Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Chương 6: Làm gì đây với thân của bạn?

26 Tháng Mười Hai 201000:00(Xem: 7740)
Chương 6: Làm gì đây với thân của bạn?

CHÁNH NIỆM CƠ BẢN

Thiền sư: Henepola Gunaratana
Dịch Việt: Lương Thanh Bình

Chương 6: Làm gì đây với thân của bạn?

Phương pháp tu tập thiền đã tồn tại qua hàng ngàn năm rồi. Đó là một khoảng thời gian dài cho sự thử nghiệm và phương pháp này đã được cải thiện, gọt dũa một cách sâu sắc và hoàn mỹ. Giáo lý truyền thống Phật giáo luôn luôn nhìn nhận có sự liên hệ hỗ tương một cách chặt chẽ giữa thân và tâm. Cho nên sự khuyến khích tu tậplãnh vực sinh lý có thể hỗ trợ lớn lao cho bạn trong tiến trình tu Tuệ. Và phần sau đây nên được thực hành đúng đắn và nên nhớ rằng những tư thế ngồi này chỉ là pháp rèn luyện phụ trợ chớ không phải là chính yếu. Tu thiền không phải là cách ngồi trong tư thế kiết già, mà là khả năng luyện tâm. Nó có thể tu tập bất kỳ nơi đâu. Nhưng những tư thế này sẽ giúp bạn học được kỷ năng, để giúp bạn tăng tiến và phát triển nhanh hơn trong quá trình tu thiền. Vì vậy hãy áp dụng chúng đúng mức.

Những qui luật chung

Mục đích của những tư thế thì gồm có ba phần. Trước nhất, chúng giúp cho thiền giả một tư thế vững vàng cho thân. Có được vậy, thiền giả không còn lo nghĩ gì về thăng bằng, mệt mõi để có thể tập trung tâm trí vào đề mục thiền. Thứ hai là khi thân tịnh sẽ có phần nào giúp cho tâm tịnh, từ đó mới có thể đi xa hơn vào Định. Thứ ba là tư thế vững vàng giúp cho thiền giả có thể ngồi bất động trong một thời gian rất dài mà không sinh ra trở ngại lớn — đau, cơ bắp căng, và ngủ gục.

Điều quan trọng nhất là phải ngồi với lưng thật thẳng đứng. Cột sống nên thẳng lên giống như là một chồng tiền cắc được xếp lên nhau. Đầu nên được giữ thẳng theo cột sống. Tất cả mọi thứ này nên được làm một cách thoải mái chớ không phải cứng đơ. Bạn không phải là người gỗ và đây không phải là lối huấn luyện sĩ quan. Thật ra vốn không cần phải có một sự gồng cứng nào cả để giữ cho lưng ngay thẳng; ngồi nhẹ nhàng và thả lỏng. Cột sống nên giống như là một thân cây cứng nhỏ đang lớn lên nơi đất còn mềm. Tất cả phần còn lại trong thân thể chỉ dính theo trong phong thái thư thả và nới lỏng. Những vấn đề này đòi hỏi bạn phải thử qua nhiều lần để có thể rút tỉa kinh nghiệm riêng thích hợp cho thân mình. Thông thường khi chúng ta ngồi, thì tư thế hay bị ngượng ngạo, thiếu tự nhiên hơn so với lúc đi, hay nói chuyện, hay duỗi thẳng ra. Nhưng tất cả những thứ này đã bị hoàn cảnh hóa trở thành thói quen trong thời gian dài và có thể sửa lại được. Mục đích của bạn là có được một tư thế ngồi mà không cần phải nhúc nhích trong suốt buổi tọa thiền. Vào lúc ban đầu, bạn có lẽ cảm thấy ngượng ngịu khi thẳng lưng, nhưng dần dà thì cũng sẽ quen, chỉ cần thực tập thì được, vì lối ngồi này rất ư là quan trọng. Theo sinh lý học thì đây là lối ngồi tỉnh thức, nó cùng đi song song với tâm cảnh giác. Nếu bạn bị uể oải, nghĩa là bạn đang mời mọc cơn mê ngủ. Vật mà bạn ngồi lên cũng quan trọng không kém. Một chiếc ghế hay gối độn thì cần thiết, tùy thuộc vào thế ngồi, và độ cứng của chỗ ngồi cũng phải được chọn lựa. Nếu quá êm có thể làm bạn buồn ngủ, còn cứng quá thì có thể tạo ra cơn đau.

Trang phục

Y phục đang mặc trong khi tọa thiền thì nên mềm mại và rộng rãi. Nếu quần áo cấn cản các mạch máu hay đè chặt cơ phận thần kinh sẽ tạo ra cơn đau hay sự tê cứng mà mọi người thường hay gọi “phần thân bị ngủ”. Nếu bạn đang mang dây thắt lưng thì nên nới lỏng nó ra. Đừng nên mặc quần áo chật chội và may bằng những chất liệu dày. Váy dài là một lựa chọn tốt cho phái nữ. Quần rộng làm bằng vật liệu mềm và có tính đàn hồi thì thích hợp cho mọi người. Những chiếc áo choàng mềm mại và rộng rãi là trang phục truyền thống ở Á châu là những y phục điển hình chẳng hạn như là sa-rong, ki-mo-no. Hãy cởi giày ra và nếu bạn đang mang loại vớ dày thì nên cởi nó ra nốt.

Tư thế truyền thống

Khi ngồi trên sàn nhà theo truyền thống Á châu, bạn cần phải có một tọa cụ để nâng đỡ cột sống. Hãy chọn loại tọa cụ tương đối chặt một chút và dày khoảng ba phân Anh sau khi bị ép. Ngồi gần ở góc ngoài của tọa cụ và để cho chân tréo nhau nằm nghĩ ngơi trên sàn nhà. Nếu sàn nhà có trải thảm thì rất tốt cho sự bảo vệ ống quyển và mắt cá bớt đi sức ép. Nếu không có thảm, thì bạn nên cần có miếng đệm (hay cái mền nhỏ) cho đôi chân. Đừng bao giờ ngồi trọn vẹn trên tọa cụ. Lối ngồi này sẽ tạo sức ép vào đôi đùi và quan ngại các thần kinh hệ, sẽ dẫn đến chân bị đau.

Có nhiều cách để xếp hai chân. Đây là bốn cách được ưa chuộng nhất.

Lối người da đỏ: Chân phải đặt phía dưới gối trái và chân trái nhét luồn dưới gối phải.

Lối người Miến điện: Hai chân từ phần gối cho tới bàn chân được đặt song song phía trước.

Bán già: Hai gối chạm đất. Chân này nằm dọc theo chân kia ở phần ống quyển.

Kiết già: Hai gối chạm đất, chân tréo nhau ở bắp chân. Bàn chân trái nằm trên đùi phải và bàn chân phải nằm trên đùi trái. Hai lòng bàn chân mở lên.

Trong những tư thế này, hai bàn tay với những ngón khít hờ lại với nhau, bàn tay này đặt lên trên bàn tay kia và để nhẹ trước bụng với lòng bàn tay hướng lên trên. Hai tay để ngang tầm ở thấp hơn rốn một chút và hai cờm tay chạm nhẹ vào hai đùi trong. Vị trí của hai tay sẽ giữ cho phần thân được thẳng và lâu bền. Đừng gồng gân ở cổ và ở hai tay. Cả toàn bộ thân thể được thả lỏng và thư giãn hoàn toàn. Đừng để cho sức ép ứ đọng nơi vùng bụng. Nâng cao cằm lên một chút. Mắt thì có thể mở hoặc nhắm lại. Nếu bạn muốn để mắt mở thì luôn nhìn vào chóp mũi hay ngay điểm giữa của khoảng cách từ mắt tới một vật thể gần nhất trước mắt, giống như là không nhìn gì cả mà chỉ nhìn tùy tiện vào khoảng không để có thể quên đi sự thấy. Đừng quá căng thẳng, gồng cứng hay là gắng gượng. Thư thả, để cho toàn thân mềm dẽo một cách tự nhiên giống như là toàn bộ phận thân thể đang được gá máng vào một giá móc y phục mà cái giá áo kia là cột xương sống đang thẳng.

Tư thế bán già và kiết già là hai thế ngồi phổ thông của dòng thiền nguyên thuỷ ở Á châu, ngồi kiết già thì được cho là tư thế tốt nhất từ trước đến nay. Một khi đã ngồi vào rồi, bạn có thể hoàn toàn bất động trong một khoảng thời gian dài. Bởi vì nó đòi hỏi một đôi chân uyển chuyển cho nên không phải ai cũng có thể ngồi theo lối này được. Hơn nữa, tư thế ngồi không nói lên một điều gì về thiền giả, mà chỉ đơn thuần là nó thích hợp cho từng cá nhân; chọn một thế ngồi miễn sao cho bạn ngồi được lâu nhất với khả năng của mình mà không bị đau và nhúc nhích. Hãy thử nghiệm nhiều thế ngồi khác nhau để chọn cho mình một thế thích hợp. Các gân sẽ dần dần thả lỏng theo sự tu tập, bạn luyện tập dần tới thế kiết già.

Chiếc ghế

Ngồi trên sàn nhà có thể là rất khó khăn vì đau đớn hay lý do nào khác. Cho nên bạn có thể ngồi trên ghế. Hãy chọn một chiếc ghế phẵng có tựa lưng thẳng đứng và không có nơi để tay. Khi ngồi thì đừng tựa lưng vào thành ghế. Phần ghế trước không tới sâu vào đùi. Để hai chân song song với bàn chân phẵng trên sàn. Giống như tư thế truyền thống, đặt hai tay trên vế, bàn tay này trên bàn tay kia với lòng bàn tay mở lên. Đừng gồng cứng gân cổ và vai, thả lỏng hai cánh tay. Mắt của bạn có thể mở hoặc đóng. 

Dù dùng theo tư thế nào hãy luôn luông nhớ đến mục tiêu của bạn. Bạn muốn đạt đến trạng thái toàn thân tĩnh lặng mà không bị rơi vào cơn ngủ gục. Tương tự như là đang lắng đọng ly nước nhiều cặn. Bạn muốn thực tập phương pháp “thân tịnh sẽ đưa đến tâm tịnh”. Khi trạng thái thân yên tĩnh và có sự chú tâm thì sẽ dẫn đến trạng thái tâm trong sáng mà bạn cần. Cho nên hãy thử nghiệm. Phần thân chỉ là phương tiện để đạt đến trạng thái tâm mà chúng ta muốn có, hãy dùng nó một cách sáng suốt.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 18400)
Truyền thuyết “Niêm hoa vi tiếu” không biết có từ lúc nào, chỉ thấy ghi chép thành văn vào đời Tống (960-1127) trong “Tông môn tạp lục” mục “Nhơn thiên nhãn”...
(Xem: 19874)
"Đây là con đường duy nhất để thanh lọc tâm, chấm dứt lo âu, phiền muộn, tiêu diệt thân bệnh và tâm bệnh, đạt thánh đạochứng ngộ Niết Bàn. Đó là Tứ Niệm Xứ".
(Xem: 19579)
Để diệt trừ cái khổ, người ta phải nhận ra bản chất nội tại của vấn đề khổ. Mà để được vậy, trước hết người ta phải cần có một cái tâm an tịnh...
(Xem: 33470)
Những lúc vô sự, người góp nhặt thường dạo chơi trong các vườn Thiền cổ kim đông tây. Tiêu biểu là các vườn Thiền Trung Hoa, Việt Nam, Nhật Bản và Hoa Kỳ.
(Xem: 34563)
Không thể có một bậc Giác Ngộ chứng nhập Niết Bàn mà chưa hiểu về mình và chưa thấy rõ gốc cội khổ đau của mình.
(Xem: 54577)
Muốn thực sự tiếp xúc với thực tại, cho dù đó bất cứ là gì, chúng ta phải biết cách dừng lại trong kinh nghiệm của mình, lâu đủ để nó thấm sâu vào và lắng đọng xuống...
(Xem: 37777)
Thực hành thiền trong Đạo Phật rốt ráo là để Thực Nghiệm sự thật VÔ NGÃđức Phật đã giác ngộ (khám phá). Đó cũng là để chứng thực KHÔNG TÁNH của vạn pháp.
(Xem: 21176)
Do bốn niệm xứ được tu tập, được làm cho sung mãn, thưa Hiền giả, khi Như Lai nhập Niết-bàn, Diệu pháp được tồn tại lâu dài.
(Xem: 17923)
Đức Phật khám phá ra rằng một tâm hạnh phúc nhất là tâm không bị dính mắc. Đây là một niềm hạnh phúc rất sâu sắc, khác hẳn với những gì chúng ta vẫn thường biết.
(Xem: 63735)
Đàn Kinh được các môn đệ của Huệ Năng nhìn nhận đã chứa đựng giáo lý tinh nhất của Thầy mình, và giáo lý được lưu truyền trong hàng đệ tử như là một di sản tinh thần...
(Xem: 17432)
Thiền giữ vai trò rất quan trọng trong đạo Phật. "Ngay cơ sở của Phật giáo, tất cả đều là kết quả của sự khảo sát về Thiền, và nhờ có tư duy về Thiền mà Phật giáo mới được thể nghiệm hóa...
(Xem: 49720)
Khi ta phát triển định tâm, ta sẽ có thể giữ những chướng ngại tạm thời ở một bên. Khi những chướng ngại được khắc phục, tâm ta trở nên rõ ràng trong sáng.
(Xem: 16892)
Thiền có nghĩa là tỉnh thức: thấy biết rõ ràng những gì anh đang làm, những gì anh đang suy nghĩ, những gì anh đang cảm thọ; biết rõ mà không lựa chọn...
(Xem: 16406)
Bất kì ai cũng có khả năng giác ngộ nếu có khát vọng. Khát vọng hướng về mẫu số chung “tự tri-tỉnh thức-vô ngã”, khát vọng đó là minh sư vĩ đại nhất của chính mình.
(Xem: 14512)
Thiền tông, nói mây, nói cuội, nói chuyện nghịch đời… chẳng qua đối duyên khai ngộ, để phá cho được cái dòng vọng tưởng tương tục của người, hy vọng ngay đó người nhận ra “chân”...
(Xem: 22507)
Nhờ thiền sư Munindra tận tâm hướng dẫn chu đáo từng bước một nên bà tiến bộ rất nhanh chóng. Đi từ cấp thiền cổ điển đến tiến bộ trong chánh niệm (progress insight).
(Xem: 57040)
Tập sách Thiền và Bát-nhã này là phần trích Luận Năm và Luận Sáu, trong bộ Thiền luận, tập hạ, của D. T. Suzuki. Tập này gồm các thiên luận về Hoa nghiêm và Bát-nhã.
(Xem: 13884)
Giác ngộ không phải là cầu toàn, vì càng cầu toàn con càng khổ đau thất vọng, mà là cần thấy ra bản chất bất toàn của cuộc sống. Chỉ cần vừa đủ trầm tĩnh sáng suốt...
(Xem: 29049)
Đức Phật dạy rằng hạnh phúcvấn đề thiết thực hiện tại, không phải là những ước mơ đẹp đẽ cho tương lai, hay những kỷ niệm êm đềm trong quá khứ.
(Xem: 33362)
Thầy bảo: “Chuyện vi tiếu nếu nghe mà không thấy thì cứ để vậy rồi một ngày kia sẽ thấy, tự khám phá mới hay chứ giải thích thì còn hứng thú gì.
(Xem: 38428)
Sở dĩ chúng ta mãi trôi lăn trong luân hồi sinh tử, phiền não khổ đau là vì thân tâm luôn hướng ngoại tìm cầu đối tượng của lòng tham muốn. Được thì vui mừng, thích thú...
(Xem: 31270)
Nếu không có cái ta ảo tưởng xen vào thì pháp vốn vận hành rất hoàn hảo, tự nhiên, và tánh biết cũng biết pháp một cách hoàn hảo, tự nhiên, vì đặc tánh của tâm chính là biết pháp.
(Xem: 13940)
Thực tế, thì căn bản của sự thực thiền của các hành giả chân chánh là khám phá ra những hành động nào đem lại khổ đau hoặc hạnh phúc. Sau đó, tránh các hành động gây nghiệp...
(Xem: 14644)
Thực hành phát triển Định Tuệ sẽ xa dần các tà kiến và các thiên chấp; sẽ sống với nhân cách tự-do-tinh-thần; cởi bỏ gánh nặng nô lệ thị phi, tập tục.
(Xem: 14317)
“Phản văn văn tự tánh” là “quay cái nghe nghe tự tánh”. Tự tánhthực thể đang nghe đang thấy đang biết, đồng thời đang tự biết tự thấy…
(Xem: 12661)
Hành thiền, cốt tuỷ nhất, là tự tri, là quán tâm. Học Thiền, tức học đạogiác ngộ, cốt tuỷ nhất là nương ngôn từ để thấy biết trạng thái tâm trí.
(Xem: 14849)
Tôi có một số kinh nghiệm vững chắc về định, tĩnh, và quán tưởng. Điều đó thúc đẩy tôi đến với Thiền Minh Sát. Các tu sĩ ở đây khuyến khích tôi xuất gia.
(Xem: 19226)
Nếu thấy tất cả con người, muôn vật đều hư giả, tạm bợ thì không còn tham sân nữa. Mình không thật, có ai chửi mình cũng không giận. Cái tôi không thật, lời chửi thật được sao...
(Xem: 13846)
Trong Phật giáo có những phương pháp dùng để thực hành Thiền từ bi. Các thiền giả nhằm khích động lòng từ bi đối với tất cả chúng sinh...
(Xem: 12698)
Thế giới, với người ngộ đạo, đã được lộn trái trở lại: sanh tử lộn ngược thành Niết Bàn. Đời sốngý nghĩakhông tịch. Đời sống là sự biểu hiện của tính sáng.
(Xem: 30441)
Thiền Quán là tri nhận Giác Thức thành Giác Trí. Giác Thức và Giác Trí được quán tưởng theo thời gian. Khi Tưởng Tri thì Thức và Trí luôn nối tiếp nhau làm cho ta có tư tưởng...
(Xem: 11861)
Cuộc cách mạng thực tập Thiền Chánh Niệm bắt đầu bằng một động tác giản dị là chú ý đến hơi thở, cảm thọ trong thân và tâm, nhưng rõ ràng là có thể đi rất xa.
(Xem: 30708)
Sự giác ngộ đem lại lợi ích thực sự ngay trong kiếp sống này. Khi đề cập đến Pháp hành ta nhất thiết phải tìm hiểu qui trình tu tập hợp lý và hợp với giáo huấn của Đức Phật.
(Xem: 29427)
“Chẳng có ai cả” là một tuyển tập những lời dạy ngắn gọn, cô đọng và thâm sâu nhất của Ajahn Chah, vị thiền sư lỗi lạc nhất thế kỷ của Thái Lan về pháp môn Thiền Minh Sát.
(Xem: 30641)
Thiện tri thức! Tâm lượng quảng đại, biến mãn khắp pháp giới, về dụng thì mỗi mỗi phân minh, ứng dụng ra thì biết được tất cả là một, một là tất cả... Thích Nữ Trí Hải dịch
(Xem: 31253)
Bên ngoài xa lìa các tướng gọi là “thiền”, bên trong không loạn gọi là “định”. Bên ngoài nếu như tuy có tướng, song bên trong bổn tính vẫn không loạn, thì đó là cái tự tịnh tự định bổn nguyên.
(Xem: 37149)
Thiện tri thức, khi chưa ngộ thì Phật tức chúng sanh, lúc một niệm khai ngộ, chúng sanh tức Phật. Nên biết vạn pháp đều ở nơi tự tâm...
(Xem: 32298)
Này chư Thiện tri thức, cái trí Bồ Đề Bát Nhã, người thế gian vốn tự có, nhưng bởi tâm mê, nên chẳng tự ngộ được... Minh Trực Thiền Sư Việt dịch
(Xem: 23701)
Quyển "THIỀN QUÁN - Tiếng Chuông Vượt Thời Gian" là một chuyên đề đặc biệt giới thiệu về truyền thống tu tập thiền Tứ Niệm Xứ của đức Phật dưới sự hướng dẫn của thiền sư U Ba Khin.
(Xem: 12245)
Thực tập chánh niệm có thể ảnh hưởng tích cực đến nhiều hoạt động của hạch hạnh nhân, khu vực có kích thước bằng hạt đậu nằm ở trung tâm não bộ...
(Xem: 14239)
Thiền Tiệm Ngộpháp hành từ tập trung trí và thức gom vào một đề mục duy nhất, hoặc dùng một đối tượng đặt ra do tư tưởng định trước.
(Xem: 14110)
Khi chấp nhận thực hành thiền, chúng ta phải có niềm tin sâu sắc vào khả năng của tâm chúng ta ngay từ lúc khởi đầu, và phải duy trì niềm tin ấy...
(Xem: 34006)
Nếu tâm chúng ta dịu dàng, nhân ái, hiểu biết, và có sự đồng cảm đối với tha nhân, chúng ta sẽ tu tập tâm từ đến người khác không mấy khó khăn.
(Xem: 27763)
Đức Phật bảo rằng cần có mười lăm đức tính để tự hoàn thiện, để có thể sinh lòng từ bi đối với mọi người quanh ta hay rộng hơn cho đến tất cả nhân loại...
(Xem: 12470)
Không biết tự bao giờ, Trà trở thành thân quen trong nếp sống Thiền gia Phật Giáo Bắc Truyền, rồi trà thành một phần văn hóa của Phật Giáo...
(Xem: 28679)
Sách này đặt tên "Kiến Tánh Thành Phật", nghĩa là sao? Bởi muốn cho người ngưỡng mộ tên này, cần nhận được lý thật của nó. Như kinh nói: "Vì muốn cho chúng sanh khai, thị, ngộ, nhập tri kiến Phật".
(Xem: 29401)
Những bài kinh Phật không có bài nào là không hay. Có miệt mài trên những trang kinh xưa mới cảm được sự vang động của suối nguồn trí tuệ.
(Xem: 12431)
Vị trí cực kỳ quan trọng của Lục Tổ Huệ Năng đối với sự hình thành và phát triển của Thiền tông Trung Quốc đã khiến các đệ tử Phật môn luôn nhắc về ông...
(Xem: 29265)
Trong sách này Ngài Sayadaw diễn tả đầy đủ phương pháp quán niệmgiải thích với đầy đủ chi tiết đường lối suy tư về lý vô ngã có thể dẫn đến mức độ thành tựu Niết Bàn.
(Xem: 28061)
Vào năm 1986-1987 Hòa Thượng giảng Kinh Nguyên Thủy; đối chiếu Kinh Pali (dịch ra Việt Ngữ) và A Hàm tại Thường Chiếu giúp cho Thiền sinh thấy rõ nguồn mạch Phật Pháp từ Nguyên Thủy đến Đại ThừaThiền Tông.
(Xem: 25711)
Con đường thiền tậpchánh niệm tỉnh giác, chứng nghiệm vào thực tại sống động. Khi tâm an định, hành giả có sự trầm tĩnh sáng suốt thích nghi với mọi hoàn cảnh thuận nghịch...
(Xem: 26073)
Cuốn Ba Thiền Sư ghi lại cuộc đời của Ikkyu Sojun (1394-1481), Hakuin Ekaku (1686-1768), và Ryokan Taigu (1758-1831). Mỗi vị Sư đều hiển lộ Thiền Tông trong cách riêng.
(Xem: 22299)
Với người đã mở mắt đạo thì ngay nơi “sắc” hiện tiền đó mà thấy suốt không chướng ngại, không ngăn che, nên mặc dù Sắc có đó vẫn như không, không một chút dấu vết mê mờ...
(Xem: 33180)
Thiền Tông nhấn mạnh vào mặt kinh nghiệm cá nhân, nhắm đưa từng con người chúng ta giáp mặt trực tiếp với chân lý trong ngay chính hoàn cảnh hiện tiền của chúng ta.
(Xem: 31840)
Các pháp thế gian đều kỵ chấp trước, chỗ qui kính của Thích tử không ai bằng Phật mà có khi vẫn phải quở. Bởi có ta mà không kia, do ta mà không do kia vậy.
(Xem: 39619)
Quả thật, chân lý thiền vốn ở ngay nơi người, ngay trong tự tâm chúng ta đây thôi. Vậy ai có tâm thì chắc chắc có thiền, không nghi ngờ gì nữa.
(Xem: 22476)
Bắt đầu bằng cách bỏ qua một bên tất cả những mối quan tâm ở bên ngoài, và quay vào quán sát nội tâm cho đến khi ta biết tâm trong sáng hay ô nhiễm, yên tĩnh hay tán loạn như thế nào.
(Xem: 34513)
Đây là phần thứ 2 trong 3 phần chính của cuốn Zen no Rekishi (Lịch Sử Thiền) do giáo sư Ibuki Atsushi soạn, xuất bản lần đầu tiên năm 2001 tại Tôkyô.
(Xem: 27381)
Thật ra chân lý nó không nằm ở bên đúng hay bên sai, mà nó vượt lên trên tất cả đối đãi, chấp trước về hiện hữu của Nhị Nguyên. Chân lý là điểm đến, còn hướng đến chân lý có nhiều con đường dẫn đến khác nhau.
(Xem: 28424)
Trong tiếng Phạn (Sanskrit), từ "Thiền" có ngữ nguyên là dhyâna. Người Trung Hoa đã dịch theo âm thành "Thiền na". Ý nghĩa "trầm tư mặc tưởng" của nó từ xưa trong sách vở Phật giáo lại được biểu âm bằng hai chữ yoga (du già).
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant