Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Chương 9: Tổ chức sự Tu tập

26 Tháng Mười Hai 201000:00(Xem: 9261)
Chương 9: Tổ chức sự Tu tập

CHÁNH NIỆM CƠ BẢN

Thiền sư: Henepola Gunaratana
Dịch Việt: Lương Thanh Bình

Chương 9: Tổ chức sự Tu tập

Ở những quốc gia theo truyền thống Phật giáo nguyên thủy, theo phong tục họ bắt đầu mỗi buổi tu tập bằng một nghi thức cơ bản đã định. Người Mỹ thì xem nhẹ những lời cầu khẩn này và cho chúng là những nghi lễ vô hại chứ không gì khác hơn. Cái nghi lễ đã được đặt ra và cải tiến qua quá trình thực dụng bởi những người đi trước và họ đã đạt đến được những kết quả trên con đường tu tập thì cũng rất ư là đáng giá cho chúng ta suy ngẫm sâu hơn để học hỏi

Đức Phật đã từng cân nhắc sự trái ngược trong thời của người. Đã được sinh ra vào hoàn cảnh xã hộitính cách tín ngưỡngnghi lễ cao độ, mà tư tưởng của người thì có tính bài xích tôn giáo tín ngưỡng triệt để đối với cái xã hội phân biệt giai cấp rõ rệt thời bấy giờ. Đã có nhiều lần, người đã không chấp nhận dùng nghi lễ cho lợi ích của giáo hội mà còn tỏ lập trường cứng rắn về lãnh vực này. Điều này không có nghĩa là nghi lễ thì hoàn toàn không có tác dụng. Nó có nghĩa là, nghi lễtác dụng riêng, nếu bạn xử dụng đúng với thực chất của nó. Còn nếu như tin rằng những lời trong nghi lễ kia sẽ cứu rỗi mình thì bạn chỉ làm tăng thêm sự lệ thuộc mình vào những lời kinh và sự khẩn cầu kia mà thôi. Điều này sẽ mang bạn xa dần thực chất của chân lý chứ không đưa bạn đến với sự thật. Do đó, khi thực hành theo những công thức, thì chúng ta phải hiểu thấu đáo chúng là gì và kết quả sẽ ra sao. Chúng không phải là những thần chú, mà chỉ là phương pháp thanh lọc tâm, cho nên cần phải có sự tu tập để mang đến kết quả. Những lời khấn nguyện lầm bầm mà không có sự chú tâm thì hoàn toàn vô ích. Thiền Minh Sát Tuệ là một sinh hoạt tâm lý năng động tinh vitrạng thái tâm lý của thiền giả thì rất quan trọng để dẫn đến sự thành công. Phương pháp chỉ mang lại kết quả tốt nhất trong trạng thái trầm ổn, tỉnh lặng và đầy lòng rộng lượng bao dung. Những nghi thức này đã được thiết lập để nuôi dưỡng và dẫn đến những thái độ trên cho người tu tập. Xử dụng đúng đắn, chúng sẽ trở thành những chất xúc tác hữu ích trên con đường đi đến sự giải thoát.

Tam bảo 

Tu thiền là một việc làm rất khó khăn. Nó vốn là một sinh hoạt tự lựcđơn độc. Một cá nhân phải kình chống lại những trở lực mạnh mẽ và to lớn, đây là một bộ phận lớn mà tâm phải trực diện trong khi tu tập. Khi đã thật sự thể nhập vào tiến trình thì bạn sẽ thấy ra rằng, mình phải đối diện với một sự hiểu biết khinh khiếp. Một lúc nào đó bạn sẽ nhìn vào trong và nhận ra được sự tàn ác của chính mình. Đó là những gì mà bạn cố gắng đục xuyên thủng qua, giống như một bức tường dày đặc mà từ lâu chưa có một tia sáng nhỏ qua lọt. Bạn sẽ thấy mình ngồi đó, liếc nhìn vào cái dinh thự này, cái mà bạn tự nhủ với chính mình, “Đó sao? Tôi phải vượt qua cái đó ư? Nhưng không thể nào như thế được! Đó là tất cả những gì tôi có. Thế giới của tôi. Những gì có ý nghĩa đối với tôi. Những gì mà tôi tạo thành và để nhận diện ra cái thế giới chung quanh tôi. Nếu tôi bỏ nó đi, thì toàn thể thế giới của tôi bị hủy diệt và tôi sẽ chết. Tôi không thể nào vượt qua nó. Tôi không thể.”

Đây quả là một cảm giác đáng sợ và rất hiu quạnh. Bạn cảm thấy như là, “Tôi ở đây, chỉ một mình, cố gắng phá tan đi một cái gì to lớn ngoài sự tưởng tượng của tôi.” Để đập tan cái cảm giác đó, thì xin nên hiểu biết rằng, không phải chỉ một mình bạn là như thế. Những người xưa kia cũng từng trải qua lối này. Họ phải trực diện với những trở lực giống như thế này và họ đã phá tan chúng đi để thấy được ánh sáng. Họ kiến lập ra những qui lệ giúp cho công việc có thể hoàn thành, và họ kết lập thành giáo đoàn để giúp đỡ và khích lệ nhau trên cùng con đường. Đức Phật đã tìm ra con đường của người khi xuyên thủng bức tường giống như thế này, và sau người còn có rất nhiều, rất nhiều người khác nữa. Người đã để lại những pháp môn rõ ràng trong Kinh điển để hướng dẫn chúng ta đi theo. Người đã sáng lập ra Tăng đoàn, có những vị thầy để duy trì pháp môn và hướng dẫn những người khác. Bạn không có đơn độc tí nào cả và hoàn cảnh của bạn cũng không phải là vô vọng.

Tu thiền cần rất nhiều năng lực. Bạn cần sự can đảm để đối diện với những hiện tượng tâm lý rất ư là khó khăn và phải có sự quyết tâm ngồi xuyên qua nhiều dạng trạng thái khó chịu. Lười biếng sẽ không mang lại kết quả gì cả. Để có được năng lượng hoàn tất, hãy lập lại nhiều lần câu kệ sau đây với chính mình. Cảm nhận sự chú tâm khi đọc nó. Nghiêm chỉnh với những gì bạn nói.

“Tôi chuẩn bị bước theo con đườngđức Phật và các thánh đệ tử đã đi qua. Người thụ động không thể nào theo nổi con đường này. Tôi sẽ vượt qua. Tôi sẽ đến đích.”

Thiền tâm Từ

Thực hành thiền Minh Sát là sự tu tập trong chánh niệm, tỉnh giác vô ngã. Phương pháp này sẽ làm cho cái bản ngã bị kết liễu bởi ánh sáng thấu suốt của chánh niệm. Thiền sinh bắt đầu quá trình này với cái thân và tâm bị khống chế bởi cái ngã. Sau đó, chánh niệm quan sát sự vận hành của cái ngã, nó thâm nhập vào tận nguồn gốc tạo nên cái ngã và đập tan vỡ cái gốc đó ra từng mãnh vụn. Có một tình trạng tiến thoái lưỡng nan trong vấn đề này. Chánh niệm là sự chú tâm vô ngã. Nếu chúng ta bắt đầu với sự kềm chế của cái ngã, thì làm sao chúng ta tạo ra đủ chánh niệm lúc khởi đầu? Ở bất kỳ phút giây nào cũng đều có một mức độ Chánh niệm tồn tại. Vấn đề là làm sao gom đủ để cho nó đủ mạnh để bắt đầu mà thôi. Để làm được việc này, chúng ta cần phảiphương pháp. Chúng ta làm yếu đi những lạnh vực tai hại nhất mà tự ngã có thể gây ra, rồi chánh niệm sẽ gặp ít trở ngại để vượt qua.

Tham lamSân hận là sự biểu thị rõ nét của Tự ngã. Sự chấp thủ và phản kháng tồn tại lâu dài trong tâm, thì chánh niệm sẽ khó khăn mà hoạt động. Kết quả của hiện tượng này thì rất dễ nhìn thấy. Nếu bạn ngồi xuống để tu tập trong khi đó bạn đang vướng mắc vào thứ gì đó trong tâm, thì bạn sẽ thấy ra là mình chẳng đi tới đâu cả. Nếu bạn bị lôi cuốn vào tất cả những kế hoạch làm ra tiền, thì chắc hẳn trong suốt buổi tọa thiền bạn chẳng làm gì cả ngoại trừ nghĩ về nó. Nếu bạn đang điên tiết lên về một sĩ nhục nào đó gần đây, nó sẽ chiếm hết toàn bộ tất cả tâm trí của bạn. Thời gian trong một ngày có giới hạn, do đó mỗi một phút giây tu thiền đều thật là quí giá. Cho nên tốt nhất là đừng hoang phí chúng. Truyền thống nguyên thủy đã tạo lập những phương tiện hữu hiệu để giúp bạn gác lại những trở ngại này ra khỏi tâm trong nhất thời, để rồi bạn có thể bắt tay vào việc tống khứ cái gốc rễ của chúng vĩnh viễn.

Bạn có thể dùng một ý tưởng để vô hiệu hóa một ý tưởng khác. Bạn thăng bằng tâm mình bằng cách nghĩ đến một điều thiện lành thay cho một điều bất thiện mới vừa phát sinh. Bố thí thì làm phôi phai dần tham lam. Lòng nhân từ sẽ đánh lui sự ghét bỏ. Hãy hiểu rõ ràng: Đây không phải là ý định giải thoát bản thân bằng cách tự thôi miên mình. Bạn không thể nào sắp xếp cho sự chứng ngộ. Niết bàn là một trạng thái vô vi. Người giác ngộ quả thật rộng lượngnhân từ, chứ không phải vì đã được qui định để làm như thế. Người ấy thuần túy biểu hiện bản chất căn bản của chính mình mà không còn bị kềm hãm bởi tự ngã. Vì vậy sự tự tại này không bị điều kiện hóa. Vấn đề này tương tự như loại thuốc tâm thần. Nếu bạn uống thuốc theo lời chỉ dẫn, nó sẽ mang đến sự ổn định tạm thời cho căn bệnh mà bạn đang bị hoành hành. Để rồi sau đó, bạn có thể giải quyết trực diện cái gốc chính của căn bệnh.

Trước hết, bạn nên xua bỏ đi, nếu có những tư tưởng tự căm thù và tự lên án bản thân. Hãy để cho những cảm giácmong ước thiện lành đến với mình; việc này tương đối cũng không khó. Kế tiếp, hãy nguyện những điều tốt lành xảy ra cho những người chung quanh bạn. Dần dần, mang những cảm giác ước mong này đến những người bạn thân cho đến những kẻ thù của bạn; xa hơn nữa là cho hết muôn loài. Thực hành đúng đắn, việc làm này có thể trở thành một bài ứng dụngtác dụng to lớn trong quá trình biến đổi tâm linh của bạn.

Nên khởi đầu mỗi buổi tọa thiền bằng cách thệ nguyện những câu sau đây cho chính mình bằng tất cả sự chú tâm:

• Xin cho tôi được sức khỏe, hạnh phúcbình an. Không gặp điều bất trắc, khó khăn, vấn đề và luôn luôn gặp thuận lợi. Xin cho tôi được kiên nhẫn, lòng can đảm, tri thức, và sự quyết tâm để đối diệnvượt qua những trở ngại, khó khăn và thất bại không thể tránh khỏi trong đời sống.

• Xin cho cha mẹ tôi được sức khỏe, hạnh phúcbình an. Không gặp điều bất trắc, khó khăn, vấn đề và luôn luôn gặp thuận lợi. Xin cho họ cũng có được kiên nhẫn, lòng can đảm, tri thức, và sự quyết tâm để đối diệnvượt qua những trở ngại, khó khăn và thất bại không thể tránh khỏi trong đời sống.

• Xin cho những thầy giáo của tôi được sức khỏe, hạnh phúcbình an. Không gặp điều bất trắc, khó khăn, vấn đề và luôn luôn gặp thuận lợi. Xin cho họ cũng có được kiên nhẫn, lòng can đảm, tri thức, và sự quyết tâm để đối diệnvượt qua những trở ngại, khó khăn và thất bại không thể tránh khỏi trong đời sống.

• Xin cho những người thân của tôi được sức khỏe, hạnh phúcbình an. Không gặp điều bất trắc, khó khăn, vấn đề và luôn luôn gặp thuận lợi. Xin cho những người này cũng có được kiên nhẫn, lòng can đảm, tri thức, và sự quyết tâm để đối diệnvượt qua những trở ngại, khó khăn và thất bại không thể tránh khỏi trong đời sống.

• Xin cho tất cả bạn bè của tôi được sức khỏe, hạnh phúcbình an. Không gặp điều bất trắc, khó khăn, vấn đề và luôn luôn gặp thuận lợi. Xin cho tất cả mọi người này cũng có được kiên nhẫn, lòng can đảm, tri thức, và sự quyết tâm để đối diệnvượt qua những trở ngại, khó khăn và thất bại không thể tránh khỏi trong đời sống.

• Xin cho những người tôi không quen biết có được sức khỏe, hạnh phúcbình an. Không gặp điều bất trắc, khó khăn, vấn đề và luôn luôn gặp thuận lợi. Xin cho họ cũng có được kiên nhẫn, lòng can đảm, tri thức, và sự quyết tâm để đối diệnvượt qua những trở ngại, khó khăn và thất bại không thể tránh khỏi trong đời sống.

• Xin cho tất cả kẻ thù của tôi có được sức khỏe, hạnh phúcbình an. Không gặp điều bất trắc, khó khăn, vấn đề và luôn luôn gặp thuận lợi. Xin cho họ cũng có được kiên nhẫn, lòng can đảm, tri thức, và sự quyết tâm để đối diệnvượt qua những trở ngại, khó khăn và thất bại không thể tránh khỏi trong đời sống.

• Xin cho tất cả muôn loài hữu tình có được sức khỏe, hạnh phúcbình an. Không gặp điều bất trắc, khó khăn, vấn đề và luôn luôn gặp thuận lợi. Xin cho mọi loài cũng có được kiên nhẫn, lòng can đảm, tri thức, và sự quyết tâm để đối diệnvượt qua những trở ngại, khó khăn và thất bại không thể tránh khỏi trong đời sống.

Một khi khấn nguyện xong, hãy để sang một bên tất cả những khó khăn, trở ngại trong suốt thời gian tọa thiền. Bỏ quên tất cả. Nếu chúng xen vào trong sự tu tập, thì bạn nên xem chúng như-nó-là, vọng tâm.

Tu tập lòng Từ-bi cũng được khích lệ ứng dụng trước khi đi ngủ mỗi đêm và ngay sau khi thức dậy mỗi sáng. Lời khấn nguyện cũng có tác dụng giúp cho bạn có một giấc ngủ trong lành và không có ác mộng. Nó cũng giúp sau khi thức dậy, bạn sẽ cởi lòng mình ra với mọi người, dù thân hay thù, loài người hay bất cứ loài nào khác.

Những cảm giác khó chịu tai hại nhất khởi sinh trong tâm, nhất là lúc tâm được tĩnh lặng, là sự phẫn uất. Sự phẫn nộ đi qua luôn để lại những kinh nghiệm hằng sâu cho thân và tâm những cố sự rất khó quên. Loại kinh nghiệm này gây nên sự bất an, căng thẳng, dao động, và lo lắng. Bạn chừng như không thể nào tiếp tục ngồi để kinh nghiệm trạng thái tâm này. Do đó, chúng tôi khuyến khích bạn nên bắt đầu sự tu tập bằng lòng Từ-bi.

Đôi khi cũng có người lấy làm lạ tại sao mình phải khấn nguyện câu, “Xin cho tất cả kẻ thù của tôi có được sức khỏe, hạnh phúcbình an. Không gặp điều bất trắc, khó khăn, vấn đề và luôn luôn gặp thuận lợi. Xin cho họ cũng có được kiên nhẫn, lòng can đảm, tri thức, và sự quyết tâm để đối diệnvượt qua những trở ngại, khó khăn và thất bại không thể tránh khỏi trong đời sống.”

Bạn nên nhớ rằng, tu tập lòng Từ-bi để thanh lọc tâm mình, cũng giống như tu thiền để đạt đến sự giải thoát khổ đau. Khi tu tập lòng Từ cho bản thân, bạn có thể xử sự theo chiều hướng thân thiện mà không có thành kiến, thiên vị, kỳ thị hay ghét bỏ. Lối hành xử thánh thiện của bạn sẽ giúp mọi người giảm bớt khổ đau một cách thiết thực nhất. Đó là lòng bi mẫn của một cá nhân đối với mọi người. Lòng bi mẫn là sự biểu lộ của tâm Từ, cho nên một người không có tâm Từ thì không thể nào giúp người khác một cách chân thật được. Cung cách hành xử thánh thiện có nghĩa là đối xử thân thiện và đầy lòng nhân ái. Nó bao gồm từ tư tưởng, lời nói, và hành động. Nếu ba lãnh vực này không tương ưng thì phương cách hành xử của bạn không thể nào thiện lành được. Nói theo một cách khác, tốt nhất là nên nuôi dưỡng cái tư tưởng thiện lành, “Xin mọi loài có được tâm hạnh phúc” tốt hơn là “Tôi ghét hắn.” Tư tưởng thiện lành của chúng ta một ngày nào đó sẽ được biểu lộ vào lối hành xử, còn tư tưởng đầy ác ý của chúng ta sẽ dẫn đến hành động tàn ác.

Nên nhớ rằng tư tưởng sẽ tác khởi ra hành động và lời nói để mang đến kết quả mong muốn. Tư tưởng được diễn đạt qua hành động, mà hành động có khả năng tạo ra kết quả xác thực. Bạn nên luôn luôn nói năng và hành động với chánh niệm của lòng từ bi. Trong khi dùng ngôn ngữ với tâm từ, nếu bất chợt hành động và lời nói thay đổi hoàn toàn trái ngược, thì bạn sẽ bị khiển trách bởi trí tuệ của mình. Bao giờ chánh niệm của lòng Từ lớn mạnh hơn, tư tưởng, lời nói, và hành động của bạn sẽ trở nên êm dịu, hài hòa, có ý nghĩa, thành thậtlợi ích cho bản thân của bạn, cũng như cho những người khác. Nếu tư tưởng, lời nói hay hành động làm tổn hại bạn, người khác hay cho cả hai bên, thì bạn nên tự hỏi mình xem bạn thật sự có chú tâm về lòng Từ bi hay không. 

Trong tất cả mọi người, nhất là những kẻ thù của bạn, nếu họ được tốt lành, vui vẻ, bình an, thì họ sẽ không là kẻ thù của bạn. Nếu họ không bị khống chế bởi các vấn đề, nổi đau, đau khổ, cơn đau đớn, loạn thần kinh, tâm lý không thăng bằng, tính đa nghi, sợ hãi, căng thẳng, hồi hộp, v.v.. thì họ sẽ không là kẻ thù của bạn. Cái giải pháp thực nghiệm nhất của bạn đối với những kẻ thù là giúp đỡ họ vượt qua các vấn đề của họ, để rồi bạn có thể sống trong bình anhạnh phúc. Thật ra, nếu có thể thì bạn nên đong đầy tâm trí của họ với lòng từ bi và giúp họ nhận diện ra ý nghĩa thật sự của bình an, có vậy bạn mới có thể sống yên vui và hạnh phúc. Nếu họ bị càng nặng những chứng bệnh này bao nhiêu, thì họ sẽ tạo ra chừng bấy nhiêu hỗn loạn, nổi đau và đau khổ cho thế gian này. Nếu bạn có thể thay đổi một người đồi bại đang đầy lòng thù hận trở thành một người thánh thiện biết lẽ phải, là bạn đã làm một điều kỳ diệu. Chúng ta hãy vun bồi đầy đủ trí tuệlòng từ bi trong bản thân rồi mới có thể giúp thay đổi những tâm tàn ác trở nên thánh thiện vậy.

Khi ghét một người thì bạn nghĩ, “Hãy để cho hắn xấu xa, khổ đau, nghèo hèn, sai lầm, cách ly, không bạn bè. Sau khi chết đi sẽ bị trầm luân trong địa ngục.” Nhưng thật ra, hiện tại trong thân và tâm của bạn đang tiết ra những chất độc hành hạ bạn, cho bạn kinh nghiệm đau đớn, nhịp tim tăng nhanh, căng thẳng, gương mặt thay đổi, ăn không ngon, ngủ không yên, và bộ dạng trông bơ phờ, xuống dốc. Bạn đang trải qua những gì mà bạn mong muốn nó sẽ xảy ra cho kẻ thù của mình đây kia mà. Thêm nữa bạn không còn nhìn thấy sự thật như-nó-là nữa. Tâm của bạn dao động giống như nước đang đun sôi. Hoặc là bạn giống như một bệnh nhân đang khổ đau do chứng bệnh hoàng đản cảm thấy vô vị, nhạt nhẽo khi ăn các thức ăn ngon. Tương tự như vậy, bạn không còn biết thông cảm người chung quanh, ca ngợi những thành quả tốt đẹp v.v… Chừng bao giờ tình trạng này vẫn còn diễn ra, thì bạn không thể nào tu tập thiền tốt cho được cả.

Thế nên, chúng tôi khuyên bạn nên tu tập thiền tâm Từ trước mỗi buổi tọa thiền. Lập lại lời nguyện trên trong chánh niệmthành thật với trọn lòng mình. Khi đọc những lời này, nên cảm giác lòng từ bên trong chính mình trước rồi trang trải cho tới những người khác. Bạn không thể nào cho người khác những gì khi bạn không có nó từ bên trong của chính mình phải không?

Nên nhớ rằng, đây không phải là những công thức nhiệm mầu. Tự chúng không thể nào làm được gì cả. Nếu dùng chúng theo chiều hướng ấy, thì bạn chỉ hao tốn thời gian và công sức mà thôi. Nhưng nếu bạn thật sự thể nhập với những lời nguyện ước này, bằng tất cả lòng chân thànhnăng lực, thì chúng sẽ giúp bạn thật nhiều. Hãy thử đi rồi bạn sẽ tự nhận thấy ra nó ra sao.


Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 18400)
Truyền thuyết “Niêm hoa vi tiếu” không biết có từ lúc nào, chỉ thấy ghi chép thành văn vào đời Tống (960-1127) trong “Tông môn tạp lục” mục “Nhơn thiên nhãn”...
(Xem: 19876)
"Đây là con đường duy nhất để thanh lọc tâm, chấm dứt lo âu, phiền muộn, tiêu diệt thân bệnh và tâm bệnh, đạt thánh đạochứng ngộ Niết Bàn. Đó là Tứ Niệm Xứ".
(Xem: 19579)
Để diệt trừ cái khổ, người ta phải nhận ra bản chất nội tại của vấn đề khổ. Mà để được vậy, trước hết người ta phải cần có một cái tâm an tịnh...
(Xem: 33470)
Những lúc vô sự, người góp nhặt thường dạo chơi trong các vườn Thiền cổ kim đông tây. Tiêu biểu là các vườn Thiền Trung Hoa, Việt Nam, Nhật Bản và Hoa Kỳ.
(Xem: 34566)
Không thể có một bậc Giác Ngộ chứng nhập Niết Bàn mà chưa hiểu về mình và chưa thấy rõ gốc cội khổ đau của mình.
(Xem: 54578)
Muốn thực sự tiếp xúc với thực tại, cho dù đó bất cứ là gì, chúng ta phải biết cách dừng lại trong kinh nghiệm của mình, lâu đủ để nó thấm sâu vào và lắng đọng xuống...
(Xem: 37782)
Thực hành thiền trong Đạo Phật rốt ráo là để Thực Nghiệm sự thật VÔ NGÃđức Phật đã giác ngộ (khám phá). Đó cũng là để chứng thực KHÔNG TÁNH của vạn pháp.
(Xem: 21184)
Do bốn niệm xứ được tu tập, được làm cho sung mãn, thưa Hiền giả, khi Như Lai nhập Niết-bàn, Diệu pháp được tồn tại lâu dài.
(Xem: 17924)
Đức Phật khám phá ra rằng một tâm hạnh phúc nhất là tâm không bị dính mắc. Đây là một niềm hạnh phúc rất sâu sắc, khác hẳn với những gì chúng ta vẫn thường biết.
(Xem: 63738)
Đàn Kinh được các môn đệ của Huệ Năng nhìn nhận đã chứa đựng giáo lý tinh nhất của Thầy mình, và giáo lý được lưu truyền trong hàng đệ tử như là một di sản tinh thần...
(Xem: 17433)
Thiền giữ vai trò rất quan trọng trong đạo Phật. "Ngay cơ sở của Phật giáo, tất cả đều là kết quả của sự khảo sát về Thiền, và nhờ có tư duy về Thiền mà Phật giáo mới được thể nghiệm hóa...
(Xem: 49726)
Khi ta phát triển định tâm, ta sẽ có thể giữ những chướng ngại tạm thời ở một bên. Khi những chướng ngại được khắc phục, tâm ta trở nên rõ ràng trong sáng.
(Xem: 16894)
Thiền có nghĩa là tỉnh thức: thấy biết rõ ràng những gì anh đang làm, những gì anh đang suy nghĩ, những gì anh đang cảm thọ; biết rõ mà không lựa chọn...
(Xem: 16409)
Bất kì ai cũng có khả năng giác ngộ nếu có khát vọng. Khát vọng hướng về mẫu số chung “tự tri-tỉnh thức-vô ngã”, khát vọng đó là minh sư vĩ đại nhất của chính mình.
(Xem: 14512)
Thiền tông, nói mây, nói cuội, nói chuyện nghịch đời… chẳng qua đối duyên khai ngộ, để phá cho được cái dòng vọng tưởng tương tục của người, hy vọng ngay đó người nhận ra “chân”...
(Xem: 22508)
Nhờ thiền sư Munindra tận tâm hướng dẫn chu đáo từng bước một nên bà tiến bộ rất nhanh chóng. Đi từ cấp thiền cổ điển đến tiến bộ trong chánh niệm (progress insight).
(Xem: 57043)
Tập sách Thiền và Bát-nhã này là phần trích Luận Năm và Luận Sáu, trong bộ Thiền luận, tập hạ, của D. T. Suzuki. Tập này gồm các thiên luận về Hoa nghiêm và Bát-nhã.
(Xem: 13884)
Giác ngộ không phải là cầu toàn, vì càng cầu toàn con càng khổ đau thất vọng, mà là cần thấy ra bản chất bất toàn của cuộc sống. Chỉ cần vừa đủ trầm tĩnh sáng suốt...
(Xem: 29050)
Đức Phật dạy rằng hạnh phúcvấn đề thiết thực hiện tại, không phải là những ước mơ đẹp đẽ cho tương lai, hay những kỷ niệm êm đềm trong quá khứ.
(Xem: 33364)
Thầy bảo: “Chuyện vi tiếu nếu nghe mà không thấy thì cứ để vậy rồi một ngày kia sẽ thấy, tự khám phá mới hay chứ giải thích thì còn hứng thú gì.
(Xem: 38428)
Sở dĩ chúng ta mãi trôi lăn trong luân hồi sinh tử, phiền não khổ đau là vì thân tâm luôn hướng ngoại tìm cầu đối tượng của lòng tham muốn. Được thì vui mừng, thích thú...
(Xem: 31271)
Nếu không có cái ta ảo tưởng xen vào thì pháp vốn vận hành rất hoàn hảo, tự nhiên, và tánh biết cũng biết pháp một cách hoàn hảo, tự nhiên, vì đặc tánh của tâm chính là biết pháp.
(Xem: 13940)
Thực tế, thì căn bản của sự thực thiền của các hành giả chân chánh là khám phá ra những hành động nào đem lại khổ đau hoặc hạnh phúc. Sau đó, tránh các hành động gây nghiệp...
(Xem: 14645)
Thực hành phát triển Định Tuệ sẽ xa dần các tà kiến và các thiên chấp; sẽ sống với nhân cách tự-do-tinh-thần; cởi bỏ gánh nặng nô lệ thị phi, tập tục.
(Xem: 14317)
“Phản văn văn tự tánh” là “quay cái nghe nghe tự tánh”. Tự tánhthực thể đang nghe đang thấy đang biết, đồng thời đang tự biết tự thấy…
(Xem: 12662)
Hành thiền, cốt tuỷ nhất, là tự tri, là quán tâm. Học Thiền, tức học đạogiác ngộ, cốt tuỷ nhất là nương ngôn từ để thấy biết trạng thái tâm trí.
(Xem: 14851)
Tôi có một số kinh nghiệm vững chắc về định, tĩnh, và quán tưởng. Điều đó thúc đẩy tôi đến với Thiền Minh Sát. Các tu sĩ ở đây khuyến khích tôi xuất gia.
(Xem: 19226)
Nếu thấy tất cả con người, muôn vật đều hư giả, tạm bợ thì không còn tham sân nữa. Mình không thật, có ai chửi mình cũng không giận. Cái tôi không thật, lời chửi thật được sao...
(Xem: 13849)
Trong Phật giáo có những phương pháp dùng để thực hành Thiền từ bi. Các thiền giả nhằm khích động lòng từ bi đối với tất cả chúng sinh...
(Xem: 12698)
Thế giới, với người ngộ đạo, đã được lộn trái trở lại: sanh tử lộn ngược thành Niết Bàn. Đời sốngý nghĩakhông tịch. Đời sống là sự biểu hiện của tính sáng.
(Xem: 30444)
Thiền Quán là tri nhận Giác Thức thành Giác Trí. Giác Thức và Giác Trí được quán tưởng theo thời gian. Khi Tưởng Tri thì Thức và Trí luôn nối tiếp nhau làm cho ta có tư tưởng...
(Xem: 11861)
Cuộc cách mạng thực tập Thiền Chánh Niệm bắt đầu bằng một động tác giản dị là chú ý đến hơi thở, cảm thọ trong thân và tâm, nhưng rõ ràng là có thể đi rất xa.
(Xem: 30709)
Sự giác ngộ đem lại lợi ích thực sự ngay trong kiếp sống này. Khi đề cập đến Pháp hành ta nhất thiết phải tìm hiểu qui trình tu tập hợp lý và hợp với giáo huấn của Đức Phật.
(Xem: 29429)
“Chẳng có ai cả” là một tuyển tập những lời dạy ngắn gọn, cô đọng và thâm sâu nhất của Ajahn Chah, vị thiền sư lỗi lạc nhất thế kỷ của Thái Lan về pháp môn Thiền Minh Sát.
(Xem: 30645)
Thiện tri thức! Tâm lượng quảng đại, biến mãn khắp pháp giới, về dụng thì mỗi mỗi phân minh, ứng dụng ra thì biết được tất cả là một, một là tất cả... Thích Nữ Trí Hải dịch
(Xem: 31258)
Bên ngoài xa lìa các tướng gọi là “thiền”, bên trong không loạn gọi là “định”. Bên ngoài nếu như tuy có tướng, song bên trong bổn tính vẫn không loạn, thì đó là cái tự tịnh tự định bổn nguyên.
(Xem: 37150)
Thiện tri thức, khi chưa ngộ thì Phật tức chúng sanh, lúc một niệm khai ngộ, chúng sanh tức Phật. Nên biết vạn pháp đều ở nơi tự tâm...
(Xem: 32304)
Này chư Thiện tri thức, cái trí Bồ Đề Bát Nhã, người thế gian vốn tự có, nhưng bởi tâm mê, nên chẳng tự ngộ được... Minh Trực Thiền Sư Việt dịch
(Xem: 23703)
Quyển "THIỀN QUÁN - Tiếng Chuông Vượt Thời Gian" là một chuyên đề đặc biệt giới thiệu về truyền thống tu tập thiền Tứ Niệm Xứ của đức Phật dưới sự hướng dẫn của thiền sư U Ba Khin.
(Xem: 12245)
Thực tập chánh niệm có thể ảnh hưởng tích cực đến nhiều hoạt động của hạch hạnh nhân, khu vực có kích thước bằng hạt đậu nằm ở trung tâm não bộ...
(Xem: 14239)
Thiền Tiệm Ngộpháp hành từ tập trung trí và thức gom vào một đề mục duy nhất, hoặc dùng một đối tượng đặt ra do tư tưởng định trước.
(Xem: 14113)
Khi chấp nhận thực hành thiền, chúng ta phải có niềm tin sâu sắc vào khả năng của tâm chúng ta ngay từ lúc khởi đầu, và phải duy trì niềm tin ấy...
(Xem: 34013)
Nếu tâm chúng ta dịu dàng, nhân ái, hiểu biết, và có sự đồng cảm đối với tha nhân, chúng ta sẽ tu tập tâm từ đến người khác không mấy khó khăn.
(Xem: 27766)
Đức Phật bảo rằng cần có mười lăm đức tính để tự hoàn thiện, để có thể sinh lòng từ bi đối với mọi người quanh ta hay rộng hơn cho đến tất cả nhân loại...
(Xem: 12473)
Không biết tự bao giờ, Trà trở thành thân quen trong nếp sống Thiền gia Phật Giáo Bắc Truyền, rồi trà thành một phần văn hóa của Phật Giáo...
(Xem: 28679)
Sách này đặt tên "Kiến Tánh Thành Phật", nghĩa là sao? Bởi muốn cho người ngưỡng mộ tên này, cần nhận được lý thật của nó. Như kinh nói: "Vì muốn cho chúng sanh khai, thị, ngộ, nhập tri kiến Phật".
(Xem: 29403)
Những bài kinh Phật không có bài nào là không hay. Có miệt mài trên những trang kinh xưa mới cảm được sự vang động của suối nguồn trí tuệ.
(Xem: 12433)
Vị trí cực kỳ quan trọng của Lục Tổ Huệ Năng đối với sự hình thành và phát triển của Thiền tông Trung Quốc đã khiến các đệ tử Phật môn luôn nhắc về ông...
(Xem: 29268)
Trong sách này Ngài Sayadaw diễn tả đầy đủ phương pháp quán niệmgiải thích với đầy đủ chi tiết đường lối suy tư về lý vô ngã có thể dẫn đến mức độ thành tựu Niết Bàn.
(Xem: 28063)
Vào năm 1986-1987 Hòa Thượng giảng Kinh Nguyên Thủy; đối chiếu Kinh Pali (dịch ra Việt Ngữ) và A Hàm tại Thường Chiếu giúp cho Thiền sinh thấy rõ nguồn mạch Phật Pháp từ Nguyên Thủy đến Đại ThừaThiền Tông.
(Xem: 25716)
Con đường thiền tậpchánh niệm tỉnh giác, chứng nghiệm vào thực tại sống động. Khi tâm an định, hành giả có sự trầm tĩnh sáng suốt thích nghi với mọi hoàn cảnh thuận nghịch...
(Xem: 26075)
Cuốn Ba Thiền Sư ghi lại cuộc đời của Ikkyu Sojun (1394-1481), Hakuin Ekaku (1686-1768), và Ryokan Taigu (1758-1831). Mỗi vị Sư đều hiển lộ Thiền Tông trong cách riêng.
(Xem: 22306)
Với người đã mở mắt đạo thì ngay nơi “sắc” hiện tiền đó mà thấy suốt không chướng ngại, không ngăn che, nên mặc dù Sắc có đó vẫn như không, không một chút dấu vết mê mờ...
(Xem: 33180)
Thiền Tông nhấn mạnh vào mặt kinh nghiệm cá nhân, nhắm đưa từng con người chúng ta giáp mặt trực tiếp với chân lý trong ngay chính hoàn cảnh hiện tiền của chúng ta.
(Xem: 31841)
Các pháp thế gian đều kỵ chấp trước, chỗ qui kính của Thích tử không ai bằng Phật mà có khi vẫn phải quở. Bởi có ta mà không kia, do ta mà không do kia vậy.
(Xem: 39623)
Quả thật, chân lý thiền vốn ở ngay nơi người, ngay trong tự tâm chúng ta đây thôi. Vậy ai có tâm thì chắc chắc có thiền, không nghi ngờ gì nữa.
(Xem: 22479)
Bắt đầu bằng cách bỏ qua một bên tất cả những mối quan tâm ở bên ngoài, và quay vào quán sát nội tâm cho đến khi ta biết tâm trong sáng hay ô nhiễm, yên tĩnh hay tán loạn như thế nào.
(Xem: 34513)
Đây là phần thứ 2 trong 3 phần chính của cuốn Zen no Rekishi (Lịch Sử Thiền) do giáo sư Ibuki Atsushi soạn, xuất bản lần đầu tiên năm 2001 tại Tôkyô.
(Xem: 27387)
Thật ra chân lý nó không nằm ở bên đúng hay bên sai, mà nó vượt lên trên tất cả đối đãi, chấp trước về hiện hữu của Nhị Nguyên. Chân lý là điểm đến, còn hướng đến chân lý có nhiều con đường dẫn đến khác nhau.
(Xem: 28426)
Trong tiếng Phạn (Sanskrit), từ "Thiền" có ngữ nguyên là dhyâna. Người Trung Hoa đã dịch theo âm thành "Thiền na". Ý nghĩa "trầm tư mặc tưởng" của nó từ xưa trong sách vở Phật giáo lại được biểu âm bằng hai chữ yoga (du già).
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant