Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Chương 8: Cấu trúc của sự tu tập

26 Tháng Mười Hai 201000:00(Xem: 7524)
Chương 8: Cấu trúc của sự tu tập

CHÁNH NIỆM CƠ BẢN

Thiền sư: Henepola Gunaratana
Dịch Việt: Lương Thanh Bình

Chương 8: Cấu trúc của sự tu tập

Mọi thứ nói trên thì vẫn còn nằm trong phạm vi của lý thuyết. Bây giờ đây hãy vấn thân vào sự tu tập thật sự. Vấn đề là làm ra sao cái mà chúng ta gọi là “tu thiền.”

Trước hết, bạn cần phải thiết lập một thời khóa biểu cho sự tu tập, một khoảng thời gian mà bạn dành riêng cho thiền định chứ không bất cứ gì khác. Khi bạn còn bé chưa biết đi, người tập cho bạn đi, đã gặp không biết bao là khó khăn để dạy cho bạn khả năng này. Họ dìu tay của bạn, khích lệ, giúp cho bạn đứng với một chân này trước chân kia, cho đến khi nào bạn có thể tự mình làm lấy. Những giai đoạn hướng dẫn này đã hình thành một quá trình tập luyện cho nghệ thuật đi.

Trong tu thiền, chúng ta cũng theo phương pháp tương tự như vậy. Chúng ta bỏ ra một khoảng thời gian nhất định để dành riêng cho sự phát triển khả năng tâm linh này mà được gọi là Chánh niệm. Chúng ta sắp xếp sao cho hoàn cảnh chung quanh ít phân tán đến mức tối thiểu, vì khả năng này vốn không phải là loại dễ học thành. Chúng ta đã dùng gần trọn cả đời mình để bồi đắp cho những thói quen hoàn toàn trái ngược lại với sự vận hành lý tưởng của tâm chánh niệm liên tục. Muốn bỏ đi những thói quen này, đòi hỏi chúng ta một chu trình hữu hiệu. Như đã nhắc qua trước đây, tâm của chúng ta giống như một ly nước bẩn. Mục đích của tu thiềngạn lọc bùn cặn để chúng ta có thể thấy những gì đang xảy ra trong đó. Cách tốt nhất là để cho nó ở yên một chổ, rồi chờ một thời gian đủ lâu cho nó lắng đọng. Cuối cùng rồi bạn có một ly nước trong. Trong tu thiền, chúng ta dành riêng khoảng thời gian trong ngày cho quá trình gạn lọc này. Khi nhìn từ bên ngoài trông dường như là hoàn toàn vô ích, chúng ta ngồi bất động như một tảng đá nhưng bên trong có rất nhiều hiện tượng luôn xảy ra. Sau khi những tư tưởng rời rạc lắng đọng, chúng ta còn lại trạng thái tâm trong sáng để đối diện với những gì sắp xảy đến cho đời sống của chúng ta.

Đó không có nghĩa là chúng ta phải làm một điều gì để thúc đẩy sự lắng đọng này, nó chỉ là một tiến trình luôn xảy ra một cách tự nhiên. Ngồi trong chánh niệm sẽ đưa đến sự lắng đọng này. Thật ra, nếu chúng ta có một thoáng tác ý nào để thúc đẩy cho sự lắng đọng này thì sẽ mang đến kết quả hoàn toàn trái ngược. Vì bởi đó là sự ức chế cho nên nó không có kết quả. Cố gắng gượng ép bỏ đi phiền não ra khỏi tâm, bạn chỉ làm tăng thêm sức ép cho tâm mà thôi. Có thể là bạn tạm thời làm được điều này nhưng theo thời gian bạn sẽ làm cho những phiền não này tăng trưởng mạnh thêm hơn. Chúng ngủ ngầm trong tiềm thức để chờ cơ hội nhảy vọt ra, đến lúc ấy bạn hoàn toàn bất lực đối với chúng. 

Phương pháp tốt nhất để gạn lọc những cặn bả của tâm là cứ để cho nó tự lắng động. Đừng cho thêm năng lượng vào tình trạng đang có mà chỉ quan sát dòng hiện tượng một cách khách quan. Dần dần đến cuối cùng nó cũng phải lắng xuống và sẽ ngừng lại ở đó nếu bạn không cung cấp năng lượng để cho nó vùng dậy. Chúng ta xử dụng năng lượng cho thiền định chứ không phải dùng nó để đàn áp vọng tâm. Sự phấn đấu duy nhất của chúng takiên nhẫn chánh niệm.

Thời gian tọa thiền cũng giống như cuộc giải phẩu cho ngày hôm ấy của bạn. Mọi sự xảy ra trong ngày đã được tích trữ trong tâm ở nhiều dạng khác nhau, cảm xúc tình cảm. Trong suốt thời gian mọi sự phát sinh, bạn bị lôi cuốn trong cái khung ép của hoàn cảnh mà cơ bản phải đối diệngiải quyết dù cho bạn có hiểu biếtrõ ràng hay không. Chúng được tích trữ trong tiềm thức, nơi mà chúng tạo nên những tai hại lớn lao nhất. Để rồi bạn lấy làm ngạc nhiên những căng thẳng này từ đâu tới. Tất cả những cù cặn này lần lượt xuất hiện trong dạng này hay dạng khác trong suốt buổi tọa thiền. Bạn có cơ hội nghiên cứu, thấy ra cái thực chất của chúng, để rồi sẽ buông bỏ chúng đi. Những buổi tọa thiền nghiêm chỉnh là để tạo ra cái hoàn cảnh tốt cho sự buông bỏ này. Chúng ta cứ tái lập chánh niệm trong những chu kỳ thời gian thường xuyên để gợi cảm cho tâm, rời xa những hoạt động sinh hoạt làm quấy động tâm. Cho nên chúng ta tìm nơi vắng vẻ ngồi êm lặng và bất động để chờ cho chúng trổi dậy. Rồi sau đó chúng sẽ tan biến đi. Cái hiệu quả này tương tự như là xạc điện cho một cái bình chứa năng lượng. Tọa thiền giống như là xung chứa thêm năng lực cho chánh niệm vậy.

Nơi ngồi 

Tìm một nơi yên lặng, tách biệt, chỉ có một mình bạn mà thôi. Nó không cần thiết phải là một địa điểm lý tưởng như là giữa một cánh rừng. Đó dường như là điều không tưởng cho phần lớn trong chúng ta, nhưng nơi ấy phải tương đối thoải mái và nhất là không bị ai phá rối. Nơi đó nên ít có ai lai vãng. Bạn muốn dành tất cả mọi chú tâm của mình cho thiền định mà không phải lo là mình trông như thế nào đối với người khác. Cho nên nơi càng vắng lặng chừng nào thì tốt hơn chừng ấy. Cũng không cần phải có một căn phòng cách âm, nhưng âm thanh quả thật làm xao lãng, tránh được nếu có thể nhất là lời người trò chuyệnâm nhạc. Tâm có khuynh hướng bị thu hút bởi những loại âm thanh như thế khó mà kềm chế được, rồi sự tập trung bị đánh mất.

Có vài nét chi tiết giúp cho bạn dùng được để tạo nên một hoàn cảnh thuận lợi. Một căn phòng mờ ánh đèn cầy và nén hương trầm thì rất tốt. Dụng cụ điểm thời gian lúc bắt đầu và kết thúc cũng có ích. Đây chỉ là những nét linh tinh mà thôi. Chúng có tác dụng cho một số người nhưng không ảnh hưởngliên hệ gì với sự tu tập cả.

Bạn có lẽ sẽ tìm thấy một chút lợi ích khi ngồi một chổ quen thuộc. Một chổ dành riêng cho tọa thiền là một điều kiện tốt cho nhiều người. Bạn dần dần quen thuộccảm thấy dễ dàng thoải mái nơi chổ ấy, cũng như đi sâu vào tâm tập trung nhanh hơn. Nó cũng giống như hoàn cảnh kéo bạn mau trở lại nơi mà đã dừng lại hôm trước. Điều này cần phải thí nghiệm mới thấy được. Hãy thử vài nơi và chọn ra chốn tốt nhất. Nơi mà bạn cần tránh là làm bạn mất tự nhiên và nhiều nguyên nhân gây ra sự xao lãng.

Cũng có nhiều người tìm thấy lợi ích khi ngồi chung trong một nhóm với nhau. Tuân thủ theo một lịch trình nhất định làm cho nhiều người cảm thấy có sự nâng đỡủng hộ lẫn nhau cũng là điều hữu ích trong lối tu tập. Vì lời hứa mà bạn phải tuân thủ cho đúng, đó cũng là một cách để trị cái chứng bệnh “tôi bận quá” để rồi đi lung tung. Bạn có thể tìm một nhóm tu tập trong địa phận của bạn, không cần biết họ có cùng pháp tu với bạn hay không miễn là ngồi trong êm lặng là được. Mặt khác, bạn cũng nên tự cảm thấy đủ trong sự tu tập của mình. Đừng bao giờ ỷ lại vào sự có mặt của nhóm người giống như là động cơ thúc đẩy chính. Thực hiện đúng đắn là, tọa thiền là niềm hạnh phúc. Nhóm người chỉ là trợ duyên mà thôi chứ không phải cái nạng cho bạn.

Khi ngồi 

Nguyên tắc quan trọng nhất là: khi tọa thiền thì áp dụng thuyết trung đạo của đạo Phật. Đừng quá sức mà cũng không làm cho có lệ. Điều đó không có nghĩa là bạn chỉ ngồi khi nào có hứng nổi lên. Mà nó có nghĩa là bạn phải có thời khóa và tuân thủ theo nó một cách bền bĩ. Đặt ra thời khóa là một hành động đáng khích lệ. Nhưng nếu thời khóa tạo ra nhiều khó khăn cho bạn thì thời khóa đó không thích hợp cần phải thay đổi. Tu thiền không phải là một trách nhiệm hay bổn phận gì cả. 

Tu thiềnsinh hoạt tâm lý. Bạn sẽ đối đầu với những sự thô thiển của tư tưởng và tình cảm. Bởi vậy, cái tư thế chuẩn bị tọa thiềntác động tới kết quả cả buổi thiền hôm đó. Những gì bạn kỳ vọng thường là những gì bạn sẽ có được. Cho nên khi có một tâm trạng tốt thường mang lại kết quả cao. Nếu bạn ngồi với một tâm thái nặng nhọc, mệt mõi thì những thứ ấy là những gì bạn sẽ gặt hái được. Cho nên hãy tạo cho mình một tuyến trình tốt, khả thi, thích hợp với những bộ phận khác trong đời sống của mình. Để rồi, nếu bạn bắt đầu cảm thấy đi dần vào dòng giải thoát thì hãy thay đổi.

Sáng sớm là thời gian rất tốt cho tu tập. Tâm của bạn còn mới vì còn chưa nghĩ gì đến những trách nhiệm trong ngày sắp đến, cho nên thiền định là một cách tốt để bắt đầu cho một ngày. Nó sẽ trang bị cho bạn sẵn sàng để trực diện với mọi hoàn cảnh tốt hơn. Bạn có thể trải qua hết ngày dễ dàng hơn. Chắc chắn là bạn luôn luôn tỉnh táo. Bạn sẽ không làm được điều gì tốt đẹp nếu bạn luôn ngồi ngủ gật cả, cho nên hãy ngủ đầy đủ. Rửa mắt hay tắm trước khi bắt đầu. Nếu có thể hãy tập thể dục cho máu huyết lưu thông hay làm bất cứ gì để cho bạn hoàn toàn tỉnh hẳn trước khi ngồi tọa thiền. Nhất là đừng bao giờ cho bị kẹt vào những hoạt động trong ngày, nếu không bạn sẽ bỏ qua buổi tọa thiền một cách dễ dàng. Xem việc ngồi tọa thiền là việc quan trọng nhất trong buổi sáng vậy.

Buổi tối cũng là thời khóa tốt cho sự tu tập. Tâm của bạn đầy ắp những rác rưởi đã tích trữ trong ngày, do đó loại bỏ chúng đi trước khi đi ngủ lại là một điều tốt. Thiền định sẽ làm sạch và trẻ lại tâm của bạn. Tái lập lại chánh niệm thì giấc ngủ của bạn mới có lợi ích. Khi mới bắt đầu tu thiền, một lần một ngày là đủ. Nếu bạn cảm thấy ngồi thêm thì cũng không sao, nhưng đừng bao giờ quá độ. Có hiện tượng kiệt sứcchúng ta thường hay gặp ở nhiều thiền sinh mới. Họ lao vào trong sự tu tập mười lăm giờ cho một ngày trong vòng vài tuần, để rồi khi những vấn đề của đời sống bắt kịp theo, thì họ nhận ra và cho là tu thiền thì tốn nhiều thời gian quá, hy sinh nhiều quá, họ không thể có thời gian cho những thứ này nữa. Đừng bao giờ rơi vào tình trạng này. Đừng kiệt sức mình trong tuần lễ đầu tiên. Hãy vội vã một cách từ từ. Giữ cho sự phấn đấu của bạn đều đặnbền vững. Hãy cho mình có thời gian để thể nhập sự tu tập vào đời sống, và để nó phát triển từ từ một cách êm ả. 

Trong khi sự thích thú tu thiền lớn mạnh dần, bạn sẽ tạo thêm thời gian cho lịch trình tu tập của mình. Hiện tượng tự phát này xảy ra mà không cần có sự ép buộc nào cả.

Những thiền giả nghiêm chỉnh thường tạo cho mình từ ba tới bốn giờ trong một ngày để tu tập mà vẫn sống một đời sống bình thường như mọi người một cách tự nhiên thoải mái.

Ngồi bao lâu

Cũng tương tự như trên: ngồi bao lâu tùy theo khả năng của bạn nhưng đừng quá độ. Những thiền sinh mới nên bắt đầu với thời gian hai mươi tới ba mươi phút. Ban đầu thật là khó mà ngồi lâu hơn để có lợi ích. Nhất là với người tây phương thì thế ngồi này thật không quen, cho nên cần thời gian cho thân thể điều chỉnh theo. Khả năng tâm linh cũng có phần mới lạ không kém và cũng cần có thời gian điều chỉnh nữa. 

Khi nào bạn quen dần với tiến trình, thời gian có thể kéo dài thêm từng chút một. Chúng tôi khuyến khích là sau chừng một năm liên tục tu tập thì bạn nên ngồi ổn thỏa trong một giờ mỗi lần.

Điều quan trọng là: Thiền Minh Sát tuệ không phải là một pháp tu khổ hạnh. Tự hành hạ bản thân không phải là mục đích. Chúng ta gắng công vun trồng chánh niệm chứ không phải cơn đau. Cơn đau thì không thể nào tránh khỏi nhất là ở đôi chân. Chúng ta sẽ nói sâu thêm về cơn đau và cách xử lý nó trong chương 10. Có những phương pháp dành riêng và thái độ mà bạn sẽ học để chạm mặt với những cơn đau. Điểm muốn nói ở đây là: Đây không phải là một cuộc thi đua chịu đựng sự khắc nghiệt. Bạn không cần phải chứng minh bất cứ điều gì cho bất kỳ ai. Cho nên, đừng bao giờ ép buộc mình phải ngồi với cơn đau kinh khủng để đạt được trọn đúng một giờ đã định. Đó chỉ là một buổi tu tập vô ích đối với cái bản ngã. Đừng bao giờ làm quá sức vào lúc ban đầu. Hãy biết khả năng giới hạn của bạn, và đừng tự buộc tội lấy mình vì không thể ngồi như một cục đá trong thời gian dài hơn.

Khi tu thiền trở nên một phần của cuộc sống, bạn có thể kéo dài buổi tọa thiền dài hơn một giờ. Tính theo lẽ thường, chọn thời gian bao lâu còn tùy thuộc vào điều kiện cuộc sống của bạn ở thời điểm này cho phép. Để rồi sau đó, ngồi chừng năm phút dài hơn mức đã ấn định. Không có một luật lệ cứng ngắc nào về thời gian tọa thiền. Ngay cả, nếu bạn đã tập được khả năng vững chãi ở khoảng thời gian ngắn nhất, nhưng cũng sẽ có một ngày nào đó điều kiện thân thể làm cho bạn không thể nào ngồi lâu tới mức đó. Điều đó không có nghĩa là bạn phải bỏ đi cả ngày hôm ấy. Ngồi thường xuyên là điều quan trọng chính yếu. Ngay cả, mười phút tu tập cũng có thể rất ư là hữu ích.

Sẵn đây cũng cần nhắc thêm, khi bạn chọn thời gian cho buổi tọa thiền thì hãy chọn trước khi vào ngồi, chứ đừng bao giờ quyết định trong khi đang tọa thiền. Điều này rất dễ làm cho tâm bị trạo cử. Trạo cử là một trong những trạng tháichúng ta muốn quan sát một cách chánh niệm. Cho nên hãy chọn khoảng thời gian thích hợp rồi giữ lấy nó.

Bạn có thể dùng đồng hồ để đo buổi tọa thiền, nhưng đừng hé nhìn nó mỗi hai phút để xem mình ngồi ra sao. Sự tập trung sẽ không thể tích tụ và sự dao động sẽ phát sinh ngay. Bạn sẽ thấy được mình lo ra trước khi thời buổi tọa thiền chấm dứt. Đó không phải là tu thiền — mà đó là nhìn đồng hồ đếm thời gian đi qua. Đừng nhìn vào đồng hồ cho đến bao giờ bạn nghĩ rằng thời gian ấn định cho buổi ngồi đã đi qua rồi. Thật ra, bạn không cần phải kiểm lại với đồng hồ mỗi buổi tọa thiền. Thông thường, bạn nên ngồi chừng bao lâu bạn muốn thôi. Không có gì bí ẩn cho khoảng thời gian bao lâu để ngồi cả. Tốt nhất là chỉ chọn cho mình khoảng thời gian ít, ngắn nhất. Nếu khôngấn định mức thấp nhất, bạn sẽ dễ bị mắc vào những buổi ngồi thật ngắn. Bạn sẽ vùng chạy mỗi khi những gì không hài lòng xảy ra, hay những khi bạn cảm thấy bất an. Như thế thì không tốt. Những kinh nghiệm này sẽ mang lại nhiều lợi ích nếu thiền giả chịu đối diệnhọc hỏi chúng. Bạn cần phải học cách quan sát chúng một cách rõ ràngtrầm tĩnh. Nhìn chúng trong chánh niệm. Khi làm được đủ mức, chúng sẽ không còn điều khiển bạn được nữa. Bạn sẽ thấy rõ ra thực chất của chúng: chỉ là những xung lực, phát sinh rồi diệt đi, chỉ là một phần của dòng vận hành. Rồi đời sống của bạn sẽ bình thản ra một cách tự nhiên

“Kỷ luật” là một từ ngữ rất đáng sợ cho phần lớn trong chúng ta. Nó gợi ra hình ảnh của một người đang đứng phía trên bạn và trên tay có cầm một cây roi, nói rằng bạn đang phạm lỗi. Nhưng tự kỷ luật thì khác biệt hẳn. Nó là một khả năng nhìn thấu suốt qua khuyết điểm của chính mình và xuyên thủng tận cùng cái bản chất bí ẩn của chúng. Chúng không còn có sức mạnh đàn áp bạn nữa, mà sẽ phơi bày tính lừa dối của chúng đối với bạn trong bấy lâu nay. Sự khát khao của bạn đã từng gào thét, đập phá để áp chế bạn; rồi chúng gạt gẫm, dỗ dành, đe dọa bạn mà đâu cần phải dùng cây roi. Thế mà bạn vẫn thua cho chúng đến trở thành một thói quen. Bạn nghe theo chúng bởi vì bạn chưa từng bận tâm nhìn kỷ xem sự đe dọa kia có thật hay không. Chúng hoàn toàn không thật có. Cho nên chỉ có một cách duy nhất để học được bài học này mà thôi. Những từ ngữ trong trang giấy này không làm được điều đó. Nhưng nhìn vào bên trong và quan sát những cù cặn trổi lên — bất an, bồn chồn, nóng nảy, đau khổ — chỉ nhìn chúng xuất hiện mà không cần phải can dự với chúng. Rồi trong sự ngạc nhiên của bạn, chúng chỉ đơn giản ra đi. Chúng phát sinh để rồi hoại diệt đi. Chỉ đơn giản thế thôi. Có một từ ngữ khác cho “tự kỷ luật”, nó là “Kiên nhẫn.”


Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 18400)
Truyền thuyết “Niêm hoa vi tiếu” không biết có từ lúc nào, chỉ thấy ghi chép thành văn vào đời Tống (960-1127) trong “Tông môn tạp lục” mục “Nhơn thiên nhãn”...
(Xem: 19873)
"Đây là con đường duy nhất để thanh lọc tâm, chấm dứt lo âu, phiền muộn, tiêu diệt thân bệnh và tâm bệnh, đạt thánh đạochứng ngộ Niết Bàn. Đó là Tứ Niệm Xứ".
(Xem: 19579)
Để diệt trừ cái khổ, người ta phải nhận ra bản chất nội tại của vấn đề khổ. Mà để được vậy, trước hết người ta phải cần có một cái tâm an tịnh...
(Xem: 33469)
Những lúc vô sự, người góp nhặt thường dạo chơi trong các vườn Thiền cổ kim đông tây. Tiêu biểu là các vườn Thiền Trung Hoa, Việt Nam, Nhật Bản và Hoa Kỳ.
(Xem: 34562)
Không thể có một bậc Giác Ngộ chứng nhập Niết Bàn mà chưa hiểu về mình và chưa thấy rõ gốc cội khổ đau của mình.
(Xem: 54576)
Muốn thực sự tiếp xúc với thực tại, cho dù đó bất cứ là gì, chúng ta phải biết cách dừng lại trong kinh nghiệm của mình, lâu đủ để nó thấm sâu vào và lắng đọng xuống...
(Xem: 37776)
Thực hành thiền trong Đạo Phật rốt ráo là để Thực Nghiệm sự thật VÔ NGÃđức Phật đã giác ngộ (khám phá). Đó cũng là để chứng thực KHÔNG TÁNH của vạn pháp.
(Xem: 21176)
Do bốn niệm xứ được tu tập, được làm cho sung mãn, thưa Hiền giả, khi Như Lai nhập Niết-bàn, Diệu pháp được tồn tại lâu dài.
(Xem: 17923)
Đức Phật khám phá ra rằng một tâm hạnh phúc nhất là tâm không bị dính mắc. Đây là một niềm hạnh phúc rất sâu sắc, khác hẳn với những gì chúng ta vẫn thường biết.
(Xem: 63734)
Đàn Kinh được các môn đệ của Huệ Năng nhìn nhận đã chứa đựng giáo lý tinh nhất của Thầy mình, và giáo lý được lưu truyền trong hàng đệ tử như là một di sản tinh thần...
(Xem: 17432)
Thiền giữ vai trò rất quan trọng trong đạo Phật. "Ngay cơ sở của Phật giáo, tất cả đều là kết quả của sự khảo sát về Thiền, và nhờ có tư duy về Thiền mà Phật giáo mới được thể nghiệm hóa...
(Xem: 49719)
Khi ta phát triển định tâm, ta sẽ có thể giữ những chướng ngại tạm thời ở một bên. Khi những chướng ngại được khắc phục, tâm ta trở nên rõ ràng trong sáng.
(Xem: 16892)
Thiền có nghĩa là tỉnh thức: thấy biết rõ ràng những gì anh đang làm, những gì anh đang suy nghĩ, những gì anh đang cảm thọ; biết rõ mà không lựa chọn...
(Xem: 16406)
Bất kì ai cũng có khả năng giác ngộ nếu có khát vọng. Khát vọng hướng về mẫu số chung “tự tri-tỉnh thức-vô ngã”, khát vọng đó là minh sư vĩ đại nhất của chính mình.
(Xem: 14512)
Thiền tông, nói mây, nói cuội, nói chuyện nghịch đời… chẳng qua đối duyên khai ngộ, để phá cho được cái dòng vọng tưởng tương tục của người, hy vọng ngay đó người nhận ra “chân”...
(Xem: 22505)
Nhờ thiền sư Munindra tận tâm hướng dẫn chu đáo từng bước một nên bà tiến bộ rất nhanh chóng. Đi từ cấp thiền cổ điển đến tiến bộ trong chánh niệm (progress insight).
(Xem: 57037)
Tập sách Thiền và Bát-nhã này là phần trích Luận Năm và Luận Sáu, trong bộ Thiền luận, tập hạ, của D. T. Suzuki. Tập này gồm các thiên luận về Hoa nghiêm và Bát-nhã.
(Xem: 13884)
Giác ngộ không phải là cầu toàn, vì càng cầu toàn con càng khổ đau thất vọng, mà là cần thấy ra bản chất bất toàn của cuộc sống. Chỉ cần vừa đủ trầm tĩnh sáng suốt...
(Xem: 29048)
Đức Phật dạy rằng hạnh phúcvấn đề thiết thực hiện tại, không phải là những ước mơ đẹp đẽ cho tương lai, hay những kỷ niệm êm đềm trong quá khứ.
(Xem: 33359)
Thầy bảo: “Chuyện vi tiếu nếu nghe mà không thấy thì cứ để vậy rồi một ngày kia sẽ thấy, tự khám phá mới hay chứ giải thích thì còn hứng thú gì.
(Xem: 38427)
Sở dĩ chúng ta mãi trôi lăn trong luân hồi sinh tử, phiền não khổ đau là vì thân tâm luôn hướng ngoại tìm cầu đối tượng của lòng tham muốn. Được thì vui mừng, thích thú...
(Xem: 31269)
Nếu không có cái ta ảo tưởng xen vào thì pháp vốn vận hành rất hoàn hảo, tự nhiên, và tánh biết cũng biết pháp một cách hoàn hảo, tự nhiên, vì đặc tánh của tâm chính là biết pháp.
(Xem: 13940)
Thực tế, thì căn bản của sự thực thiền của các hành giả chân chánh là khám phá ra những hành động nào đem lại khổ đau hoặc hạnh phúc. Sau đó, tránh các hành động gây nghiệp...
(Xem: 14644)
Thực hành phát triển Định Tuệ sẽ xa dần các tà kiến và các thiên chấp; sẽ sống với nhân cách tự-do-tinh-thần; cởi bỏ gánh nặng nô lệ thị phi, tập tục.
(Xem: 14317)
“Phản văn văn tự tánh” là “quay cái nghe nghe tự tánh”. Tự tánhthực thể đang nghe đang thấy đang biết, đồng thời đang tự biết tự thấy…
(Xem: 12660)
Hành thiền, cốt tuỷ nhất, là tự tri, là quán tâm. Học Thiền, tức học đạogiác ngộ, cốt tuỷ nhất là nương ngôn từ để thấy biết trạng thái tâm trí.
(Xem: 14847)
Tôi có một số kinh nghiệm vững chắc về định, tĩnh, và quán tưởng. Điều đó thúc đẩy tôi đến với Thiền Minh Sát. Các tu sĩ ở đây khuyến khích tôi xuất gia.
(Xem: 19226)
Nếu thấy tất cả con người, muôn vật đều hư giả, tạm bợ thì không còn tham sân nữa. Mình không thật, có ai chửi mình cũng không giận. Cái tôi không thật, lời chửi thật được sao...
(Xem: 13846)
Trong Phật giáo có những phương pháp dùng để thực hành Thiền từ bi. Các thiền giả nhằm khích động lòng từ bi đối với tất cả chúng sinh...
(Xem: 12696)
Thế giới, với người ngộ đạo, đã được lộn trái trở lại: sanh tử lộn ngược thành Niết Bàn. Đời sốngý nghĩakhông tịch. Đời sống là sự biểu hiện của tính sáng.
(Xem: 30440)
Thiền Quán là tri nhận Giác Thức thành Giác Trí. Giác Thức và Giác Trí được quán tưởng theo thời gian. Khi Tưởng Tri thì Thức và Trí luôn nối tiếp nhau làm cho ta có tư tưởng...
(Xem: 11861)
Cuộc cách mạng thực tập Thiền Chánh Niệm bắt đầu bằng một động tác giản dị là chú ý đến hơi thở, cảm thọ trong thân và tâm, nhưng rõ ràng là có thể đi rất xa.
(Xem: 30708)
Sự giác ngộ đem lại lợi ích thực sự ngay trong kiếp sống này. Khi đề cập đến Pháp hành ta nhất thiết phải tìm hiểu qui trình tu tập hợp lý và hợp với giáo huấn của Đức Phật.
(Xem: 29427)
“Chẳng có ai cả” là một tuyển tập những lời dạy ngắn gọn, cô đọng và thâm sâu nhất của Ajahn Chah, vị thiền sư lỗi lạc nhất thế kỷ của Thái Lan về pháp môn Thiền Minh Sát.
(Xem: 30641)
Thiện tri thức! Tâm lượng quảng đại, biến mãn khắp pháp giới, về dụng thì mỗi mỗi phân minh, ứng dụng ra thì biết được tất cả là một, một là tất cả... Thích Nữ Trí Hải dịch
(Xem: 31252)
Bên ngoài xa lìa các tướng gọi là “thiền”, bên trong không loạn gọi là “định”. Bên ngoài nếu như tuy có tướng, song bên trong bổn tính vẫn không loạn, thì đó là cái tự tịnh tự định bổn nguyên.
(Xem: 37149)
Thiện tri thức, khi chưa ngộ thì Phật tức chúng sanh, lúc một niệm khai ngộ, chúng sanh tức Phật. Nên biết vạn pháp đều ở nơi tự tâm...
(Xem: 32294)
Này chư Thiện tri thức, cái trí Bồ Đề Bát Nhã, người thế gian vốn tự có, nhưng bởi tâm mê, nên chẳng tự ngộ được... Minh Trực Thiền Sư Việt dịch
(Xem: 23700)
Quyển "THIỀN QUÁN - Tiếng Chuông Vượt Thời Gian" là một chuyên đề đặc biệt giới thiệu về truyền thống tu tập thiền Tứ Niệm Xứ của đức Phật dưới sự hướng dẫn của thiền sư U Ba Khin.
(Xem: 12245)
Thực tập chánh niệm có thể ảnh hưởng tích cực đến nhiều hoạt động của hạch hạnh nhân, khu vực có kích thước bằng hạt đậu nằm ở trung tâm não bộ...
(Xem: 14239)
Thiền Tiệm Ngộpháp hành từ tập trung trí và thức gom vào một đề mục duy nhất, hoặc dùng một đối tượng đặt ra do tư tưởng định trước.
(Xem: 14107)
Khi chấp nhận thực hành thiền, chúng ta phải có niềm tin sâu sắc vào khả năng của tâm chúng ta ngay từ lúc khởi đầu, và phải duy trì niềm tin ấy...
(Xem: 34005)
Nếu tâm chúng ta dịu dàng, nhân ái, hiểu biết, và có sự đồng cảm đối với tha nhân, chúng ta sẽ tu tập tâm từ đến người khác không mấy khó khăn.
(Xem: 27762)
Đức Phật bảo rằng cần có mười lăm đức tính để tự hoàn thiện, để có thể sinh lòng từ bi đối với mọi người quanh ta hay rộng hơn cho đến tất cả nhân loại...
(Xem: 12470)
Không biết tự bao giờ, Trà trở thành thân quen trong nếp sống Thiền gia Phật Giáo Bắc Truyền, rồi trà thành một phần văn hóa của Phật Giáo...
(Xem: 28678)
Sách này đặt tên "Kiến Tánh Thành Phật", nghĩa là sao? Bởi muốn cho người ngưỡng mộ tên này, cần nhận được lý thật của nó. Như kinh nói: "Vì muốn cho chúng sanh khai, thị, ngộ, nhập tri kiến Phật".
(Xem: 29400)
Những bài kinh Phật không có bài nào là không hay. Có miệt mài trên những trang kinh xưa mới cảm được sự vang động của suối nguồn trí tuệ.
(Xem: 12431)
Vị trí cực kỳ quan trọng của Lục Tổ Huệ Năng đối với sự hình thành và phát triển của Thiền tông Trung Quốc đã khiến các đệ tử Phật môn luôn nhắc về ông...
(Xem: 29264)
Trong sách này Ngài Sayadaw diễn tả đầy đủ phương pháp quán niệmgiải thích với đầy đủ chi tiết đường lối suy tư về lý vô ngã có thể dẫn đến mức độ thành tựu Niết Bàn.
(Xem: 28061)
Vào năm 1986-1987 Hòa Thượng giảng Kinh Nguyên Thủy; đối chiếu Kinh Pali (dịch ra Việt Ngữ) và A Hàm tại Thường Chiếu giúp cho Thiền sinh thấy rõ nguồn mạch Phật Pháp từ Nguyên Thủy đến Đại ThừaThiền Tông.
(Xem: 25711)
Con đường thiền tậpchánh niệm tỉnh giác, chứng nghiệm vào thực tại sống động. Khi tâm an định, hành giả có sự trầm tĩnh sáng suốt thích nghi với mọi hoàn cảnh thuận nghịch...
(Xem: 26073)
Cuốn Ba Thiền Sư ghi lại cuộc đời của Ikkyu Sojun (1394-1481), Hakuin Ekaku (1686-1768), và Ryokan Taigu (1758-1831). Mỗi vị Sư đều hiển lộ Thiền Tông trong cách riêng.
(Xem: 22299)
Với người đã mở mắt đạo thì ngay nơi “sắc” hiện tiền đó mà thấy suốt không chướng ngại, không ngăn che, nên mặc dù Sắc có đó vẫn như không, không một chút dấu vết mê mờ...
(Xem: 33178)
Thiền Tông nhấn mạnh vào mặt kinh nghiệm cá nhân, nhắm đưa từng con người chúng ta giáp mặt trực tiếp với chân lý trong ngay chính hoàn cảnh hiện tiền của chúng ta.
(Xem: 31839)
Các pháp thế gian đều kỵ chấp trước, chỗ qui kính của Thích tử không ai bằng Phật mà có khi vẫn phải quở. Bởi có ta mà không kia, do ta mà không do kia vậy.
(Xem: 39619)
Quả thật, chân lý thiền vốn ở ngay nơi người, ngay trong tự tâm chúng ta đây thôi. Vậy ai có tâm thì chắc chắc có thiền, không nghi ngờ gì nữa.
(Xem: 22476)
Bắt đầu bằng cách bỏ qua một bên tất cả những mối quan tâm ở bên ngoài, và quay vào quán sát nội tâm cho đến khi ta biết tâm trong sáng hay ô nhiễm, yên tĩnh hay tán loạn như thế nào.
(Xem: 34512)
Đây là phần thứ 2 trong 3 phần chính của cuốn Zen no Rekishi (Lịch Sử Thiền) do giáo sư Ibuki Atsushi soạn, xuất bản lần đầu tiên năm 2001 tại Tôkyô.
(Xem: 27379)
Thật ra chân lý nó không nằm ở bên đúng hay bên sai, mà nó vượt lên trên tất cả đối đãi, chấp trước về hiện hữu của Nhị Nguyên. Chân lý là điểm đến, còn hướng đến chân lý có nhiều con đường dẫn đến khác nhau.
(Xem: 28424)
Trong tiếng Phạn (Sanskrit), từ "Thiền" có ngữ nguyên là dhyâna. Người Trung Hoa đã dịch theo âm thành "Thiền na". Ý nghĩa "trầm tư mặc tưởng" của nó từ xưa trong sách vở Phật giáo lại được biểu âm bằng hai chữ yoga (du già).
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant