Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Chương 11: Đối diện với Vọng tâm – I

26 Tháng Mười Hai 201000:00(Xem: 8513)
Chương 11: Đối diện với Vọng tâm – I

CHÁNH NIỆM CƠ BẢN

Thiền sư: Henepola Gunaratana
Dịch Việt: Lương Thanh Bình

Chương 11: Đối diện với Vọng tâm – I

Ở một thời điểm nào đó, mỗi thiền giả đụng độ với vọng tâm trong buổi tọa thiền, và pháp đối trị trở nên rất ư cần thiết cho thời điểm này. Vài động tác khéo léo, uyển chuyển có thể giúp bạn trở lại đề mục chính ngay lập tức, thay vì cố gắng kình chống với những xung lực trái ngược. Sự tập trung và chánh niệm nên phải hỗ trợ và bổ sung lẫn nhau. Nếu một trong hai bị yếu đi, thì phần kia bị ảnh hưởng lập tức. Những ngày không tốt thường biểu thị qua sự kém tập trung, tâm của bạn cứ trôi dạt. Do đó, bạn cần phảiphương pháp tái lập lại sự tập trung của mình, ngay trong hoàn cảnh khó khăn tâm lý. May thay, bạn có. Thật ra, bạn có thể lựa chọn từ hàng loạt kinh nghiệm truyền thống đã có.

Động tác 1: Ước lượng thời gian

Cách thức này đã nhắc qua trong một chương trước. Sự quấy nhiễu kéo bạn rời khỏi hơi thở, bất chợt bạn nhận ra mình đang ngủ ngày. Mẹo vặt để thoát khỏi những gì đang trói giữ bạn, để bạn có thể mang toàn bộ sự chú tâm trở về lại hơi thở là: ước lượng thời gian bạn đã để tâm lang thang. Không cần phải chính xác, chỉ phỏng chừng theo đơn vị phút. Chỉ tự nhẩm, “Được rồi! Mình đã lo ra hai phút rồi” hay là “Từ lúc có tiếng chó sủa” hay “Từ lúc nghĩ đến tiền bạc.” Khi bạn mới dùng cách này, bạn sẽ phải tự nhẩm trong đầu. Khi quen rồi, bạn không cần làm thế nữa, cả động tác diễn ra không lời và nhanh chóng. Nên nhớ mục đích của động tác này là dùng để kéo tâm lang thang của bạn về với hơi thở. Bạn thoát ra khỏi tư tưởng bằng cách lập nên một tiêu chuẩn giám sát, khoảng thời gian bị thất niệm. Bao lâu thì không quan trọng. Một khi bạn thoát khỏi vọng tâm rồi, thì bỏ tất cả để trở về với hơi thở, chứ đừng bị trói buộc vào sự ước lượng.

Động tác 2: Hơi thở sâu

Khi tâm của bạn bị rối rendao động, bạn có thể tái lập chánh niệm bằng vài hơi thở sâu và nhanh. Kéo không khí vào thật mạnh và thả ra cũng giống như thế. Động tác này làm tăng thêm xúc cảm bên trong viền mũi và làm cho dễ dàng hơn để trụ lại. Cố ý tạo một động tác thật mạnh và áp đặt sự chú tâm. Sự tập trung có thể thúc đẩy vào sự phát triển, nên nhớ thế, cho nên bạn có lẽ tìm được trọn vẹn sự chú tâm ổn định trở lại vào hơi thở

Động tác 3: Đếm

Đếm hơi thở khi chúng đi ngang qua là cách thức đã có từ lâu đời rồi. Vài trung tâm tu thiền dạy động tác này như là phương cách chính cho họ. Thiền Minh Sát dùng nó như là một kỹ thuật phụ trợ, dùng để tái lập chánh niệm và làm vững mạnh sự tập trung. Như đã nhắc qua ở chương 5, bạn có thể đếm hơi thở theo nhiều cách khác nhau. Nhưng nên nhớ là phải luôn giữ sự chú tâm của bạn vào hơi thở. Bạn có lẽ sẽ nhận thấy sự khác biệt sau khi bạn đã dùng cách đếm. Hơi thở chậm lại hay là nó trở nên rất nhẹ và mỏng. Đây là dấu hiệu sinh lý cho sự tập trung trở nên vững chắc. Ở điểm này, hơi thở đang thật nhẹ hay là thật nhanh và êm đến nỗi bạn không thể nào phân biệt hít và thở. Chúng chừng như trộn lẫn vào nhau. Lúc này bạn có thể đếm cả hai cho một lần. Tiếp tục đếm nhưng chỉ đếm tới năm thôi, rồi bắt đầu trở lại. Khi đếm trở thành bất tiện, thì bỏ đếm đi mà chỉ khái niệm quá trình hít-thở, hòa nhập vào cảm giác tinh khiết của hơi thở. Hít hòa lẫn với thở, một hơi thở trộn lẫn với hơi kế tiếp như vô tận, tinh khiếttrôi chảy.

Động tác 4: Niệm ra-vào 

Động tác này thay thế cho cách đếm và chức năng thì cũng tương tự. Chỉ hướng sự chú tâm của bạn vào hơi thở và đặt tên trong tâm cho mỗi chu kỳ với “hít…thở” hay “vào…ra”. Tiếp tục cho đến khi nào bạn không cần nữa thì dừng lại.

Động tác 5: Vô hiệu hóa một tư tưởng bằng tư tưởng khác

Vài tư tưởng cứ quanh quẩn mãi, vì loài người chúng ta thì luôn bị ám ảnh, cho nên nó là một trong những vấn đề trọng đại cần phải giải quyết. Chúng ta có chiều hướng dính mắc vào những thứ như: tình dục hoang tưởng, lo âu, và hoài bão. Chúng ta nuôi dưỡng những nỗi lo sợ ám ảnh này qua nhiều năm tháng và cho chúng nhiều cơ hội rèn luyện, bằng cách chơi đùa với chúng mỗi khi chúng ta rảnh rỗi. Để rồi, khi ngồi xuống tọa thiền, chúng ta yêu cầu chúng đi chỗ khác cho mình được yên; nhưng lấy làm ngạc nhiên một cách lạnh lùng chúng không vâng lời chúng ta. Tư tưởng dai dẵng như thế này đòi hỏi một phương pháp trực tiếp, một sự tấn công toàn bộ đúng cỡ một cách trực diện.

Tâm lý học phật giáo đã phát triển thành một hệ thống riêng biệt. Thay vì phân chia tư tưởng ra nhiều loại như “tốt” hay “xấu”, những nhà tư tưởng Phật giáo thích đánh giá chúng như là “khéo léo” trái lại với “vụng về”. Một tư tưởng “vụng về” thì có liên hệ với tham lam, sân hận, hay si mê. Những tư tưởng này tạo cho tâm dễ rơi vào tình trạng bị ám ảnh. Chúng vụng về theo cách hiểu là chúng sẽ đưa chúng ta rời xa hơn mục đích giải thoát. Còn tư tưởng khéo léo thì lại khác, chúng tương quan với lòng bao dung, lòng bi mẫn, và trí tuệ. Khéo léo theo ý nghĩa là có thể dùng để đối trị những tư tưởng vụng về, và giúp cho chúng ta tiến dần đến sự giải thoát.

Bạn không thể chế biến ra sự giải thoát. Nó không phải là một trạng thái gầy dựng lên bởi tư tưởng. Bạn cũng không thể nào tạo nên phẩm chất cá nhân để tạo nguyên nhân cho sự giải thoát phát sinh. Tư tưởng từ thiện có thể tạo ra nét nhân từ bên ngoài nhưng nó không thật. Nó sẽ bị sụp đổ bởi sức ép của cuộc đời. Tư tưởng về lòng thương cảm cũng chỉ sinh ra tình thương hại hời hợt mà thôi. Bởi vậy, thực chất của những tư tưởng khéo léo sẽ không giúp chúng ta thoát ra khỏi cái bẫy khái niệm. Chúng thật sự khéo léo chỉ khi nào được dùng như liều thuốc giải độc đối với chất độc của những tư tưởng vụng về. Tư tưởng về lòng bao dung có thể tạm thời vô hiệu hóa lòng tham lam, giống như giữ nó phía dưới tấm thảm nhỏ đủ lâu để nó không ngăn cản chánh niệm làm việc. Sau khi chánh niệm xâm nhập tận gốc rễ của bản ngã, tham lam bị phá tan và lúc đó lòng bao dung thật sự mới có khả năng phát sinh.

Nguyên lý này có thể dùng vào sự tu tập hàng ngày của bạn. Nếu bị sự ám ảnh nào đó làm phiền, bạn có thể vô hiệu hóa nó bằng cách dùng tư tưởng đối nghịch. Ví dụ: Nếu bạn ghét Charlie và không thể nào gạt bỏ gương mặt cau có của anh ta ra khỏi tâm, vậy thì cố gắng hướng dẫn tình thương và sự thân thiện tới Charlie. Bạn có lẽ sẽ gạt bỏ được hình ảnh trong tâm ngay, rồi bạn có thể tiếp tục sự tu tập của mình.

Đôi khi chỉ có mánh lới duy nhất này thôi thì cũng không mang lại kết quả hữu hiệu, vì sự ám ảnh quá mãnh liệt. Trong trường hợp này, phải làm cho nó yếu đi, trước khi bạn có thể lấy lại được thăng bằng. Đây là chỗ cảm giác ray rứt, một trong những yếu điểm nhất của con người, có tác dụng hữu ích. Nhìn thật rõ vào phản ứng tâm lý mà bạn muốn từ bỏ, hãy đắn đo, nhận ra xem, nó làm cho bạn cảm giác ra sao. Nó có tác động gì đối với cuộc đời, hạnh phúc, sức khỏe, mối quan hệ của bạn. Thử nhìn xem nó biến bạn ra sao khi gặp người khác. Nhìn xem cái lối nó ngăn chặn mức tiến bộ của bạn trên đường đi dần đến giải thoát. Trong kinh điển Pali, người xưa khuyến khích bạn nên vô hiệu hóa những tư tưởng vụng về với hết sức mình, khuyên dặn bạn làm việc với những cảm giác của sự kinh tởm, sự nhục nhã, giống như là cảm giác lúc bạn bị đày đi di hành mà phải mang dây kết bởi những xương cốt của thú vật quanh cổ. Nỗi ghét thật sự là những gì bạn theo đuổi. Chỉ bước này đã có thể chấm dứt tất cả vấn đề rồi. Nếu vẫn không có kết quả, thì kế đến, điều chỉnh phần còn xót lại thêm một lần nữa bằng tư tưởng trái ngược cái cảm giác kia. 

Tư tưởng tham (tham lam) bao gồm tất cả mọi thứ có liên hệ tới sự ham muốn, từ hám lợi những vật thể thô tới những thứ vi tế như muốn là một người đạo đức. Tư tưởng ghét (sân hận) đi trọn tiến trình từ sự dễ tức giận những thứ nhỏ nhặt cho tới cơn thịnh nộ đầy khắc nghiệt. Ảo tưởng (si mê) bao gồm những thứ mơ hồ cho tới những ảo giác. Tính rộng lượng đối trị lòng tham. Tính từ thiệnlòng bi mẫn đối trị sân hận. Bạn có thể tìm thấy liều giải độc thích hợp cho bất kỳ tư tưởng nào tạo ra vấn đề, nếu bạn chịu suy nghĩ về nó một chút. 

Động tác 6: Nhớ lại mục tiêu của bạn

Có đôi khi sự việc nhảy vào tâm của bạn, có lúc bắt được mà có lúc lại không. Những từ ngữ, lời nói, hay mẫu chuyện nhảy vọt ra từ trong vô thức mà không hiểu nguyên do ở đâu. Nhiều đối tượng xuất hiện; hình ảnh chợt ẩn, chợt hiện. Những kinh nghiệm này thật là bứt rứt. Tâm của bạn giống như là lá cờ bị gió mạnh thổi quần quật; nó nhấp nhô như sóng nước trong đại dương. Ở thời điểm này thì bạn chỉ cần nhớ lại là tại sao bạn đang ngồi đây. Bạn có thể tự nói với mình, “Ta không phải ngồi đây chỉ để hoang phí thời gian của mình cho những tư tưởng này. Ta ngồi đây để tập trung tâm mình vào hơi thở, là tiến trình chung xảy ra cho muôn loài.” Đôi khi tâm của bạn lắng xuống lập tức ngay trong lúc bạn đang tự nhắc lòng. Cũng có lúc bạn phải nhắc đi nhắc lại nhiều lần trước khi tập trung trở về hơi thở.

Phương pháp này có thể dùng riêng hay phối hợp với những động tác khác. Dùng những động tác này một cách đúng đắn, chúng sẽ tạo thành một kho vũ khí có hiệu lực cho trận chiến của bạn đối với cái tâm viên ý mã kia.


Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 18400)
Truyền thuyết “Niêm hoa vi tiếu” không biết có từ lúc nào, chỉ thấy ghi chép thành văn vào đời Tống (960-1127) trong “Tông môn tạp lục” mục “Nhơn thiên nhãn”...
(Xem: 19875)
"Đây là con đường duy nhất để thanh lọc tâm, chấm dứt lo âu, phiền muộn, tiêu diệt thân bệnh và tâm bệnh, đạt thánh đạochứng ngộ Niết Bàn. Đó là Tứ Niệm Xứ".
(Xem: 19579)
Để diệt trừ cái khổ, người ta phải nhận ra bản chất nội tại của vấn đề khổ. Mà để được vậy, trước hết người ta phải cần có một cái tâm an tịnh...
(Xem: 33470)
Những lúc vô sự, người góp nhặt thường dạo chơi trong các vườn Thiền cổ kim đông tây. Tiêu biểu là các vườn Thiền Trung Hoa, Việt Nam, Nhật Bản và Hoa Kỳ.
(Xem: 34565)
Không thể có một bậc Giác Ngộ chứng nhập Niết Bàn mà chưa hiểu về mình và chưa thấy rõ gốc cội khổ đau của mình.
(Xem: 54577)
Muốn thực sự tiếp xúc với thực tại, cho dù đó bất cứ là gì, chúng ta phải biết cách dừng lại trong kinh nghiệm của mình, lâu đủ để nó thấm sâu vào và lắng đọng xuống...
(Xem: 37779)
Thực hành thiền trong Đạo Phật rốt ráo là để Thực Nghiệm sự thật VÔ NGÃđức Phật đã giác ngộ (khám phá). Đó cũng là để chứng thực KHÔNG TÁNH của vạn pháp.
(Xem: 21179)
Do bốn niệm xứ được tu tập, được làm cho sung mãn, thưa Hiền giả, khi Như Lai nhập Niết-bàn, Diệu pháp được tồn tại lâu dài.
(Xem: 17924)
Đức Phật khám phá ra rằng một tâm hạnh phúc nhất là tâm không bị dính mắc. Đây là một niềm hạnh phúc rất sâu sắc, khác hẳn với những gì chúng ta vẫn thường biết.
(Xem: 63736)
Đàn Kinh được các môn đệ của Huệ Năng nhìn nhận đã chứa đựng giáo lý tinh nhất của Thầy mình, và giáo lý được lưu truyền trong hàng đệ tử như là một di sản tinh thần...
(Xem: 17433)
Thiền giữ vai trò rất quan trọng trong đạo Phật. "Ngay cơ sở của Phật giáo, tất cả đều là kết quả của sự khảo sát về Thiền, và nhờ có tư duy về Thiền mà Phật giáo mới được thể nghiệm hóa...
(Xem: 49723)
Khi ta phát triển định tâm, ta sẽ có thể giữ những chướng ngại tạm thời ở một bên. Khi những chướng ngại được khắc phục, tâm ta trở nên rõ ràng trong sáng.
(Xem: 16893)
Thiền có nghĩa là tỉnh thức: thấy biết rõ ràng những gì anh đang làm, những gì anh đang suy nghĩ, những gì anh đang cảm thọ; biết rõ mà không lựa chọn...
(Xem: 16406)
Bất kì ai cũng có khả năng giác ngộ nếu có khát vọng. Khát vọng hướng về mẫu số chung “tự tri-tỉnh thức-vô ngã”, khát vọng đó là minh sư vĩ đại nhất của chính mình.
(Xem: 14512)
Thiền tông, nói mây, nói cuội, nói chuyện nghịch đời… chẳng qua đối duyên khai ngộ, để phá cho được cái dòng vọng tưởng tương tục của người, hy vọng ngay đó người nhận ra “chân”...
(Xem: 22508)
Nhờ thiền sư Munindra tận tâm hướng dẫn chu đáo từng bước một nên bà tiến bộ rất nhanh chóng. Đi từ cấp thiền cổ điển đến tiến bộ trong chánh niệm (progress insight).
(Xem: 57041)
Tập sách Thiền và Bát-nhã này là phần trích Luận Năm và Luận Sáu, trong bộ Thiền luận, tập hạ, của D. T. Suzuki. Tập này gồm các thiên luận về Hoa nghiêm và Bát-nhã.
(Xem: 13884)
Giác ngộ không phải là cầu toàn, vì càng cầu toàn con càng khổ đau thất vọng, mà là cần thấy ra bản chất bất toàn của cuộc sống. Chỉ cần vừa đủ trầm tĩnh sáng suốt...
(Xem: 29049)
Đức Phật dạy rằng hạnh phúcvấn đề thiết thực hiện tại, không phải là những ước mơ đẹp đẽ cho tương lai, hay những kỷ niệm êm đềm trong quá khứ.
(Xem: 33362)
Thầy bảo: “Chuyện vi tiếu nếu nghe mà không thấy thì cứ để vậy rồi một ngày kia sẽ thấy, tự khám phá mới hay chứ giải thích thì còn hứng thú gì.
(Xem: 38428)
Sở dĩ chúng ta mãi trôi lăn trong luân hồi sinh tử, phiền não khổ đau là vì thân tâm luôn hướng ngoại tìm cầu đối tượng của lòng tham muốn. Được thì vui mừng, thích thú...
(Xem: 31270)
Nếu không có cái ta ảo tưởng xen vào thì pháp vốn vận hành rất hoàn hảo, tự nhiên, và tánh biết cũng biết pháp một cách hoàn hảo, tự nhiên, vì đặc tánh của tâm chính là biết pháp.
(Xem: 13940)
Thực tế, thì căn bản của sự thực thiền của các hành giả chân chánh là khám phá ra những hành động nào đem lại khổ đau hoặc hạnh phúc. Sau đó, tránh các hành động gây nghiệp...
(Xem: 14645)
Thực hành phát triển Định Tuệ sẽ xa dần các tà kiến và các thiên chấp; sẽ sống với nhân cách tự-do-tinh-thần; cởi bỏ gánh nặng nô lệ thị phi, tập tục.
(Xem: 14317)
“Phản văn văn tự tánh” là “quay cái nghe nghe tự tánh”. Tự tánhthực thể đang nghe đang thấy đang biết, đồng thời đang tự biết tự thấy…
(Xem: 12661)
Hành thiền, cốt tuỷ nhất, là tự tri, là quán tâm. Học Thiền, tức học đạogiác ngộ, cốt tuỷ nhất là nương ngôn từ để thấy biết trạng thái tâm trí.
(Xem: 14849)
Tôi có một số kinh nghiệm vững chắc về định, tĩnh, và quán tưởng. Điều đó thúc đẩy tôi đến với Thiền Minh Sát. Các tu sĩ ở đây khuyến khích tôi xuất gia.
(Xem: 19226)
Nếu thấy tất cả con người, muôn vật đều hư giả, tạm bợ thì không còn tham sân nữa. Mình không thật, có ai chửi mình cũng không giận. Cái tôi không thật, lời chửi thật được sao...
(Xem: 13848)
Trong Phật giáo có những phương pháp dùng để thực hành Thiền từ bi. Các thiền giả nhằm khích động lòng từ bi đối với tất cả chúng sinh...
(Xem: 12698)
Thế giới, với người ngộ đạo, đã được lộn trái trở lại: sanh tử lộn ngược thành Niết Bàn. Đời sốngý nghĩakhông tịch. Đời sống là sự biểu hiện của tính sáng.
(Xem: 30442)
Thiền Quán là tri nhận Giác Thức thành Giác Trí. Giác Thức và Giác Trí được quán tưởng theo thời gian. Khi Tưởng Tri thì Thức và Trí luôn nối tiếp nhau làm cho ta có tư tưởng...
(Xem: 11861)
Cuộc cách mạng thực tập Thiền Chánh Niệm bắt đầu bằng một động tác giản dị là chú ý đến hơi thở, cảm thọ trong thân và tâm, nhưng rõ ràng là có thể đi rất xa.
(Xem: 30708)
Sự giác ngộ đem lại lợi ích thực sự ngay trong kiếp sống này. Khi đề cập đến Pháp hành ta nhất thiết phải tìm hiểu qui trình tu tập hợp lý và hợp với giáo huấn của Đức Phật.
(Xem: 29428)
“Chẳng có ai cả” là một tuyển tập những lời dạy ngắn gọn, cô đọng và thâm sâu nhất của Ajahn Chah, vị thiền sư lỗi lạc nhất thế kỷ của Thái Lan về pháp môn Thiền Minh Sát.
(Xem: 30642)
Thiện tri thức! Tâm lượng quảng đại, biến mãn khắp pháp giới, về dụng thì mỗi mỗi phân minh, ứng dụng ra thì biết được tất cả là một, một là tất cả... Thích Nữ Trí Hải dịch
(Xem: 31257)
Bên ngoài xa lìa các tướng gọi là “thiền”, bên trong không loạn gọi là “định”. Bên ngoài nếu như tuy có tướng, song bên trong bổn tính vẫn không loạn, thì đó là cái tự tịnh tự định bổn nguyên.
(Xem: 37149)
Thiện tri thức, khi chưa ngộ thì Phật tức chúng sanh, lúc một niệm khai ngộ, chúng sanh tức Phật. Nên biết vạn pháp đều ở nơi tự tâm...
(Xem: 32300)
Này chư Thiện tri thức, cái trí Bồ Đề Bát Nhã, người thế gian vốn tự có, nhưng bởi tâm mê, nên chẳng tự ngộ được... Minh Trực Thiền Sư Việt dịch
(Xem: 23703)
Quyển "THIỀN QUÁN - Tiếng Chuông Vượt Thời Gian" là một chuyên đề đặc biệt giới thiệu về truyền thống tu tập thiền Tứ Niệm Xứ của đức Phật dưới sự hướng dẫn của thiền sư U Ba Khin.
(Xem: 12245)
Thực tập chánh niệm có thể ảnh hưởng tích cực đến nhiều hoạt động của hạch hạnh nhân, khu vực có kích thước bằng hạt đậu nằm ở trung tâm não bộ...
(Xem: 14239)
Thiền Tiệm Ngộpháp hành từ tập trung trí và thức gom vào một đề mục duy nhất, hoặc dùng một đối tượng đặt ra do tư tưởng định trước.
(Xem: 14112)
Khi chấp nhận thực hành thiền, chúng ta phải có niềm tin sâu sắc vào khả năng của tâm chúng ta ngay từ lúc khởi đầu, và phải duy trì niềm tin ấy...
(Xem: 34009)
Nếu tâm chúng ta dịu dàng, nhân ái, hiểu biết, và có sự đồng cảm đối với tha nhân, chúng ta sẽ tu tập tâm từ đến người khác không mấy khó khăn.
(Xem: 27766)
Đức Phật bảo rằng cần có mười lăm đức tính để tự hoàn thiện, để có thể sinh lòng từ bi đối với mọi người quanh ta hay rộng hơn cho đến tất cả nhân loại...
(Xem: 12470)
Không biết tự bao giờ, Trà trở thành thân quen trong nếp sống Thiền gia Phật Giáo Bắc Truyền, rồi trà thành một phần văn hóa của Phật Giáo...
(Xem: 28679)
Sách này đặt tên "Kiến Tánh Thành Phật", nghĩa là sao? Bởi muốn cho người ngưỡng mộ tên này, cần nhận được lý thật của nó. Như kinh nói: "Vì muốn cho chúng sanh khai, thị, ngộ, nhập tri kiến Phật".
(Xem: 29401)
Những bài kinh Phật không có bài nào là không hay. Có miệt mài trên những trang kinh xưa mới cảm được sự vang động của suối nguồn trí tuệ.
(Xem: 12431)
Vị trí cực kỳ quan trọng của Lục Tổ Huệ Năng đối với sự hình thành và phát triển của Thiền tông Trung Quốc đã khiến các đệ tử Phật môn luôn nhắc về ông...
(Xem: 29267)
Trong sách này Ngài Sayadaw diễn tả đầy đủ phương pháp quán niệmgiải thích với đầy đủ chi tiết đường lối suy tư về lý vô ngã có thể dẫn đến mức độ thành tựu Niết Bàn.
(Xem: 28061)
Vào năm 1986-1987 Hòa Thượng giảng Kinh Nguyên Thủy; đối chiếu Kinh Pali (dịch ra Việt Ngữ) và A Hàm tại Thường Chiếu giúp cho Thiền sinh thấy rõ nguồn mạch Phật Pháp từ Nguyên Thủy đến Đại ThừaThiền Tông.
(Xem: 25711)
Con đường thiền tậpchánh niệm tỉnh giác, chứng nghiệm vào thực tại sống động. Khi tâm an định, hành giả có sự trầm tĩnh sáng suốt thích nghi với mọi hoàn cảnh thuận nghịch...
(Xem: 26074)
Cuốn Ba Thiền Sư ghi lại cuộc đời của Ikkyu Sojun (1394-1481), Hakuin Ekaku (1686-1768), và Ryokan Taigu (1758-1831). Mỗi vị Sư đều hiển lộ Thiền Tông trong cách riêng.
(Xem: 22302)
Với người đã mở mắt đạo thì ngay nơi “sắc” hiện tiền đó mà thấy suốt không chướng ngại, không ngăn che, nên mặc dù Sắc có đó vẫn như không, không một chút dấu vết mê mờ...
(Xem: 33180)
Thiền Tông nhấn mạnh vào mặt kinh nghiệm cá nhân, nhắm đưa từng con người chúng ta giáp mặt trực tiếp với chân lý trong ngay chính hoàn cảnh hiện tiền của chúng ta.
(Xem: 31840)
Các pháp thế gian đều kỵ chấp trước, chỗ qui kính của Thích tử không ai bằng Phật mà có khi vẫn phải quở. Bởi có ta mà không kia, do ta mà không do kia vậy.
(Xem: 39620)
Quả thật, chân lý thiền vốn ở ngay nơi người, ngay trong tự tâm chúng ta đây thôi. Vậy ai có tâm thì chắc chắc có thiền, không nghi ngờ gì nữa.
(Xem: 22477)
Bắt đầu bằng cách bỏ qua một bên tất cả những mối quan tâm ở bên ngoài, và quay vào quán sát nội tâm cho đến khi ta biết tâm trong sáng hay ô nhiễm, yên tĩnh hay tán loạn như thế nào.
(Xem: 34513)
Đây là phần thứ 2 trong 3 phần chính của cuốn Zen no Rekishi (Lịch Sử Thiền) do giáo sư Ibuki Atsushi soạn, xuất bản lần đầu tiên năm 2001 tại Tôkyô.
(Xem: 27383)
Thật ra chân lý nó không nằm ở bên đúng hay bên sai, mà nó vượt lên trên tất cả đối đãi, chấp trước về hiện hữu của Nhị Nguyên. Chân lý là điểm đến, còn hướng đến chân lý có nhiều con đường dẫn đến khác nhau.
(Xem: 28425)
Trong tiếng Phạn (Sanskrit), từ "Thiền" có ngữ nguyên là dhyâna. Người Trung Hoa đã dịch theo âm thành "Thiền na". Ý nghĩa "trầm tư mặc tưởng" của nó từ xưa trong sách vở Phật giáo lại được biểu âm bằng hai chữ yoga (du già).
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant