Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Chương 7: Làm gì đây với Tâm của bạn?

26 Tháng Mười Hai 201000:00(Xem: 7707)
Chương 7: Làm gì đây với Tâm của bạn?

CHÁNH NIỆM CƠ BẢN

Thiền sư: Henepola Gunaratana
Dịch Việt: Lương Thanh Bình

Chương 7: Làm gì đây với Tâm của bạn?

Phương pháp tu tậpchúng tôi phổ biến ở đây là trau dồi Thiền Tuệ. Như đã nhắc qua, đề mục thiền thì muôn hình vạn trạng và loài người đã dùng qua bao thời gian. Vỏn vẹn trong pháp tu thiền Minh Sát đã có bao thứ bất đồng rồi. Có những vị thầy dạy các thiền sinh theo dõi hơi thở, bằng cách nhìn chuyển động phồng xẹp nơi bụng. Cũng có vài người lại khuyến khích tập trung chú ý vào nơi xúc chạm của thân với tọa cụ, hay tay này chạm vào tay kia, hay cảm xúc của chân này vào chân kia. Tuy thế, ở đây chúng tôi đơn thuần theo cách mà đức Phật đã dạy thưở xưa. Trong kinh Đại Niệm Xứ, đức Phật đã nhấn mạnh nhiều lần rằng, thiền sinh phải bắt đầu chú tâm vào hơi thở, để rồi tiếp sau đó ghi nhận tất cả những hiện tượng sinh khởi nơi thân và tâm. 

Chúng ta ngồi, theo dõi dòng hơi thở ra-vào nơi mũi. Ở lúc ban đầu, xem chừng như đây là một việc làm vô ích và dị hợm nếu không muốn nói là điên. Trước khi đi xa hơn, hãy kiểm nghiệm xem cái nguyên nhân đằng sau việc làm này. Câu hỏi đầu tiên mà chúng ta có thể đặt ra là: Tại sao dồn tất cả mọi chú tâm? Bởi vì chúng ta muốn phát triển khả năng tỉnh giác. Thế tại sao không chỉ ngồi bất kỳ nơi chốn và tư thế nào đó, rồi nhận biết bất cứ những gì đang xuất hiện trong tâm? Thật ra, đó chính là những gì mà chúng ta muốn đạt đến. Nhưng muốn làm được điều đó thì thật là khó khăn bởi vì tâm thật là gian xảo. Tư tưởng vốn được hình thành theo một đường lối rất phức tạp và khó hiểu. Cho nên chúng ta luôn luôn bị câu thúc, trói buộc, và thao túng bởi dòng tư tưởng không dừng. Từng tư tưởng phát sinh rồi nối đuôi nhau mà dẫn dắt ta đi, để rồi mười lăm phút sau, bất chợt chúng ta giật mình thì nhận ra rằng mình đã sống trong giấc mộng giữa ngày với những điều xa vời tách biệt với cái hiện thật mà mình đang có mặt ở đây.

Có một sự khác biệt giữa “nhận biết một tư tưởng” và “nghĩ ra một tư tưởng”, và sự khác biệt này thì rất vi tế, mà sự quan trọng chỉ là vấn đề cảm giác và kết cấu. Một tư tưởng, mà bạn chỉ đơn thuần nhận biết bằng sự chú tâm, có sự cấu tạo do cảm xúc nhẹ nhàng; có một sự phân cách giữa cái tư tưởng (bị biết) và sự tỉnh giác (chủ thể biết) đang NHẬN BIẾT tư tưởng đó. Sự tỉnh giác thoáng hiện như một cái bóng rồi biến mất đi mà không cần phải tạo nhân duyên điều kiện cho chập tỉnh giác kế tiếp trong cả dòng tư tưởng. “Nghĩ ra một tư tưởng” thì có cấu trúc thô thiển hơn. Nó có tính chậm chạp, tạo ra ấn tượngép buộc. Nó thu hút bạn và điều khiển ý thức. Cái bản chất của nó là làm ám ảnh con ngườidẫn nhập vào dòng tư tưởng một cách liên tục mà không cho có kẻ hở.

Tư tưởng do tác ý tạo nên một sức căng thẳng tương ứng cho thân, chẳng hạn như là tạo ra sự co thắt các cơ bắp hay làm cho nhịp tim đập nhanh lên. Nhưng bạn sẽ không cảm nhận ra sự căng thẳng cho đến khi nào nó tích lũy và lớn dần thành những cơn phẫn uất, bởi vì tư tưởng do tác ý chính là hóa thân của tham lam. Nó tóm lấy tất cả tỉnh giác của bạn mà không chừa lại chút gì để bạn có thể nhận ra cái hậu quả của nó sẽ gây ra. Sự khác biệt giữa “nhận biết một tư tưởng” và “nghĩ ra một tư tưởng” thì rất là thật, nhưng nó quá ư là vi tế và khó thấy. Chỉ có thiền định là dụng cụ giúp cho ta thấy ra sự khác biệt này.

“Định thâm sâu” sẽ làm cho tâm hành chập lại và sự tỉnh giác bén nhạy lên hơn. Cái kết quả là chúng ta rèn luyện cho mình khả năng kiểm soát quá trình hoạt động của tâm hành. Thiền định giống như là một cái kính hiển vi để nhìn những trạng thái vi tế bên trong. Chúng ta tập trung sự chú tâm để đạt đến “Nhất điểm tâm” với sự tĩnh lặng và liên tục giữ sự chú tâm không gián đoạn. Nếu khôngđiểm tựa thì bạn sẽ dễ bị trôi dạt bởi sự thay đổi không ngừng của dòng sinh diệt trong tâm.

Chúng ta dùng hơi thở như là đối tượng tập trung. Nó được dùng như là một điểm tựa quan trọng để khi nào tâm có bị trôi dạt thì sẽ có chổ quay về. Không thể nào cho một trạng thái là “lang thang” nếu tâm không có một căn nhà khi nó rời khỏi. Cho nên, chúng ta phải chọn một điểm tựa chắc chắn so với sự thay đổi không dứt và không mạch lạc trong mọi thời bởi dòng suy nghĩ của tâm.

Trong Kinh tạngso sánh tu thiền với phương cách huấn luyện một con voi hoang. Vào thời buổi xưa ấy, người ta cột con vật chưa thuần kia và một cây cột chắc chắn bằng một sợi dây tốt. Dĩ nhiên việc này không làm cho con voi kia hài lòng tí nào cả. Nó sẽ gầm hét, giẫm mạnh và giật ghì sợi dây qua nhiều ngày. Cuối cùng rồi nó cũng nhận ra là nó không thể nào thoát ra được, cho nên đành phải chấp nhận sự thật. Đến lúc ấy, bạn có thể cho nó ăn và điều khiển nó trong chừng mực sinh hoạt nào đó một cách an toàn để cho quen dần. Giai đoạn kế tới, bạn có thể bỏ đi cây cột và sợi dây mà huấn luyện con voi thêm những hành động mới hơn. Sau cùng, bạn có được một con voi biết nghe lờihiểu ý mình để làm công việc hữu ích. Con voi hoang kia vốn không khác gì cái tâm không thể điều khiển của chúng ta, còn sợi dây kia chính là Chánh niệm, và cây cột kia là đề mục thiền — Hơi thở. Một con voi được huấn luyện tốt có thể làm những chuyện nặng nhọc với năng xuất cao, còn cái tâm được tập trung có thể làm xuyên thủng các lớp ảo tưởng đang che lấp chân lý cuộc đời. Tu thiền là huấn luyện cho tâm.

Câu hỏi kế tiếpchúng ta cần luận bàn là: Tại sao lại chọn hơi thở làm đề mục chính để tu thiền? Tại sao không chọn cái gì đó thích thú hơn? Câu trả lời thì thật là đa dạng. Một đề mục thiền tốt thì phải có khả năng mang lại kết quả cao. Nó nên uyển chuyển, sẵn sàng và tự nhiên. Nó không nên có tính lôi cuốn, trong khi chúng ta muốn buông xả mọi thứ như là tham lam, sân hận, và si mê. Hơi thở có đầy đủ những đặc điểm này và hơn nữa. Hơi thở có tính tổng thể của mọi loài, và chúng ta luôn mang nó theo cho dù bất kỳ nơi nào mình đến. Nó luôn tồn tại, sẵn sàng, và không bao giờ mất cho đến phút giây lìa đời, hơn nữa chúng ta không cần phải mua nó.

Thở thì không phải là một quá trình của khái niệm, chúng tathể kinh nghiệm nó mà không cần có tác ý. Hơn thế nữa, nó là một tiến trình sống, một dạng của đời sống thay đổi không ngừng. Hơi thở vận hành theo chu kỳ — hít vào, thở ra. Nó cũng đồng dạng như một chu kỳ của một đời sống.

Cảm giác của hơi thở thì rất vi tế, nhưng cũng không khó phân biệt ra khi bạn học được cách bắt theo nó, chỉ cần một chút cố gắng. Bất kỳ ai cũng có thể làm được điều này. Chỉ là vấn đề bạn phải thực dụng khả năng của mình vào việc này và đừng có gắng công quá sức. Cho tất cả mọi nguyên do, hơi thở thì đúng là một đề mục thiền lý tưởng nhất. Thông thường thở là một quá trình tự nhiên, nó tiến hành theo chiều hướng riêng của nó mà không cần tác ý gì cả. Nhưng chỉ một biến chuyển nhỏ sẽ có thể làm cho nó chậm lại hay nhanh lên, hoặc có thể làm cho nó dài và bình lặng hay ngắn và dồn dập. Sự khác biệt giữa lối thở tự nhiên và có tính kiềm chế hơi thở thì rất vi tế; và đây cũng chính là bài học quan trọng về tính chất tự nhiên và tính nét cưỡng cầu. Kế đó, ngay nơi viền mũi, bạn có thể có cái nhìn qua khung cửa sổ giữa hai cái thế giới trong đây và ngoài kia. Đó là điểm quan hệ, nơi trao đổi năng lượng từ bên ngoài đi vào, để trở thành một phần của cái mà chúng ta gọi là “Ta” và cũng là phần đi ra để thể nhập vào vũ trụ ngoài kia. Những bài học này dạy cho ta thế nào là “khái niệm tự ngã” và “làm sao chúng ta gầy dựng ra nó.” 

Hơi thởhiện tượng chung của mọi loài. Thấu suốt được quá trình này bằng kinh nghiệm thật sự sẽ mang bạn tới gần hơn những loài sống khác. Bạn sẽ nhận ra sự liên hệ vốn có của mọi loài. Rốt lại, hơi thở là một tiến trình của hiện tại, có nghĩa là nó luôn luôn diễn tiến trong lúc này và ở đây. Chúng ta thì không thường hay sống với hiện tại, mà là hoang phí phần lớn thời gian để hồi tưởng về quá khứ, kỷ niệm hay mơ mộng về những viễn ảnh trong tương lai, hoặc là đốt đời mình cho những nổi lo lắng, bất an hay trù tính kế hoạch cho mai sau. Hơi thở thì không có dính dáng gì với những “ngoài hiện tại” tính toán kia. Khi thật sự quan sát hơi thở là tự động chúng ta đang sống trong hiện tại, là bỏ qua một bên những điều rối rắm, để có được cái kinh nghiệm đơn thuần của phút giây hiện tiền. Theo lối nhìn này thì, hơi thở là một mảnh nhỏ của chân lý đời sống. Chánh niệm quan sát cái thực chất của mô hình nhỏ đời sống, sẽ dẫn ta đến trí tuệ trực giácchúng ta có thể áp dụng nó vào quá trình kinh nghiệm trêm mọi lãnh vực còn lại. 

Bước đầu tiên trong sự quan sát hơi thở như là một đề mục là phải thấy ra nó. Những gì mà bạn đang tìm là sự xúc chạm sinh lý của làn hơi đi ra-vào nơi cánh mũi. Thường là ở ngay bên trong của hai viền mũi, nhưng chính xác thì còn tùy thuộc vào từng cá nhân, do có sự khác biệt về hình dạng của chiếc mũi. Để tìm ra cái điểm cho mình, hãy hít thật mạnh một hơi và cảm nhận xem nơi nào có một sự xúc chạm khác biệt khi luồng hơi đi qua; rồi thở mạnh ra để cảm nhận ra cảm xúc cùng nơi ấy. Điểm này chính là nơi mà bạn cần phải bám lấy trong suốt quá trình của một chu kỳ hơi thở. Một khi bạn đã xác định rồi điểm tựa, thì đừng bao giờ để mình sai lệch nó nữa. Hãy dùng điểm tựa này để giữ sự chú tâm cố định. Nếu khôngđiểm tựa thì bạn sẽ dễ bị lôi cuốn theo dòng hơi thở, hoặc lên xuống hay hoặc ra vào, không ngừng chạy theo hơi thở vì nó luôn luôn thay đổi và lưu chuyển.

Nếu đã từng cưa một tấm ván gỗ thì bạn đã biết được nguyên tắc này. Người thợ mộc không nhìn lưỡi cưa đi lên xuống, mà là giữ chú tâm vào điểm nơi mà răng cưa cắn vào gỗ. Đó là cách duy nhất để có thể cưa một đường thẳng. Cùng thế ấy, thiền giả nên tập trung sự chú tâm vào một điểm nơi có sự xúc chạm ở viền mũi. Điều lợi ích là bạn nhìn được toàn bộ sự chuyển động của hơi thở với tâm tập trung. Đừng bao giờ có ý định điều khiển hơi thở. Đây không phải là cách tập thở trong Yoga. Tập trung một cách tự nhiên và không gượng ép vào sự chuyển động của hơi thở. Đừng cố ý thử điều hòa hay nhấn mạnh nó theo một chiều hướng nào cả. Đây là điều mà những thiền sinh mới thường hay vấp phải. Để giúp cho họ tập trung vào cảm xúc, những thiền sinh mới vô tình làm cho nổi bật hơi thở của mình. Kết quả là đã tạo nên sự ép buộc không tự nhiên, đây là điều kiện cản ngăn sự tập trung chứ không phải đang giúp ích cho định phát sinh. Đừng bao giờ kéo dài hơi thở hay tạo ra âm thanh nhất là đang tu tập trong một nhóm người, sẽ làm quấy rối cho những người chung quanh. Chỉ để hơi thở vận hành một cách thật tự nhiên giống như lúc bạn đang ngủ. Hãy buông xả và để cho cả một tiến trình tự vận hành theo nhịp nhàng của nó.

Nghe qua thì rất ư là dễ dàng phải không? Sự thật thì nó không dễ như là bạn nghĩ đâu, nhưng đừng vội nản lòng, nếu chịu khó một chút thì bạn sẽ tìm ra cách. Hãy dùng nó như là một cơ hội để quan sát bản chất của Ý thức. Xem xét sự quan hệ nội tuyến trong hơi thở, giữa xung lực muốn điều khiển và xung lực không muốn điều khiển hơi thở. Bạn có thể sẽ phải thất vọng trong một thời gian nhưng đây là một giai đoạn nhất định phải đi qua và sự lợi ích mang lại từ quá trình này cũng rất ư là lớn lao. Dần dà rồi hơi thở sẽ trở nên ổn định và bạn không còn cảm thấy có một xung lực nào can dự vào. Lúc này là lúc bạn sẽ học được bài học vĩ đại về sự khát vọng nghịch thường của mình.

Vào lúc tiên khởi, hơi thở dường như là rất bình thường và không có gì đáng lưu ý, nhưng trái lại nó là một tiến trình rất quyến rủ và có một cấu trúc rất ư là to lớn. Nếu bạn chịu nhìn sẽ thấy ra rằng nó có thiên hình vạn trạng. Có giai đoạn hít vào-thở ra, dài-ngắn, sâu-cạn, trôi chảy liên tục và rời rạc hấp tấp. Những thể loại này còn hòa trộn vào nhau theo biết bao phương cách vi tếrắc rối. Hãy quan sát hơi thở thật cặn kẻ. Thật sự nghiên cứu nó. Bạn sẽ thấy ra nhiều mức độ thay đổi và những chu kỳ tái diễn theo các cung cách bất biến. Nó thì cũng giống như một bản giao hưởng. Đừng quan sát những nét thô của hơi thở. Có rất nhiều điều để học hơn là sự hít và thở. Mỗi hơi thở đều có phần đầu, giữa, và cuối. Mỗi tiến trình hít vào đều trải qua giai đoạn: thành, trụ, hoại, diệt; và thở ra cũng giống như thế. Độ sâu và tốc độ của hơi thở tùy thuộc vào trạng thái cảm giác của bạn, tư tưởng thoáng phát sinh trong tâm và âm thanh mà bạn nghe. Hãy nghiên cứu những hiện tượng này, bạn sẽ thấy rằng chúng thật là hấp dẫn.

Những vấn đề này không có nghĩa là bạn nên mãi mê ngồi đó để độc thoại với chính mình trong im lặng: “Đó là hơi thở rời rạc và kia là hơi thở sâu, cái kế sẽ ra sao?” Không nên thế! Đó không phải là thiền Minh Sát, mà đó là bạng đang suy nghĩ. Bạn sẽ gặp phải những tình trạng này nhất là lúc mới bắt đầu tu tập, giai đoạn này thì ai cũng phải trải qua. Chỉ đơn giản ghi nhận hiện tượng này và trở lại sự quan sát hơi thở. Những lúc tâm trôi dạt rồi lại sẽ xảy ra nhiều lần nữa, nhưng bạn chỉ cần kéo tâm về lại với đề mục, hết lần này sang lần khác, cho đến bao giờ tâm không còng lang thang nữa.

Vào lúc bắt đầu tu tập, bạn nên sẵn sàng cho những trở ngại. Tâm của bạn sẽ lang thang, nhảy chuyền như những con ong say rượu nhảy lung tung. Đừng lo, tâm hưu ý vượn vốn là một hiện tượng phổ biến, nó là những gì mà bất cứ hành giả nào cũng phải đối diện và phải vượt qua bằng cách này hay cách khác, và bạn cũng phải như thế. Khi nó xảy ra, đó không phải là bạn đang suy nghĩ, ngủ ngày, lo lắng, hay là bất cứ gì. Uyển chuyển nhưng vững vàng không có gì phải giận dữ, hay phê phán bản thân cho sự lơ là, chỉ đơn giản mang tâm về lại với cảm xúc của hơi thở. Và cứ như thế cho lần sau, và sau đó nữa…

Vào một lúc nào đó trong quá trình tu tập, bạn sẽ phải trực diện trong ngỡ ngàng và bất ngờ, khi hiểu biết ra về sự phi lý và điên rồ của bản thân mình. Trong tiềm thức, bạn sửng sờ, lúng túng như đang bị giam trong một chiếc thùng, mà chiếc thùng kia đang bị lăn cuồng xuống từ ngọn đồi cao một cách vô vọng. Nhưng không sao cả! Bạn cũng không có điên khùng gì hơn ngày hôm qua đâu, bạn luôn vẫn như thế, chỉ có điều là bạn chưa từng nhận thấy ra vấn đề này trong quá khứ mà thôi. Còn thêm điểm này nữa, bạn cũng không điên hơn những người chung quanh mình đâu. Sự khác biệt giữa họ và bạn hiện nay là, bạn đã đối diện với vấn đề này, trong khi họ thì chưa; cho nên họ vẫn cảm thấy tương đối dễ chịu hơn bạn mà thôi. Điều đó không có nghĩa là họ sống tốt hơn bạn. Sự thiếu hiểu biết có thể làm họ vui vẻ tạm thời nhưng không đưa họ tới sự giải thoát, cho nên đừng để sự hiểu biết này làm cho bạn bất an. Đây chính là một giai đoạn, là một dấu hiệu của sự tiến bộ thật sự. Điều rõ ràng nhất là, bạn đang nhìn thẳng vào vấn đề luôn hiện hữu mà không còn bị bịt mắt hay không nhận ra nó như trước kia nữa.

Quan sát hơi thở trong thầm lặng cần phải tránh hai trạng thái: suy nghĩ và trầm mặc. Tâm suy tư là sự biểu lộ của hiện tượng tâm viên ý mã chúng ta đã nói qua ở trên. Tâm trầm mặc thì trái ngược. Theo thiền ngữ thường hay dùng từ “vô ký không” để chỉ trạng thái này, một trạng tháimơ màng màng mà thiếu đi sự tỉnh giác. Nó chỉ là một trạng thái trống rỗng, không tư tưởng nhưng cũng không có chánh niệm, không có sự hiểu biết bất cứ điều gì trong giây phút hiện tại. Nó chỉ là một khoảng trống, một vùng xám gần như là một giấc ngũ gục không có mộng mị vậy thôi. Đây là trạng thái cần phải tránh.

Thiền Minh Sát là một pháp tu năng động. Sức tập trung sâu, năng lực chú tâm dồn hết vào một đề mục. Sự tỉnh giác là sự chú tâm trong sáng rõ ràng. Định và Chánh niệm là hai bộ phận mà chúng ta muốn vun bồi. Vô ký không thì không thuộc trong hai bộ phận này, nó có thể đưa bạn vào trong hôn trầm và làm bạn phí đi thời gian ngồi mà thôi.

Bao giờ bạn nhận ra mình rơi vào trạng thái “vô ký”, thì chỉ cần ghi nhận điều đó rồi mang tâm trở về lại với hơi thở của mình. Quan sát cảm giác xúc chạm của hơi thở lúc ra-vào để xem những gì đang xảy ra. Khi bạn thực hành theo lối này trong một thời gian — nhiều tuần lễ hay nhiều tháng — bạn sẽ bắt đầu cảm nhận cái xúc cảm kia giống như là một thật thể. Hãy thực hành tiếp tục — hít-thở và quan sát, theo dõi những gì đang xảy ra. Bao giờ sự tập trung được sâu hơn thì tâm của bạn ít nhảy chuyền hơn. Lúc đó hơi thở của bạn sẽ chậm dần, cho nên bạn có thể xem xéttỏ tường hơn vì ít bị gián đoạn hơn (phải mang tâm trở về với hơi thở.) Bạn sẽ kinh nghiệm một trạng thái tĩnh lặng mà không còn bị những kích thích bên ngoài gây ảnh hưởng đến. Không có tham lam, thèm khát, đố kỵ, ganh tị hay ghét bỏ. Sự dao động biến mất trong lúc đó và nổi sợ hãi không tồn tại, mà chỉ còn lại một trạng thái tâm vô cùng trong sánghạnh phúc. Đây là một trạng thái tạm thời và nó cũng sẽ mất đi khi bạn xuất thiền. Nhưng dù cho đây chỉ là một kinh nghiệm ngắn ngủi cũng sẽ làm thay đổi cả cuộc đời của bạn. Đây không phải là giải thoát nhưng nó là những bước thang lần theo con đường đi đến giải thoát. Đừng nên kỳ vọng vào trạng thái hạnh phúc tạm thời này. Nhưng muốn đạt được trạng thái này cũng phải mất rất nhiều thời gian, gắng sứckiên nhẫn mới có được. 

Tu thiền không phải là một cuộc tranh tài. Tuy có mục tiêu rõ ràng nhưng không có giới hạn thời gian. Những gì bạn đang làm là đục thủng dần càng lúc càng sâu hơn, xuyên qua nhiều tầng lớp của ảo giác để tiến gần đến sự hiểu biết về chân lý rốt ráo. Tự thân của cái quá trình này đã đầy nét quyến rũ và hoàn hão rồi. Nó rất ư là thích thú cho nên không cần phải vội vã.

Sau một buổi tọa thiền tốt, bạn sẽ có một cái tâm thật thoải mái và trầm lắng. Nó bình an, vui vẻ, và đầy năng lực để áp xử với mọi vấn đề trong đời sống. Bao nhiêu đấy cũng là một phần thưởng to lớn cho mình rồi. Mục đích của tu thiền không phải là để giải quyết vấn đề. Khả năng giải quyết vấn đề là sản phẩm phụ người tu thiền có được trên con đường mà thôi. Nếu đặt quá nặng vào lãnh vực này, bạn sẽ dễ bị đánh mất sự tập trung, vì tâm sẽ xoay qua những vấn đề này trong buổi tọa thiền. Đừng bao giờ nghĩ đến những vấn đề trong lúc tọa thiền, mà hãy khéo léo gác chúng lại qua một bên trong khoảng thời gian này.

Hãy tạm gác lại tất cả những lo âu và trù tính trong lúc này. Xem buổi tọa thiền của bạn như là một giai đoạn nghĩ phép hoàn toàn. Hãy tự tin tưởng vào bản thân mình rằng, rồi đây ta sẽ đối diện với những vấn đề này sau. Còn bây giờ thì nỗ lực, tận dụng với tất cả tinh thần để vun bồi thiền định. Hãy tạo cho mình niềm tin như thế và rồi nó sẽ trở thành sự thật theo thời gian qua quá trình tu tập.

Đừng bao giờ chọn mục tiêu ngoài tầm khả năng. Hãy tử tế với bản thân. Bạn luôn cố gắng theo dõi hơi thở liên tục đừng để sự chú tâm bị gián đoạn. Nghe qua thì rất ư là dễ, cho nên bạn có chiều hướng ép buộc mình ở lúc ban đầu phải tỉ mỉ và chính xác. Nhưng cách này không thực tế chút nào cả, mà là cần có thời gian để tiến từng bước nhỏ một. Lúc ban đầu của cái hít vào, hãy giữ quyết tâm theo một cái hít của hơi thở này mà thôi. Mặc dù nó không phải là dễ dàng nhưng nó vẫn là điều có thể làm được. Kế đó, ở giai đoạn bắt đầu thở ra, giữ quyết tâm theo cái thở ra đó mà thôi cho đến khi nào nó chấm dứt. Rồi bạn sẽ vẫn phải bị thất bại lần này sang lần khác, nhưng hãy cứ tiếp tục thử mà công phu

Mỗi một lần bạn thất bại, thì bắt đầu trở lại. Cứ một lần cho một hơi thở. Thành công hay không là ở giai đoạn này. Hãy phấn đấu với nó — tái lập quyết tâm cho mỗi chu kỳ hơi thở, mỗi một sát-na. Quan sát mỗi hơi thở với tất cả tâm ý (cẩn thậnchính xác), từng giây phút này sang phút giây kế tiếp, với sự quyết tâm vượt bực lên cao hơn. Theo cách này sự tỉnh giác liên tục, không bị đứt quãng, rốt cuộc sẽ phát sinh.

Chánh niệm về hơi thởsự tỉnh giác trong phút giây hiện tại. Khi đang thực hành một cách đúng đắn, bạn chỉ chú tâm vào những gì đang xảy ra trong phút giây hiện tiền. Bạn không nghĩ về quá khứ, cũng không tưởng đến tương lai. Bạn không còn nhớ về hơi thở vừa qua, mà cũng không nhảy vọt ra phía trước để chờ hơi thở sắp đến. Khi bắt đầu hít vào, bạn không chờ trực giai đoạn cuối của tiến trình hít vào và cũng không nhảy vọt lên trước tiến trình để chờ sự thở ra sắp xảy ra. Bạn chỉ hiểu biết những gì đang xảy ra lúc này. Đang hít vào và đó là những gì bạn đang chú tâm tới, thế thôi không có gì khác.

Tu thiền là quá trình huấn luyện sửa chữa tâm. Trạng thái mà bạn đang muốn đến là một trạng thái của tất cả sự chú tâm trọn vẹn vào những gì đang xảy ra trong thế giới cảm giác của riêng mình, chính xác như-nó-là, chính xác đang-nó-là, một sự tỉnh giác hiện tiền trọn vẹn không gián đoạn. Đây là một mục tiêu tối thượng và không thể nào đạt đến nhanh chóng. Nó đòi hỏi sự tu tập và huấn luyện, cho nên chúng ta phải bắt đầu từ những gì thật nhỏ. Chúng ta phải hoàn toàn tỉnh giác về mỗi một sát-na thời gian, chỉ một hơi thở. Khi thực hiện được tốt, bạn sẽ có được một kinh nghiệm hoàn toàn mới về cuộc đời này.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 18400)
Truyền thuyết “Niêm hoa vi tiếu” không biết có từ lúc nào, chỉ thấy ghi chép thành văn vào đời Tống (960-1127) trong “Tông môn tạp lục” mục “Nhơn thiên nhãn”...
(Xem: 19877)
"Đây là con đường duy nhất để thanh lọc tâm, chấm dứt lo âu, phiền muộn, tiêu diệt thân bệnh và tâm bệnh, đạt thánh đạochứng ngộ Niết Bàn. Đó là Tứ Niệm Xứ".
(Xem: 19579)
Để diệt trừ cái khổ, người ta phải nhận ra bản chất nội tại của vấn đề khổ. Mà để được vậy, trước hết người ta phải cần có một cái tâm an tịnh...
(Xem: 33470)
Những lúc vô sự, người góp nhặt thường dạo chơi trong các vườn Thiền cổ kim đông tây. Tiêu biểu là các vườn Thiền Trung Hoa, Việt Nam, Nhật Bản và Hoa Kỳ.
(Xem: 34566)
Không thể có một bậc Giác Ngộ chứng nhập Niết Bàn mà chưa hiểu về mình và chưa thấy rõ gốc cội khổ đau của mình.
(Xem: 54578)
Muốn thực sự tiếp xúc với thực tại, cho dù đó bất cứ là gì, chúng ta phải biết cách dừng lại trong kinh nghiệm của mình, lâu đủ để nó thấm sâu vào và lắng đọng xuống...
(Xem: 37782)
Thực hành thiền trong Đạo Phật rốt ráo là để Thực Nghiệm sự thật VÔ NGÃđức Phật đã giác ngộ (khám phá). Đó cũng là để chứng thực KHÔNG TÁNH của vạn pháp.
(Xem: 21185)
Do bốn niệm xứ được tu tập, được làm cho sung mãn, thưa Hiền giả, khi Như Lai nhập Niết-bàn, Diệu pháp được tồn tại lâu dài.
(Xem: 17925)
Đức Phật khám phá ra rằng một tâm hạnh phúc nhất là tâm không bị dính mắc. Đây là một niềm hạnh phúc rất sâu sắc, khác hẳn với những gì chúng ta vẫn thường biết.
(Xem: 63739)
Đàn Kinh được các môn đệ của Huệ Năng nhìn nhận đã chứa đựng giáo lý tinh nhất của Thầy mình, và giáo lý được lưu truyền trong hàng đệ tử như là một di sản tinh thần...
(Xem: 17433)
Thiền giữ vai trò rất quan trọng trong đạo Phật. "Ngay cơ sở của Phật giáo, tất cả đều là kết quả của sự khảo sát về Thiền, và nhờ có tư duy về Thiền mà Phật giáo mới được thể nghiệm hóa...
(Xem: 49726)
Khi ta phát triển định tâm, ta sẽ có thể giữ những chướng ngại tạm thời ở một bên. Khi những chướng ngại được khắc phục, tâm ta trở nên rõ ràng trong sáng.
(Xem: 16894)
Thiền có nghĩa là tỉnh thức: thấy biết rõ ràng những gì anh đang làm, những gì anh đang suy nghĩ, những gì anh đang cảm thọ; biết rõ mà không lựa chọn...
(Xem: 16409)
Bất kì ai cũng có khả năng giác ngộ nếu có khát vọng. Khát vọng hướng về mẫu số chung “tự tri-tỉnh thức-vô ngã”, khát vọng đó là minh sư vĩ đại nhất của chính mình.
(Xem: 14512)
Thiền tông, nói mây, nói cuội, nói chuyện nghịch đời… chẳng qua đối duyên khai ngộ, để phá cho được cái dòng vọng tưởng tương tục của người, hy vọng ngay đó người nhận ra “chân”...
(Xem: 22508)
Nhờ thiền sư Munindra tận tâm hướng dẫn chu đáo từng bước một nên bà tiến bộ rất nhanh chóng. Đi từ cấp thiền cổ điển đến tiến bộ trong chánh niệm (progress insight).
(Xem: 57043)
Tập sách Thiền và Bát-nhã này là phần trích Luận Năm và Luận Sáu, trong bộ Thiền luận, tập hạ, của D. T. Suzuki. Tập này gồm các thiên luận về Hoa nghiêm và Bát-nhã.
(Xem: 13884)
Giác ngộ không phải là cầu toàn, vì càng cầu toàn con càng khổ đau thất vọng, mà là cần thấy ra bản chất bất toàn của cuộc sống. Chỉ cần vừa đủ trầm tĩnh sáng suốt...
(Xem: 29050)
Đức Phật dạy rằng hạnh phúcvấn đề thiết thực hiện tại, không phải là những ước mơ đẹp đẽ cho tương lai, hay những kỷ niệm êm đềm trong quá khứ.
(Xem: 33364)
Thầy bảo: “Chuyện vi tiếu nếu nghe mà không thấy thì cứ để vậy rồi một ngày kia sẽ thấy, tự khám phá mới hay chứ giải thích thì còn hứng thú gì.
(Xem: 38428)
Sở dĩ chúng ta mãi trôi lăn trong luân hồi sinh tử, phiền não khổ đau là vì thân tâm luôn hướng ngoại tìm cầu đối tượng của lòng tham muốn. Được thì vui mừng, thích thú...
(Xem: 31272)
Nếu không có cái ta ảo tưởng xen vào thì pháp vốn vận hành rất hoàn hảo, tự nhiên, và tánh biết cũng biết pháp một cách hoàn hảo, tự nhiên, vì đặc tánh của tâm chính là biết pháp.
(Xem: 13940)
Thực tế, thì căn bản của sự thực thiền của các hành giả chân chánh là khám phá ra những hành động nào đem lại khổ đau hoặc hạnh phúc. Sau đó, tránh các hành động gây nghiệp...
(Xem: 14645)
Thực hành phát triển Định Tuệ sẽ xa dần các tà kiến và các thiên chấp; sẽ sống với nhân cách tự-do-tinh-thần; cởi bỏ gánh nặng nô lệ thị phi, tập tục.
(Xem: 14317)
“Phản văn văn tự tánh” là “quay cái nghe nghe tự tánh”. Tự tánhthực thể đang nghe đang thấy đang biết, đồng thời đang tự biết tự thấy…
(Xem: 12662)
Hành thiền, cốt tuỷ nhất, là tự tri, là quán tâm. Học Thiền, tức học đạogiác ngộ, cốt tuỷ nhất là nương ngôn từ để thấy biết trạng thái tâm trí.
(Xem: 14851)
Tôi có một số kinh nghiệm vững chắc về định, tĩnh, và quán tưởng. Điều đó thúc đẩy tôi đến với Thiền Minh Sát. Các tu sĩ ở đây khuyến khích tôi xuất gia.
(Xem: 19226)
Nếu thấy tất cả con người, muôn vật đều hư giả, tạm bợ thì không còn tham sân nữa. Mình không thật, có ai chửi mình cũng không giận. Cái tôi không thật, lời chửi thật được sao...
(Xem: 13849)
Trong Phật giáo có những phương pháp dùng để thực hành Thiền từ bi. Các thiền giả nhằm khích động lòng từ bi đối với tất cả chúng sinh...
(Xem: 12698)
Thế giới, với người ngộ đạo, đã được lộn trái trở lại: sanh tử lộn ngược thành Niết Bàn. Đời sốngý nghĩakhông tịch. Đời sống là sự biểu hiện của tính sáng.
(Xem: 30444)
Thiền Quán là tri nhận Giác Thức thành Giác Trí. Giác Thức và Giác Trí được quán tưởng theo thời gian. Khi Tưởng Tri thì Thức và Trí luôn nối tiếp nhau làm cho ta có tư tưởng...
(Xem: 11861)
Cuộc cách mạng thực tập Thiền Chánh Niệm bắt đầu bằng một động tác giản dị là chú ý đến hơi thở, cảm thọ trong thân và tâm, nhưng rõ ràng là có thể đi rất xa.
(Xem: 30709)
Sự giác ngộ đem lại lợi ích thực sự ngay trong kiếp sống này. Khi đề cập đến Pháp hành ta nhất thiết phải tìm hiểu qui trình tu tập hợp lý và hợp với giáo huấn của Đức Phật.
(Xem: 29429)
“Chẳng có ai cả” là một tuyển tập những lời dạy ngắn gọn, cô đọng và thâm sâu nhất của Ajahn Chah, vị thiền sư lỗi lạc nhất thế kỷ của Thái Lan về pháp môn Thiền Minh Sát.
(Xem: 30645)
Thiện tri thức! Tâm lượng quảng đại, biến mãn khắp pháp giới, về dụng thì mỗi mỗi phân minh, ứng dụng ra thì biết được tất cả là một, một là tất cả... Thích Nữ Trí Hải dịch
(Xem: 31258)
Bên ngoài xa lìa các tướng gọi là “thiền”, bên trong không loạn gọi là “định”. Bên ngoài nếu như tuy có tướng, song bên trong bổn tính vẫn không loạn, thì đó là cái tự tịnh tự định bổn nguyên.
(Xem: 37150)
Thiện tri thức, khi chưa ngộ thì Phật tức chúng sanh, lúc một niệm khai ngộ, chúng sanh tức Phật. Nên biết vạn pháp đều ở nơi tự tâm...
(Xem: 32304)
Này chư Thiện tri thức, cái trí Bồ Đề Bát Nhã, người thế gian vốn tự có, nhưng bởi tâm mê, nên chẳng tự ngộ được... Minh Trực Thiền Sư Việt dịch
(Xem: 23703)
Quyển "THIỀN QUÁN - Tiếng Chuông Vượt Thời Gian" là một chuyên đề đặc biệt giới thiệu về truyền thống tu tập thiền Tứ Niệm Xứ của đức Phật dưới sự hướng dẫn của thiền sư U Ba Khin.
(Xem: 12245)
Thực tập chánh niệm có thể ảnh hưởng tích cực đến nhiều hoạt động của hạch hạnh nhân, khu vực có kích thước bằng hạt đậu nằm ở trung tâm não bộ...
(Xem: 14239)
Thiền Tiệm Ngộpháp hành từ tập trung trí và thức gom vào một đề mục duy nhất, hoặc dùng một đối tượng đặt ra do tư tưởng định trước.
(Xem: 14113)
Khi chấp nhận thực hành thiền, chúng ta phải có niềm tin sâu sắc vào khả năng của tâm chúng ta ngay từ lúc khởi đầu, và phải duy trì niềm tin ấy...
(Xem: 34013)
Nếu tâm chúng ta dịu dàng, nhân ái, hiểu biết, và có sự đồng cảm đối với tha nhân, chúng ta sẽ tu tập tâm từ đến người khác không mấy khó khăn.
(Xem: 27766)
Đức Phật bảo rằng cần có mười lăm đức tính để tự hoàn thiện, để có thể sinh lòng từ bi đối với mọi người quanh ta hay rộng hơn cho đến tất cả nhân loại...
(Xem: 12473)
Không biết tự bao giờ, Trà trở thành thân quen trong nếp sống Thiền gia Phật Giáo Bắc Truyền, rồi trà thành một phần văn hóa của Phật Giáo...
(Xem: 28680)
Sách này đặt tên "Kiến Tánh Thành Phật", nghĩa là sao? Bởi muốn cho người ngưỡng mộ tên này, cần nhận được lý thật của nó. Như kinh nói: "Vì muốn cho chúng sanh khai, thị, ngộ, nhập tri kiến Phật".
(Xem: 29403)
Những bài kinh Phật không có bài nào là không hay. Có miệt mài trên những trang kinh xưa mới cảm được sự vang động của suối nguồn trí tuệ.
(Xem: 12433)
Vị trí cực kỳ quan trọng của Lục Tổ Huệ Năng đối với sự hình thành và phát triển của Thiền tông Trung Quốc đã khiến các đệ tử Phật môn luôn nhắc về ông...
(Xem: 29268)
Trong sách này Ngài Sayadaw diễn tả đầy đủ phương pháp quán niệmgiải thích với đầy đủ chi tiết đường lối suy tư về lý vô ngã có thể dẫn đến mức độ thành tựu Niết Bàn.
(Xem: 28063)
Vào năm 1986-1987 Hòa Thượng giảng Kinh Nguyên Thủy; đối chiếu Kinh Pali (dịch ra Việt Ngữ) và A Hàm tại Thường Chiếu giúp cho Thiền sinh thấy rõ nguồn mạch Phật Pháp từ Nguyên Thủy đến Đại ThừaThiền Tông.
(Xem: 25717)
Con đường thiền tậpchánh niệm tỉnh giác, chứng nghiệm vào thực tại sống động. Khi tâm an định, hành giả có sự trầm tĩnh sáng suốt thích nghi với mọi hoàn cảnh thuận nghịch...
(Xem: 26075)
Cuốn Ba Thiền Sư ghi lại cuộc đời của Ikkyu Sojun (1394-1481), Hakuin Ekaku (1686-1768), và Ryokan Taigu (1758-1831). Mỗi vị Sư đều hiển lộ Thiền Tông trong cách riêng.
(Xem: 22306)
Với người đã mở mắt đạo thì ngay nơi “sắc” hiện tiền đó mà thấy suốt không chướng ngại, không ngăn che, nên mặc dù Sắc có đó vẫn như không, không một chút dấu vết mê mờ...
(Xem: 33180)
Thiền Tông nhấn mạnh vào mặt kinh nghiệm cá nhân, nhắm đưa từng con người chúng ta giáp mặt trực tiếp với chân lý trong ngay chính hoàn cảnh hiện tiền của chúng ta.
(Xem: 31841)
Các pháp thế gian đều kỵ chấp trước, chỗ qui kính của Thích tử không ai bằng Phật mà có khi vẫn phải quở. Bởi có ta mà không kia, do ta mà không do kia vậy.
(Xem: 39623)
Quả thật, chân lý thiền vốn ở ngay nơi người, ngay trong tự tâm chúng ta đây thôi. Vậy ai có tâm thì chắc chắc có thiền, không nghi ngờ gì nữa.
(Xem: 22479)
Bắt đầu bằng cách bỏ qua một bên tất cả những mối quan tâm ở bên ngoài, và quay vào quán sát nội tâm cho đến khi ta biết tâm trong sáng hay ô nhiễm, yên tĩnh hay tán loạn như thế nào.
(Xem: 34514)
Đây là phần thứ 2 trong 3 phần chính của cuốn Zen no Rekishi (Lịch Sử Thiền) do giáo sư Ibuki Atsushi soạn, xuất bản lần đầu tiên năm 2001 tại Tôkyô.
(Xem: 27387)
Thật ra chân lý nó không nằm ở bên đúng hay bên sai, mà nó vượt lên trên tất cả đối đãi, chấp trước về hiện hữu của Nhị Nguyên. Chân lý là điểm đến, còn hướng đến chân lý có nhiều con đường dẫn đến khác nhau.
(Xem: 28426)
Trong tiếng Phạn (Sanskrit), từ "Thiền" có ngữ nguyên là dhyâna. Người Trung Hoa đã dịch theo âm thành "Thiền na". Ý nghĩa "trầm tư mặc tưởng" của nó từ xưa trong sách vở Phật giáo lại được biểu âm bằng hai chữ yoga (du già).
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant