mà thật ra ta không cần phải cho bất cứ một cái gì hết. Và trên hết, đức rộng lượng là một sự bố thí trong nội tâm, một sự cảm biết, một ý muốn chia xẻ con người và sự sống của chính ta với thế giới chung quanh. Ðiều quan trọng nhất là bạn phải biết tin tưởngtôn trọng trực giác của mình, nhưng cùng một lúc, bao giờ cũng dám mạo hiểm, dám liều lĩnh để thử nghiệm. Có thể là bạn cần nên bớt ban cho lại một chút, hoặc tin nơi trực giác của mình về những sự lạm dụng hay những động cơ thúc đẩy mờ ám. Cũng có thể bạn cần phải biết cho nhiều hơn nữa, nhưng bằng một lối khác, hoặc cho những hạng người khác. Và cũng rất có thể, bạn cần phải biết bố thí cho chính mình trong một thời gian trước đã. Rồi sau đó bạn mới tập bố thí cho người khác, một chút xíu nhiều hơn là bạn nghĩ bạn có thể, ghi nhận trong chánh niệmbuông bỏ hết bất cứ một ý nghĩ hoặc mong cầu nào về sự trả ơn

Hãy tự động bố thí. Bạn không cần phải chờ người khác hỏi. Thử xem việc gì sẽ xảy ra - nhất là cho bạn. Có thể bạn sẽ khám phá ra rằng, bạn đạt được một cái nhìn sáng tỏ hơn về mình và về những mối tương quan của mình, cũng như bạn sẽ có nhiều năng lượng hơn, thay vì bị giảm bớt đi. Cũng có thể bạn sẽ cảm thấy thay vì trở nên đuối sức hoặc nghèo túng, bạn lại được nuôi dưỡnggiàu có thêm lên. Vì đó là năng lực của sự bố thí vị tha trong chánh niệm. Bạn nên nhớ rằng, ở một bình diện thâm sâu nhất, thật ra không hề có người cho, không có người nhận và cũng không có quà tặng... tất cả chỉ là một vũ trụ này, và nó tự sắp xếp lại mà thôi. 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 18435)
Truyền thuyết “Niêm hoa vi tiếu” không biết có từ lúc nào, chỉ thấy ghi chép thành văn vào đời Tống (960-1127) trong “Tông môn tạp lục” mục “Nhơn thiên nhãn”...
(Xem: 19917)
"Đây là con đường duy nhất để thanh lọc tâm, chấm dứt lo âu, phiền muộn, tiêu diệt thân bệnh và tâm bệnh, đạt thánh đạochứng ngộ Niết Bàn. Đó là Tứ Niệm Xứ".
(Xem: 19593)
Để diệt trừ cái khổ, người ta phải nhận ra bản chất nội tại của vấn đề khổ. Mà để được vậy, trước hết người ta phải cần có một cái tâm an tịnh...
(Xem: 33501)
Những lúc vô sự, người góp nhặt thường dạo chơi trong các vườn Thiền cổ kim đông tây. Tiêu biểu là các vườn Thiền Trung Hoa, Việt Nam, Nhật Bản và Hoa Kỳ.
(Xem: 34624)
Không thể có một bậc Giác Ngộ chứng nhập Niết Bàn mà chưa hiểu về mình và chưa thấy rõ gốc cội khổ đau của mình.
(Xem: 54613)
Muốn thực sự tiếp xúc với thực tại, cho dù đó bất cứ là gì, chúng ta phải biết cách dừng lại trong kinh nghiệm của mình, lâu đủ để nó thấm sâu vào và lắng đọng xuống...
(Xem: 37852)
Thực hành thiền trong Đạo Phật rốt ráo là để Thực Nghiệm sự thật VÔ NGÃđức Phật đã giác ngộ (khám phá). Đó cũng là để chứng thực KHÔNG TÁNH của vạn pháp.
(Xem: 21212)
Do bốn niệm xứ được tu tập, được làm cho sung mãn, thưa Hiền giả, khi Như Lai nhập Niết-bàn, Diệu pháp được tồn tại lâu dài.
(Xem: 17955)
Đức Phật khám phá ra rằng một tâm hạnh phúc nhất là tâm không bị dính mắc. Đây là một niềm hạnh phúc rất sâu sắc, khác hẳn với những gì chúng ta vẫn thường biết.
(Xem: 63778)
Đàn Kinh được các môn đệ của Huệ Năng nhìn nhận đã chứa đựng giáo lý tinh nhất của Thầy mình, và giáo lý được lưu truyền trong hàng đệ tử như là một di sản tinh thần...
(Xem: 17452)
Thiền giữ vai trò rất quan trọng trong đạo Phật. "Ngay cơ sở của Phật giáo, tất cả đều là kết quả của sự khảo sát về Thiền, và nhờ có tư duy về Thiền mà Phật giáo mới được thể nghiệm hóa...
(Xem: 49775)
Khi ta phát triển định tâm, ta sẽ có thể giữ những chướng ngại tạm thời ở một bên. Khi những chướng ngại được khắc phục, tâm ta trở nên rõ ràng trong sáng.
(Xem: 16918)
Thiền có nghĩa là tỉnh thức: thấy biết rõ ràng những gì anh đang làm, những gì anh đang suy nghĩ, những gì anh đang cảm thọ; biết rõ mà không lựa chọn...
(Xem: 16449)
Bất kì ai cũng có khả năng giác ngộ nếu có khát vọng. Khát vọng hướng về mẫu số chung “tự tri-tỉnh thức-vô ngã”, khát vọng đó là minh sư vĩ đại nhất của chính mình.
(Xem: 14526)
Thiền tông, nói mây, nói cuội, nói chuyện nghịch đời… chẳng qua đối duyên khai ngộ, để phá cho được cái dòng vọng tưởng tương tục của người, hy vọng ngay đó người nhận ra “chân”...
(Xem: 22542)
Nhờ thiền sư Munindra tận tâm hướng dẫn chu đáo từng bước một nên bà tiến bộ rất nhanh chóng. Đi từ cấp thiền cổ điển đến tiến bộ trong chánh niệm (progress insight).
(Xem: 57108)
Tập sách Thiền và Bát-nhã này là phần trích Luận Năm và Luận Sáu, trong bộ Thiền luận, tập hạ, của D. T. Suzuki. Tập này gồm các thiên luận về Hoa nghiêm và Bát-nhã.
(Xem: 13900)
Giác ngộ không phải là cầu toàn, vì càng cầu toàn con càng khổ đau thất vọng, mà là cần thấy ra bản chất bất toàn của cuộc sống. Chỉ cần vừa đủ trầm tĩnh sáng suốt...
(Xem: 29083)
Đức Phật dạy rằng hạnh phúcvấn đề thiết thực hiện tại, không phải là những ước mơ đẹp đẽ cho tương lai, hay những kỷ niệm êm đềm trong quá khứ.
(Xem: 33389)
Thầy bảo: “Chuyện vi tiếu nếu nghe mà không thấy thì cứ để vậy rồi một ngày kia sẽ thấy, tự khám phá mới hay chứ giải thích thì còn hứng thú gì.
(Xem: 38449)
Sở dĩ chúng ta mãi trôi lăn trong luân hồi sinh tử, phiền não khổ đau là vì thân tâm luôn hướng ngoại tìm cầu đối tượng của lòng tham muốn. Được thì vui mừng, thích thú...
(Xem: 31297)
Nếu không có cái ta ảo tưởng xen vào thì pháp vốn vận hành rất hoàn hảo, tự nhiên, và tánh biết cũng biết pháp một cách hoàn hảo, tự nhiên, vì đặc tánh của tâm chính là biết pháp.
(Xem: 13949)
Thực tế, thì căn bản của sự thực thiền của các hành giả chân chánh là khám phá ra những hành động nào đem lại khổ đau hoặc hạnh phúc. Sau đó, tránh các hành động gây nghiệp...
(Xem: 14665)
Thực hành phát triển Định Tuệ sẽ xa dần các tà kiến và các thiên chấp; sẽ sống với nhân cách tự-do-tinh-thần; cởi bỏ gánh nặng nô lệ thị phi, tập tục.
(Xem: 14329)
“Phản văn văn tự tánh” là “quay cái nghe nghe tự tánh”. Tự tánhthực thể đang nghe đang thấy đang biết, đồng thời đang tự biết tự thấy…
(Xem: 12702)
Hành thiền, cốt tuỷ nhất, là tự tri, là quán tâm. Học Thiền, tức học đạogiác ngộ, cốt tuỷ nhất là nương ngôn từ để thấy biết trạng thái tâm trí.
(Xem: 14879)
Tôi có một số kinh nghiệm vững chắc về định, tĩnh, và quán tưởng. Điều đó thúc đẩy tôi đến với Thiền Minh Sát. Các tu sĩ ở đây khuyến khích tôi xuất gia.
(Xem: 19245)
Nếu thấy tất cả con người, muôn vật đều hư giả, tạm bợ thì không còn tham sân nữa. Mình không thật, có ai chửi mình cũng không giận. Cái tôi không thật, lời chửi thật được sao...
(Xem: 13862)
Trong Phật giáo có những phương pháp dùng để thực hành Thiền từ bi. Các thiền giả nhằm khích động lòng từ bi đối với tất cả chúng sinh...
(Xem: 12707)
Thế giới, với người ngộ đạo, đã được lộn trái trở lại: sanh tử lộn ngược thành Niết Bàn. Đời sốngý nghĩakhông tịch. Đời sống là sự biểu hiện của tính sáng.
(Xem: 30479)
Thiền Quán là tri nhận Giác Thức thành Giác Trí. Giác Thức và Giác Trí được quán tưởng theo thời gian. Khi Tưởng Tri thì Thức và Trí luôn nối tiếp nhau làm cho ta có tư tưởng...
(Xem: 11885)
Cuộc cách mạng thực tập Thiền Chánh Niệm bắt đầu bằng một động tác giản dị là chú ý đến hơi thở, cảm thọ trong thân và tâm, nhưng rõ ràng là có thể đi rất xa.
(Xem: 30772)
Sự giác ngộ đem lại lợi ích thực sự ngay trong kiếp sống này. Khi đề cập đến Pháp hành ta nhất thiết phải tìm hiểu qui trình tu tập hợp lý và hợp với giáo huấn của Đức Phật.
(Xem: 29469)
“Chẳng có ai cả” là một tuyển tập những lời dạy ngắn gọn, cô đọng và thâm sâu nhất của Ajahn Chah, vị thiền sư lỗi lạc nhất thế kỷ của Thái Lan về pháp môn Thiền Minh Sát.
(Xem: 30683)
Thiện tri thức! Tâm lượng quảng đại, biến mãn khắp pháp giới, về dụng thì mỗi mỗi phân minh, ứng dụng ra thì biết được tất cả là một, một là tất cả... Thích Nữ Trí Hải dịch
(Xem: 31312)
Bên ngoài xa lìa các tướng gọi là “thiền”, bên trong không loạn gọi là “định”. Bên ngoài nếu như tuy có tướng, song bên trong bổn tính vẫn không loạn, thì đó là cái tự tịnh tự định bổn nguyên.
(Xem: 37195)
Thiện tri thức, khi chưa ngộ thì Phật tức chúng sanh, lúc một niệm khai ngộ, chúng sanh tức Phật. Nên biết vạn pháp đều ở nơi tự tâm...
(Xem: 32337)
Này chư Thiện tri thức, cái trí Bồ Đề Bát Nhã, người thế gian vốn tự có, nhưng bởi tâm mê, nên chẳng tự ngộ được... Minh Trực Thiền Sư Việt dịch
(Xem: 23753)
Quyển "THIỀN QUÁN - Tiếng Chuông Vượt Thời Gian" là một chuyên đề đặc biệt giới thiệu về truyền thống tu tập thiền Tứ Niệm Xứ của đức Phật dưới sự hướng dẫn của thiền sư U Ba Khin.
(Xem: 12262)
Thực tập chánh niệm có thể ảnh hưởng tích cực đến nhiều hoạt động của hạch hạnh nhân, khu vực có kích thước bằng hạt đậu nằm ở trung tâm não bộ...
(Xem: 14255)
Thiền Tiệm Ngộpháp hành từ tập trung trí và thức gom vào một đề mục duy nhất, hoặc dùng một đối tượng đặt ra do tư tưởng định trước.
(Xem: 14119)
Khi chấp nhận thực hành thiền, chúng ta phải có niềm tin sâu sắc vào khả năng của tâm chúng ta ngay từ lúc khởi đầu, và phải duy trì niềm tin ấy...
(Xem: 34042)
Nếu tâm chúng ta dịu dàng, nhân ái, hiểu biết, và có sự đồng cảm đối với tha nhân, chúng ta sẽ tu tập tâm từ đến người khác không mấy khó khăn.
(Xem: 27795)
Đức Phật bảo rằng cần có mười lăm đức tính để tự hoàn thiện, để có thể sinh lòng từ bi đối với mọi người quanh ta hay rộng hơn cho đến tất cả nhân loại...
(Xem: 12496)
Không biết tự bao giờ, Trà trở thành thân quen trong nếp sống Thiền gia Phật Giáo Bắc Truyền, rồi trà thành một phần văn hóa của Phật Giáo...
(Xem: 28709)
Sách này đặt tên "Kiến Tánh Thành Phật", nghĩa là sao? Bởi muốn cho người ngưỡng mộ tên này, cần nhận được lý thật của nó. Như kinh nói: "Vì muốn cho chúng sanh khai, thị, ngộ, nhập tri kiến Phật".
(Xem: 29443)
Những bài kinh Phật không có bài nào là không hay. Có miệt mài trên những trang kinh xưa mới cảm được sự vang động của suối nguồn trí tuệ.
(Xem: 12469)
Vị trí cực kỳ quan trọng của Lục Tổ Huệ Năng đối với sự hình thành và phát triển của Thiền tông Trung Quốc đã khiến các đệ tử Phật môn luôn nhắc về ông...
(Xem: 29296)
Trong sách này Ngài Sayadaw diễn tả đầy đủ phương pháp quán niệmgiải thích với đầy đủ chi tiết đường lối suy tư về lý vô ngã có thể dẫn đến mức độ thành tựu Niết Bàn.
(Xem: 28110)
Vào năm 1986-1987 Hòa Thượng giảng Kinh Nguyên Thủy; đối chiếu Kinh Pali (dịch ra Việt Ngữ) và A Hàm tại Thường Chiếu giúp cho Thiền sinh thấy rõ nguồn mạch Phật Pháp từ Nguyên Thủy đến Đại ThừaThiền Tông.
(Xem: 25746)
Con đường thiền tậpchánh niệm tỉnh giác, chứng nghiệm vào thực tại sống động. Khi tâm an định, hành giả có sự trầm tĩnh sáng suốt thích nghi với mọi hoàn cảnh thuận nghịch...
(Xem: 26104)
Cuốn Ba Thiền Sư ghi lại cuộc đời của Ikkyu Sojun (1394-1481), Hakuin Ekaku (1686-1768), và Ryokan Taigu (1758-1831). Mỗi vị Sư đều hiển lộ Thiền Tông trong cách riêng.
(Xem: 22332)
Với người đã mở mắt đạo thì ngay nơi “sắc” hiện tiền đó mà thấy suốt không chướng ngại, không ngăn che, nên mặc dù Sắc có đó vẫn như không, không một chút dấu vết mê mờ...
(Xem: 33216)
Thiền Tông nhấn mạnh vào mặt kinh nghiệm cá nhân, nhắm đưa từng con người chúng ta giáp mặt trực tiếp với chân lý trong ngay chính hoàn cảnh hiện tiền của chúng ta.
(Xem: 31869)
Các pháp thế gian đều kỵ chấp trước, chỗ qui kính của Thích tử không ai bằng Phật mà có khi vẫn phải quở. Bởi có ta mà không kia, do ta mà không do kia vậy.
(Xem: 39660)
Quả thật, chân lý thiền vốn ở ngay nơi người, ngay trong tự tâm chúng ta đây thôi. Vậy ai có tâm thì chắc chắc có thiền, không nghi ngờ gì nữa.
(Xem: 22522)
Bắt đầu bằng cách bỏ qua một bên tất cả những mối quan tâm ở bên ngoài, và quay vào quán sát nội tâm cho đến khi ta biết tâm trong sáng hay ô nhiễm, yên tĩnh hay tán loạn như thế nào.
(Xem: 34557)
Đây là phần thứ 2 trong 3 phần chính của cuốn Zen no Rekishi (Lịch Sử Thiền) do giáo sư Ibuki Atsushi soạn, xuất bản lần đầu tiên năm 2001 tại Tôkyô.
(Xem: 27413)
Thật ra chân lý nó không nằm ở bên đúng hay bên sai, mà nó vượt lên trên tất cả đối đãi, chấp trước về hiện hữu của Nhị Nguyên. Chân lý là điểm đến, còn hướng đến chân lý có nhiều con đường dẫn đến khác nhau.
(Xem: 28464)
Trong tiếng Phạn (Sanskrit), từ "Thiền" có ngữ nguyên là dhyâna. Người Trung Hoa đã dịch theo âm thành "Thiền na". Ý nghĩa "trầm tư mặc tưởng" của nó từ xưa trong sách vở Phật giáo lại được biểu âm bằng hai chữ yoga (du già).
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant