Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

28. Con đường tu tập

03 Tháng Hai 201200:00(Xem: 20284)
28. Con đường tu tập
NƠI ẤY LÀ BÂY GIỜ VÀ Ở ÐÂY 
Nguyên tác: Wherever You Go, There You Are. 
Tác giả: Jon Kabat-Zinn - Dịch giả: Nguyễn Duy Nhiên. 
"Thiền tập áp dụng vào đời sống hằng ngày"

PHẦN MỘT 
SỰ NHIỆM MẦU CỦA GIÂY PHÚT HIỆN TẠI 

28.- CON ÐƯỜNG TU TẬP 

Trên con đường mà ta gọi là cuộc đời
Tôi chợt thấy mình lạc lõng giữa rừng sâu, 
Không tìm được một lối ra. 
Dante Alighieri 
Divine Comedy, "Inferno" 

Trong hầu hết mọi truyền thống văn hóa, người ta thường dùng hình ảnh hành trình để làm một ẩn dụ biểu tượng cho cuộc đời và việc đi tìm một ý nghĩa. Ở phương Ðông, ta dùng chữ Ðạo có nghĩa là con đường, để nói lên ý nghĩa này. Trong Phật giáo, thiền tập thường đường nhắc đến như là một con đường - một trong tám chi phần của Bát chánh đạo, như là chánh niệm, chánh kiến, chánh định. Ðạo và Dharma cũng có nghĩa là thực tại của sự sống, định luật chi phối tất cả những gì hiện hữu cũng như những gì bất hiện hữu. Tất cả mọi sự kiện trên đời này, dù bề ngoài đối với ta có là tốt hay xấu, trên cơ bản đều hợp với đạo. Bổn phận của ta là làm sao nhận thức được nền tảng của sự hòa hợp này, và sống cũng như hành động cho phù hợp với nó. Tuy vậy, nhiều khi ta không hề biết được con đường nào đúng. Trong cuộc sống, có một khoảng trống rất lớn dành cho sự tự do chọn lựa và hành động theo nguyên tắc của ta, cũng như cho những sự căng thẳng và bất đồng ý kiến, đó là chưa nói đến đôi khi ta cảm thấy hoàn toàn lạc lối

Khi thực hành thiền tập, ta thành thật thừa nhận rằng trong lúc này mình đang đi trên con đường của sự sống. Con đường ấy đang trải rộng ra ngay trong giờ phút này và trong bất cứ một giây phút nào ta đang thật sự sống. Thiền tập đúng ra là một con đường, hơn là một phương pháp. Một con đường của hiện thực, con đường của sự sống, con đường của sự lắng nghe, con đường dẫn đến một lối sốnghiện hữu hài hòa với một thực tại. Nó cũng có nghĩa là chúng ta đôi khi công nhận, thường thường vào những giờ phút nghiêm trọng nhất, rằng mình thật sự không biết là đang đi về đâu, hoặc con đường ấy đang nằm ở một nơi nào. Nhưng cùng lúc đó, ta bao giờ cũng ý thức được tình trạng của mình trong giờ phút hiện tại, mặc dù đó có thể biết rằng ta đang lạc lõng, bối rốivô vọng. Trong cuộc sống, chúng ta nhiều khi bị mắc bẫy và tưởng rằng biết mình đang đi đâu, nhất là những khi ta đang bị thúc đẩy bởi một tham vọng cá nhân, hoặc mong muốn một việc gì quá mức. Khi chúng ta đang ôm ấp một hoạch định riêng tư nào đó, nó thường làm cho ta mù quáng, ngĩ rằng mình biết hết, mặc dù ta không thật sự biết như là mình nghĩ. 

"Dòng nước của sự sống", một câu chuyện cổ tích Tây phương nói về ba anh em nhà nọ, đều là những vị hoàng tử. Hai người anh thì tham lamích kỷ. Người em út thì rất tốt và biết thương người. Vua cha lúc ấy đang đau nặng. Một hôm có một ông lão bí mật xuất hiện nơi vườn thượng uyển, thấy mọi ngườivẻ mặt ưu sầu, ông hỏi thăm sự tình. Sau khi nghe kể về căn bệnh của vua, ông bảo họ rằng, liều thuốc chữa bệnh cho vua hiện đang nằm nơi dòng nước của sự sống: "Nếu hoàng thượng uống nước này, ngài sẽ phục hồi sức khỏe, nhưng khó ai có thể tìm được dòng nước ấy". 

Nghe vậy, người anh cả xin phép được đi tìm dòng nước của sự sống cho phụ hoàng, trong tâm anh thầm mong rằng nếu thành công thì ngôi báu chắc chắn sẽ thuộc về mình. Người anh cả phi ngựa ra khỏi thành, đi vừa được một đoạn, anh gặp một người lùn đứng bên đường, chặn lại và hỏi anh vội vã đi đâu. Không đếm xỉa gì đến lời thăm hỏi của người lùn, anh hét lớn, chửi mắng và quát bảo ông tránh qua một bên. Người anh cả tự cho là mình biết là mình đang đi đâu, chỉ vì anh nghĩ rằng mình biết cái gì mình đang tìm kiếm. Nhưng thực tế không bao giờ là vậy. Người anh cả đã không làm chủ được tánh ngạo mạn của mình, cũng như vì ngu muội không thấy được nhiều ngỏ lối khác nhau của sự sống đang mở ra trước mắt anh. 

Lẽ dĩ nhiên, người lùn trong những huyền thoại không phải là một nhân vật xa lạ nào bên ngoài ta, mà đó là biểu tượng cho một quyền lực nội tại thâm sâu trong ta. Ở đây người anh cả ích kỷ đã không có khả năng tiếp xúc được với những năng lực ấy trong tâm, cũng như cảm nhận được tình thươngtuệ giác tiềm ẩn trong anh. Vì sự kiêu ngạo ấy, người lùn đã sắp đặt cho anh đi theo một con đường, dẫn vào một khe núi nhỏ hẹp và cuối cùng anh không thể nào quay lui trở lại được; nói một cách khác anh bị mắt kẹt. Và người anh cả kẹt bị cứng nơi này trong khi câu chuyện tiếp tục

Chờ đợi mãi không thấy người anh cả trở về, người anh thứ hai xin phép được lên đường. Người cũng gặp người lùn, cũng đối xử với ông ta cùng một thái độ ấy, và cuối cùng lại cũng bị mắc kẹt như người anh cả. Hai người anh trong câu chuyện tượng trưng cho những khía cạnh khác nhau của cùng một con người, vì vậy ta có thể nói rằng, có những kẻ không bao giờ chịu học bài học của mình. 

Vẫn không nghe tin tức của hai người anh, cuối cùng người em út xin phép lên đường đi tìm nước của sự sống cho phụ hoàng. Vừa ra khỏi thành, anh cũng gặp người lùn hỏi anh đang vội vã đi đâu. Khác với hai người anh, người em út dừng lại, xuống ngựa và kể cho ông nghe về bệnh tình của cha, và mình đang đi tìm dòng nước của sự sống. Anh thú thật với người lùn rằng anh không biết phải tìm kiếm nơi nào. Nghe vậy ông ta nói: "Ồ, ta biết chỗ ấy nằm ở đâu", rồi ông chỉ phương hướng để đi đến đó, con đường rất quanh co, phức tạp. Người em út lắng nghe thật cẩn trọng và ghi nhớ từng lời ông dặn. Và câu chuyện còn tiếp diễn với nhiều chi tiết hấp dẫn. Ý trong truyện muốn nói là đôi khi chúng ta cần phải biết chập nhận sự thật rằng mình không biết, và cởi mở ra để tiếp nhận sự giúp đở trong những trường hợp bất ngờ nhất. Ðược vậy, chúng ta mới có thể tiếp xúc với những năng lượng và đồng minh trong ta cũng như ngoài ta, chúng phát sinh từ một tâm linh phong phúvô ngã của chính mình. Lẽ dĩ nhiên, hai người anh ích kỹ kia cũng là những phương diện khác của tâm thức ta. Thông điệp của câu chuyện, nhắc ta hay bị mắc kẹt vào những thói quen tự kỷ, tự đại thường tình của con người và quên đi cái trật tự chung lớn lao của mọi vật, cuối cùng ta sẽ bị dẫn vào một ngỏ cụt của cuộc đời. Và nơi đó ta không còn có thể tiến tới, lui về hay quay trở lại được nữa. Câu chuyện kể rằng, ta sẽ không bao giờ tìm được nước của sự sống bằng một thái độ ấy, và ta sẽ bị mắc kẹt, rất có thể là vĩnh viễn

Sự tu tập chánh niệm đòi hỏi ta phải biết kính trọngđể tâm đến năng lượng của "người lùn" trong ta. Chứ không phải chỉ biết lao đầu vào vào công việc với một tâm thức nhỏ nhen, bị thúc đẩy bởi những tham vọng và sự ích kỷ, không biết gì đến phần lớn lao còn lại của con người mình. Câu chuyện kể tiếp rằng, chúng ta chỉ có thể thành công nếu ta biết tiến bước với một ý thức rõ ràng về thực tại của mình, kể cả việc sẵn sàng chấp nhận rằng mình đang đi đâu. Trong câu chuyện, vị hoàng tử út phải mất một thời gian dài mới ý thức được những gì xảy ra, chẳng hạn như việc hai người anh đang bị mắc kẹt trong khe núi. Và anh cũng đã phải trải qua biết bao nhiêu sự lừa đảo, phản bội vì sự ngây thơ của mình, trước khi đạt đến một sức mạnhtuệ giác hoàn toàn. Cuối cùng, anh đã cỡi trên lưng ngựa đi giữa một con đường lát vàng, cưới một nàng công chúa thật đẹp và trở thành vua - một con người toàn vẹn, không phải cho giang san của vua cha mà là cho chính anh. 

Thực tập: Hãy xem cuộc đời của bạn trong ngày hôm nay như là một hành trình và một cuộc mạo hiểm. Bạn đang đi về đâu? Bạn đang tìm kiếm những gì? Bây giờ bạn đang ở đâu? Bạn đang ở vào giai đọa nào trên hành trình của bạn? Nếu cuộc đời bạn là một quyển sách, hôm nay bạn sẽ đặt nó tên là gì? Bạn sẽ đặt tựa gì cho chương mà bạn đang sống đây? Bạn có đang bị kẹt ở nơi này bằng một lối nào đó không? Bạn có thể cởi mở ra với tất cả những năng lượng cần xử dụng trong giờ phút này không? Nên nhớ rằng hành trình này độc nhất của bạn, chứ không phải của bất cứ một ai khác. Vì vậy con đường này phải là của chính bạn. Bạn không thể nào bắt chước hành trình của một người khác, và vẫn có thể tự thành thật với mình được. Bạn có sẵn sàng tôn trọng sự cá biệt của mình bằng cách đó không? Bạn có thấy được thiền tập là một phần rất thân thiết với lối sống chân thật này không? Bạn có cương quyết soi sáng con đường của mình bằng chánh niệmý thức không? Bạn có thấy được những chỗ mà mình đang còn bị mắc kẹt không, hoặc là trong thời gian qua? 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 18435)
Truyền thuyết “Niêm hoa vi tiếu” không biết có từ lúc nào, chỉ thấy ghi chép thành văn vào đời Tống (960-1127) trong “Tông môn tạp lục” mục “Nhơn thiên nhãn”...
(Xem: 19916)
"Đây là con đường duy nhất để thanh lọc tâm, chấm dứt lo âu, phiền muộn, tiêu diệt thân bệnh và tâm bệnh, đạt thánh đạochứng ngộ Niết Bàn. Đó là Tứ Niệm Xứ".
(Xem: 19593)
Để diệt trừ cái khổ, người ta phải nhận ra bản chất nội tại của vấn đề khổ. Mà để được vậy, trước hết người ta phải cần có một cái tâm an tịnh...
(Xem: 33501)
Những lúc vô sự, người góp nhặt thường dạo chơi trong các vườn Thiền cổ kim đông tây. Tiêu biểu là các vườn Thiền Trung Hoa, Việt Nam, Nhật Bản và Hoa Kỳ.
(Xem: 34622)
Không thể có một bậc Giác Ngộ chứng nhập Niết Bàn mà chưa hiểu về mình và chưa thấy rõ gốc cội khổ đau của mình.
(Xem: 54612)
Muốn thực sự tiếp xúc với thực tại, cho dù đó bất cứ là gì, chúng ta phải biết cách dừng lại trong kinh nghiệm của mình, lâu đủ để nó thấm sâu vào và lắng đọng xuống...
(Xem: 37850)
Thực hành thiền trong Đạo Phật rốt ráo là để Thực Nghiệm sự thật VÔ NGÃđức Phật đã giác ngộ (khám phá). Đó cũng là để chứng thực KHÔNG TÁNH của vạn pháp.
(Xem: 21212)
Do bốn niệm xứ được tu tập, được làm cho sung mãn, thưa Hiền giả, khi Như Lai nhập Niết-bàn, Diệu pháp được tồn tại lâu dài.
(Xem: 17955)
Đức Phật khám phá ra rằng một tâm hạnh phúc nhất là tâm không bị dính mắc. Đây là một niềm hạnh phúc rất sâu sắc, khác hẳn với những gì chúng ta vẫn thường biết.
(Xem: 63777)
Đàn Kinh được các môn đệ của Huệ Năng nhìn nhận đã chứa đựng giáo lý tinh nhất của Thầy mình, và giáo lý được lưu truyền trong hàng đệ tử như là một di sản tinh thần...
(Xem: 17452)
Thiền giữ vai trò rất quan trọng trong đạo Phật. "Ngay cơ sở của Phật giáo, tất cả đều là kết quả của sự khảo sát về Thiền, và nhờ có tư duy về Thiền mà Phật giáo mới được thể nghiệm hóa...
(Xem: 49774)
Khi ta phát triển định tâm, ta sẽ có thể giữ những chướng ngại tạm thời ở một bên. Khi những chướng ngại được khắc phục, tâm ta trở nên rõ ràng trong sáng.
(Xem: 16917)
Thiền có nghĩa là tỉnh thức: thấy biết rõ ràng những gì anh đang làm, những gì anh đang suy nghĩ, những gì anh đang cảm thọ; biết rõ mà không lựa chọn...
(Xem: 16448)
Bất kì ai cũng có khả năng giác ngộ nếu có khát vọng. Khát vọng hướng về mẫu số chung “tự tri-tỉnh thức-vô ngã”, khát vọng đó là minh sư vĩ đại nhất của chính mình.
(Xem: 14526)
Thiền tông, nói mây, nói cuội, nói chuyện nghịch đời… chẳng qua đối duyên khai ngộ, để phá cho được cái dòng vọng tưởng tương tục của người, hy vọng ngay đó người nhận ra “chân”...
(Xem: 22541)
Nhờ thiền sư Munindra tận tâm hướng dẫn chu đáo từng bước một nên bà tiến bộ rất nhanh chóng. Đi từ cấp thiền cổ điển đến tiến bộ trong chánh niệm (progress insight).
(Xem: 57108)
Tập sách Thiền và Bát-nhã này là phần trích Luận Năm và Luận Sáu, trong bộ Thiền luận, tập hạ, của D. T. Suzuki. Tập này gồm các thiên luận về Hoa nghiêm và Bát-nhã.
(Xem: 13900)
Giác ngộ không phải là cầu toàn, vì càng cầu toàn con càng khổ đau thất vọng, mà là cần thấy ra bản chất bất toàn của cuộc sống. Chỉ cần vừa đủ trầm tĩnh sáng suốt...
(Xem: 29082)
Đức Phật dạy rằng hạnh phúcvấn đề thiết thực hiện tại, không phải là những ước mơ đẹp đẽ cho tương lai, hay những kỷ niệm êm đềm trong quá khứ.
(Xem: 33388)
Thầy bảo: “Chuyện vi tiếu nếu nghe mà không thấy thì cứ để vậy rồi một ngày kia sẽ thấy, tự khám phá mới hay chứ giải thích thì còn hứng thú gì.
(Xem: 38449)
Sở dĩ chúng ta mãi trôi lăn trong luân hồi sinh tử, phiền não khổ đau là vì thân tâm luôn hướng ngoại tìm cầu đối tượng của lòng tham muốn. Được thì vui mừng, thích thú...
(Xem: 31297)
Nếu không có cái ta ảo tưởng xen vào thì pháp vốn vận hành rất hoàn hảo, tự nhiên, và tánh biết cũng biết pháp một cách hoàn hảo, tự nhiên, vì đặc tánh của tâm chính là biết pháp.
(Xem: 13948)
Thực tế, thì căn bản của sự thực thiền của các hành giả chân chánh là khám phá ra những hành động nào đem lại khổ đau hoặc hạnh phúc. Sau đó, tránh các hành động gây nghiệp...
(Xem: 14665)
Thực hành phát triển Định Tuệ sẽ xa dần các tà kiến và các thiên chấp; sẽ sống với nhân cách tự-do-tinh-thần; cởi bỏ gánh nặng nô lệ thị phi, tập tục.
(Xem: 14329)
“Phản văn văn tự tánh” là “quay cái nghe nghe tự tánh”. Tự tánhthực thể đang nghe đang thấy đang biết, đồng thời đang tự biết tự thấy…
(Xem: 12702)
Hành thiền, cốt tuỷ nhất, là tự tri, là quán tâm. Học Thiền, tức học đạogiác ngộ, cốt tuỷ nhất là nương ngôn từ để thấy biết trạng thái tâm trí.
(Xem: 14879)
Tôi có một số kinh nghiệm vững chắc về định, tĩnh, và quán tưởng. Điều đó thúc đẩy tôi đến với Thiền Minh Sát. Các tu sĩ ở đây khuyến khích tôi xuất gia.
(Xem: 19245)
Nếu thấy tất cả con người, muôn vật đều hư giả, tạm bợ thì không còn tham sân nữa. Mình không thật, có ai chửi mình cũng không giận. Cái tôi không thật, lời chửi thật được sao...
(Xem: 13861)
Trong Phật giáo có những phương pháp dùng để thực hành Thiền từ bi. Các thiền giả nhằm khích động lòng từ bi đối với tất cả chúng sinh...
(Xem: 12707)
Thế giới, với người ngộ đạo, đã được lộn trái trở lại: sanh tử lộn ngược thành Niết Bàn. Đời sốngý nghĩakhông tịch. Đời sống là sự biểu hiện của tính sáng.
(Xem: 30478)
Thiền Quán là tri nhận Giác Thức thành Giác Trí. Giác Thức và Giác Trí được quán tưởng theo thời gian. Khi Tưởng Tri thì Thức và Trí luôn nối tiếp nhau làm cho ta có tư tưởng...
(Xem: 11885)
Cuộc cách mạng thực tập Thiền Chánh Niệm bắt đầu bằng một động tác giản dị là chú ý đến hơi thở, cảm thọ trong thân và tâm, nhưng rõ ràng là có thể đi rất xa.
(Xem: 30772)
Sự giác ngộ đem lại lợi ích thực sự ngay trong kiếp sống này. Khi đề cập đến Pháp hành ta nhất thiết phải tìm hiểu qui trình tu tập hợp lý và hợp với giáo huấn của Đức Phật.
(Xem: 29467)
“Chẳng có ai cả” là một tuyển tập những lời dạy ngắn gọn, cô đọng và thâm sâu nhất của Ajahn Chah, vị thiền sư lỗi lạc nhất thế kỷ của Thái Lan về pháp môn Thiền Minh Sát.
(Xem: 30683)
Thiện tri thức! Tâm lượng quảng đại, biến mãn khắp pháp giới, về dụng thì mỗi mỗi phân minh, ứng dụng ra thì biết được tất cả là một, một là tất cả... Thích Nữ Trí Hải dịch
(Xem: 31310)
Bên ngoài xa lìa các tướng gọi là “thiền”, bên trong không loạn gọi là “định”. Bên ngoài nếu như tuy có tướng, song bên trong bổn tính vẫn không loạn, thì đó là cái tự tịnh tự định bổn nguyên.
(Xem: 37195)
Thiện tri thức, khi chưa ngộ thì Phật tức chúng sanh, lúc một niệm khai ngộ, chúng sanh tức Phật. Nên biết vạn pháp đều ở nơi tự tâm...
(Xem: 32335)
Này chư Thiện tri thức, cái trí Bồ Đề Bát Nhã, người thế gian vốn tự có, nhưng bởi tâm mê, nên chẳng tự ngộ được... Minh Trực Thiền Sư Việt dịch
(Xem: 23753)
Quyển "THIỀN QUÁN - Tiếng Chuông Vượt Thời Gian" là một chuyên đề đặc biệt giới thiệu về truyền thống tu tập thiền Tứ Niệm Xứ của đức Phật dưới sự hướng dẫn của thiền sư U Ba Khin.
(Xem: 12260)
Thực tập chánh niệm có thể ảnh hưởng tích cực đến nhiều hoạt động của hạch hạnh nhân, khu vực có kích thước bằng hạt đậu nằm ở trung tâm não bộ...
(Xem: 14255)
Thiền Tiệm Ngộpháp hành từ tập trung trí và thức gom vào một đề mục duy nhất, hoặc dùng một đối tượng đặt ra do tư tưởng định trước.
(Xem: 14119)
Khi chấp nhận thực hành thiền, chúng ta phải có niềm tin sâu sắc vào khả năng của tâm chúng ta ngay từ lúc khởi đầu, và phải duy trì niềm tin ấy...
(Xem: 34042)
Nếu tâm chúng ta dịu dàng, nhân ái, hiểu biết, và có sự đồng cảm đối với tha nhân, chúng ta sẽ tu tập tâm từ đến người khác không mấy khó khăn.
(Xem: 27793)
Đức Phật bảo rằng cần có mười lăm đức tính để tự hoàn thiện, để có thể sinh lòng từ bi đối với mọi người quanh ta hay rộng hơn cho đến tất cả nhân loại...
(Xem: 12495)
Không biết tự bao giờ, Trà trở thành thân quen trong nếp sống Thiền gia Phật Giáo Bắc Truyền, rồi trà thành một phần văn hóa của Phật Giáo...
(Xem: 28708)
Sách này đặt tên "Kiến Tánh Thành Phật", nghĩa là sao? Bởi muốn cho người ngưỡng mộ tên này, cần nhận được lý thật của nó. Như kinh nói: "Vì muốn cho chúng sanh khai, thị, ngộ, nhập tri kiến Phật".
(Xem: 29443)
Những bài kinh Phật không có bài nào là không hay. Có miệt mài trên những trang kinh xưa mới cảm được sự vang động của suối nguồn trí tuệ.
(Xem: 12469)
Vị trí cực kỳ quan trọng của Lục Tổ Huệ Năng đối với sự hình thành và phát triển của Thiền tông Trung Quốc đã khiến các đệ tử Phật môn luôn nhắc về ông...
(Xem: 29294)
Trong sách này Ngài Sayadaw diễn tả đầy đủ phương pháp quán niệmgiải thích với đầy đủ chi tiết đường lối suy tư về lý vô ngã có thể dẫn đến mức độ thành tựu Niết Bàn.
(Xem: 28110)
Vào năm 1986-1987 Hòa Thượng giảng Kinh Nguyên Thủy; đối chiếu Kinh Pali (dịch ra Việt Ngữ) và A Hàm tại Thường Chiếu giúp cho Thiền sinh thấy rõ nguồn mạch Phật Pháp từ Nguyên Thủy đến Đại ThừaThiền Tông.
(Xem: 25746)
Con đường thiền tậpchánh niệm tỉnh giác, chứng nghiệm vào thực tại sống động. Khi tâm an định, hành giả có sự trầm tĩnh sáng suốt thích nghi với mọi hoàn cảnh thuận nghịch...
(Xem: 26104)
Cuốn Ba Thiền Sư ghi lại cuộc đời của Ikkyu Sojun (1394-1481), Hakuin Ekaku (1686-1768), và Ryokan Taigu (1758-1831). Mỗi vị Sư đều hiển lộ Thiền Tông trong cách riêng.
(Xem: 22332)
Với người đã mở mắt đạo thì ngay nơi “sắc” hiện tiền đó mà thấy suốt không chướng ngại, không ngăn che, nên mặc dù Sắc có đó vẫn như không, không một chút dấu vết mê mờ...
(Xem: 33214)
Thiền Tông nhấn mạnh vào mặt kinh nghiệm cá nhân, nhắm đưa từng con người chúng ta giáp mặt trực tiếp với chân lý trong ngay chính hoàn cảnh hiện tiền của chúng ta.
(Xem: 31869)
Các pháp thế gian đều kỵ chấp trước, chỗ qui kính của Thích tử không ai bằng Phật mà có khi vẫn phải quở. Bởi có ta mà không kia, do ta mà không do kia vậy.
(Xem: 39658)
Quả thật, chân lý thiền vốn ở ngay nơi người, ngay trong tự tâm chúng ta đây thôi. Vậy ai có tâm thì chắc chắc có thiền, không nghi ngờ gì nữa.
(Xem: 22522)
Bắt đầu bằng cách bỏ qua một bên tất cả những mối quan tâm ở bên ngoài, và quay vào quán sát nội tâm cho đến khi ta biết tâm trong sáng hay ô nhiễm, yên tĩnh hay tán loạn như thế nào.
(Xem: 34556)
Đây là phần thứ 2 trong 3 phần chính của cuốn Zen no Rekishi (Lịch Sử Thiền) do giáo sư Ibuki Atsushi soạn, xuất bản lần đầu tiên năm 2001 tại Tôkyô.
(Xem: 27412)
Thật ra chân lý nó không nằm ở bên đúng hay bên sai, mà nó vượt lên trên tất cả đối đãi, chấp trước về hiện hữu của Nhị Nguyên. Chân lý là điểm đến, còn hướng đến chân lý có nhiều con đường dẫn đến khác nhau.
(Xem: 28457)
Trong tiếng Phạn (Sanskrit), từ "Thiền" có ngữ nguyên là dhyâna. Người Trung Hoa đã dịch theo âm thành "Thiền na". Ý nghĩa "trầm tư mặc tưởng" của nó từ xưa trong sách vở Phật giáo lại được biểu âm bằng hai chữ yoga (du già).
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant