Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Biển hát lời Kinh

03 Tháng Mười 201000:00(Xem: 14034)
Biển hát lời Kinh


Biển hát lời Kinh


Nhật Chiêu

Biển hát lời kinh, sóng pháp rền
(Hải chấn triều âm thuyết phổ môn)


Biển sâu thẳm, biển mênh môngdiễm tuyệt, biển bao dung vô lượngbiến ảo vô biên... Vì thế biển cũng là Tâm.

Hãy nghe biển hát, biển hát lời kinh.

Biển vang rền, triều vọng tiếng... muôn đời hát lên lời kinh của cánh cửa phổ độ, cánh cửa vô môn: "Hải chấn triều âm thuyết Phổ môn", đó là câu thi tán dành cho Bồ Tát Quán Thế Âm nhưng mỗi lần đọc tụng, lại một lần thanh tân...

Hãy nghe biển hát, biển hát lời kinh.

Biển mùa xuân
sớm hôm không ngớt
trầm trầm dâng dâng.
Buson
(Haru no umi
hinemosu notari
notari kana)

Đó là biển xanh đang thở. Biển thở vào trầm trầm, biển thở ra dâng dâng.
Đó là biển xanh đang múa. Vũ khúc của biển có nhịp điệu trầm, có nhịp điệu dâng.

Đêm nay triều dâng trong biển

Như nhịp tim trong thế giới này.

Tagore

(Tonight there is a swell in the sea
like the heart-throb of the world).

Vì sao biển lên tiếng, biển hát ca? Biển không là tịch tịch, liêu liêu của vạn vạn đời hay sao? Bản tính nước đâu có âm thanh. Nhưng rồi có tiếp xúc. Do đâu trái tim ta khóc cười?

Nước nguyên không một tiếng đàn
bởi đi ngang đá mà vang điệu huyền.

(Thủ nguyên vô thanh
xúc thạch tức minh).

Như một lời uyên áo trong kinh Vượt qua ý thức (Vigyana Bhairava Tantra):

Sóng khởi lên với nước
ánh lửa xa khởỉ lên với lửa
cũng như thế ấy mà
những làn sóng vũ trụ
khởi lên từng hồi với ta.

Trái tim là biển nên có biết bao là trận trận phong ba trong tâm thức mỗi người? Nhưng cũng với trái tim, ta có thể làm lặng yên - sấm sétlên đường đi vào mây trắng phiêu diêu. Kinh Pháp Hoa trao truyền cho ta phương tiện ấy:

Tâm bi thì sấm sét yên
Ý từ như áng mây hiền bao dung.

(Bi thể giới lôi chấn
Từ ý diệu đại vân).

Và như vậy trái tim trở thành đại dương của tình yêu:

Bạn là sâu thẳm đại dương
Suối sông vô tận mười phương đổ vào

Thiền sư Sùng Sơn (Hàn Quốc)

Đó là biển đại bi. Trong kinh Hoa Nghiêm, trên đường đi tìm Bồ tát đạo, Thiện Tài đồng tử đã hỏi Tỳ kheo Hải Vân: "Làm sao bỏ nhà thế tục mà sinh vào nhà Như Lai? Làm sao cạn được biển ái dục mà sinh vào biển đại bi?".

Biển ái dục ư ? Một bài thơ thiền của Kenneth Rexroth đã miêu tả cái biển vô biên này:

Khi mà yêu em

như uống nước biển

càng uống

lại càng khao khát thêm

chỉ còn cách uống cạn

biển nước đầy vô biên.

(Making love with you

Is like drinking sea water.

The more I drink

The thirstier I become,

Until nothing can slake my thrist

But to drink the entire sea).

Trước câu hỏi của Thiện Tài, Tỳ kheo Hải Vân đáp rằng ngài dùng biển cả làm cảnh giới và đã quán sát biển cả mười hai năm: "Thế gian này có gì rộng lớn hơn biển cả không? Còn có gì vô lượng hơn chăng? Còn có gì sâu thẳm hơn chăng? Còn có gì kỳ diệu hơn chăng?". Cái tên Hải Vân có nghĩa là "Mây trên biển" một vầng mây trắng đứng yên trên trùng trùng sóng biển, nhẹ nhàng và oai nghi. Như người ta thường miêu tả hình ảnh Đức Quán Thế Âm trên đại dương: "Đoan cư ba thượng tuyệt trần ai" (Đứng yên trên sóng trần ai tuyệt vời).

Mây trên biển, đó là cái tâm đã sạch bụi đời.

Hình ảnh diễm tuyệt ấy có thể gặp trong bài đoản ca vô danh sau đây ở Vạn diệp tập (Manyôshu):

Biển lớn

mênh mông không đảo

sóng xanh phơi bày

Đứngyên trên sóng

trắng một vầng mây.

(ô-umi ni

shima mo aranaku ni

unabara no

tayutau mami ni

tateru shirakumo).

Biển lớn (Ô-umi) và mây trắng (Shirakumo) thật ra là một. Hải Vân: biển là mây, mây là biển. Cho dù là mây, các Bồ tát vẫn thề nguyện cứu đời như lời kệ trong kinh Pháp Hoa:

Lời thề sâu thẳm biển
Muôn kiếp chẳng hề phai.

(Hoằng thệ thâm như hải
Lịch kiếp bất tư nghì)

Lời thề đó là ánh quang minh soi chiếu đời đời trên biển trầm luân. Ai cũng có biển tâm, có đủ chỗ để tiếp nhận ánh sáng, để cảm chiếu vầng trăng toàn bích tuyệt vời:

Biển triều dâng
trải muôn manh chiếu
trăng nằm mênh mông.

Seisensui
(Umi wa michishio ka
tsuki wa senjô
hikari o shiku).

Đứng yên trên sóng triều có thể là một áng mây trắng, có thể là một vầng trăng lạnh. Trăng và mây trên biển là những hình ảnh siêu thóat, huyền diệu, là cái đẹp mà thơ ca không ngớt kiếm tìm:

Vịnh Shiga

sóng vỗ xa bờ
hiện trên đầu sóng
một vầng trăng lạnh
trong ánh tinh mơ.

Letaka
(Shiga no ura ya
Tôzakariyuku
Namima yori
Kôrite izuru
Ariake no tsuki).

Vầng trăng dường như bất động, đông lạnh giữa ánh sáng mờ ảo, giữa những cơn sóng xao động liên tục gợi lên một trái tim thanh tịnh, sáng trong, siêu phàm. Trăng có mặt giữa sóng cồn bọt sủi nhưng vẫn an nhiên, vô ngại.

Một bài đoản ca khác lộ rõ ý hơn:

Trên biển thu đầy
sóng triều lên xuống
xô bóng trăng phai
thế mà trăng vẫn
còn nguyên hình hài.

Fukayabu
(Aki no umi ni
Utsureru tsuki o
Tachikaeri
Nami wa araedo
Iro mo kawarazu).

Trăng vẫn nguyên hình nguyên sắc mặc cho bể dâu, dâu bể.

Nhưng trăng thì lúc ẩn lúc hiện. Chỉ có biển cả mới thực là cảnh giới của con người, của tàng thức. Và cảnh giới đó bao giờ cũng hùng vĩ, hoằng thâm, biến diệu:

Từ biển bao la
sóng đổ sấm rền
lên bờ bãi xa
tan tành, vỡ vụn
tung tán mưa hoa.

Sanetomo
(ôumi no
Iso mo todoro ni
Yosuru nami
Warete kudakete
Sakete chiru ka mo).

Tựa như Thiên nữ tán hoa , khi sóng biển đập lên ta, có cách nào phủi giọt biển đi, có cách nào phủi hạt muối đi? Và khi sóng biển lùi xa, ta nghe như biển đang cười. Nhưng biển nhạo ta làm gì?

Hãy lắng nghe âm thanh của biển, hãy nghe biển hát. Trên thế gian này không có âm thanh nào kỳ diệu và cao quý hơn đâu, như kinh Pháp Hoa đã từng tuyên thuyết:

Diệu âm, Quán Thế Âm
Phạm âm, hải triều âm
Thắng bỉ thế gian âm. . .

Vượt lên thế gian âm là tiếng biển hát. Hãy nghe biển hát, biển hát lời kinh. Biển hát lời Diệu âm (thanh âm nhiệm mầu), biển hát lời cao quý (Phạm âm), biển hát lời Quán Thế Âm (quán chiếu tiếng kêu thương của cuộc đời).

Biển hát, biển hát và biển hát.

Biển ơi
cho mượn triều dâng
để ta hát tặng một vầng trăng yêu;
Biển ơi
cầm giữ tịch liêu
để ta quay gót một chiều về thăm.

(Source : nguyệt san Giác ngộ số 67, tháng 10 năm 2001)

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 765)
Từ “Phật” (Buddha) đã được biết đến và lưu truyền trước khi Đức Phật xuất hiệnẤn Độ.
(Xem: 734)
Đức Phật, Ngài là con người, bằng xương bằng thịt, như bao nhiêu con người khác...nhưng Ngài là một con người giác ngộ, tỉnh thức...
(Xem: 748)
Tham ái với thân, tập trung lo cho thân tứ đại một cách thái quá, đó là trói buộc.
(Xem: 744)
Trời có lúc nắng lúc mưa, người có lúc may mắn hoặc xui xẻo. Nhưng không có cái gì tự dưng sinh ra hay mất đi, tất cả đều có lý do của do của nó.
(Xem: 640)
Ajaan Dune Atulo (1888-1983) sinh ngày 4 tháng 10/1888 tại làng Praasaat, huyện Muang, tỉnh Surin. Năm 22 tuổi ngài xuất gia ở tỉnh lỵ.
(Xem: 832)
Đức Phật là đấng Toàn giác, bậc trí tuệ siêu việt. Càng hiểu Phật phápcuộc đời, ta càng thấy những gì Đức Phật dạy là vô cùng đúng đắn.
(Xem: 1219)
Một cá nhân hay đoàn thể đệ tử Phật thực sự có tu tập giới-định-tuệ thì được mọi người kính trọng; sống hòa hợp, nhẫn nhịn, không tranh chấp đấu đá lẫn nhau chắc chắn được mọi người thương mến.
(Xem: 1389)
"Một thời Đức Phật du hóa tại nước Xá-vệ, trong rừng Thắng, vườn Cấp Cô Độc. Bấy giờ, khi đêm đã qua, vào lúc trời vừa sáng, Đức Thế Tôn đắp y mang bát vào nước Xá-vệ. …
(Xem: 1109)
Thánh hiệu của Bồ-tát Quán Thế Âm, tại Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc là Thánh hiệu mà không ai chẳng biết.
(Xem: 1451)
Việc nâng cao các tiện nghi vật chấtphương tiện hỗ trợ phát triển bản thânnhững tưởng giúp ta cởi bỏ phiền lụy để sống an vui,
(Xem: 919)
Con người khổ đau vì không biết và không thể sống đời sống chân thực (real life). Đời sống chân thựctrong bài này được gọi là “thực tại của đời sống”.
(Xem: 818)
Duy Thức Tam Thập Tụng, tác giả: tổ Thế Thân (316-396), dịch giả Phạn - Hán: Tam Tạng Pháp Sư Huyền Trang (602-664), có tất cả 30 bài tụng
(Xem: 920)
Đầu Xuân năm Tân Sửu, tôi có dịp sang chùa Khánh Anh ở Pháp, đã gặp Đạo hữu Seng Souvanh Khamdeng Pháp Danh Quảng Chơn, là chồng của Cô Trung Diệp Phạm Thị Hợi, vốn là em gái của cố Hòa Thượng Thích Tuệ Sỹ.
(Xem: 939)
Việc nâng cao các tiện nghi vật chấtphương tiện hỗ trợ phát triển bản thân những tưởng giúp ta cởi bỏ phiền lụy để sống an vui, nhưng thực tế, ta vẫn còn tiếp tục loay hoay giữa rối ren.
(Xem: 904)
Nước chảy mây bay có khoảnh khắc nào ngưng, hoa rơi lá rụng bốn mùa luân chuyển, người đến rồi đi cũng chưa từng gián đoạn bao giờ.
(Xem: 932)
Khi bạn giữ hơi thở trong tâm, bạn gom bốn niệm xứ vào một. Hơi thở là thân, các cảm giác (thọ) nằm trong thân, tâm (tưởng) nằm trong thân, phẩm chất tinh thần (pháp) nằm trong tâm.
(Xem: 1066)
Đêm dần tàn và ngày i đang lên Băng tuyết lạnh mần thủy tiên đã nhú Mùa đông trắng cành đào hồng đơm nụ Xuân rạng ngời hoan hỷ đợi muôn hoa
(Xem: 888)
Khi thân yên, ta có thể hiểu biết về thân. Khi tâm tĩnh lặng, ta có hiểu biết về tâm. Khi hơi thở tĩnh lặng, ta có hiểu b
(Xem: 1033)
Phật rời khỏi thế gian này rồi, lưu lại một số kỉ niệm cho chúng ta, chúng ta chiêm ngưỡng lễ lạy như Phật còn tại thế.
(Xem: 1037)
Qua lịch sử, người ta đã vạch ra, lên án những hành vi, những con người hung ác nhưng chưa định nghĩa thế nào là hung ác.
(Xem: 958)
Trong vài thập niên gần đây, thuật ngữ “tâm linh” trở nên rất thời thượng, tràn ngập khắp trên mặt báo chí, truyền thông, mạng xã hội,
(Xem: 975)
Trong kiếp Đức Thích Ca thành PhậtẤn Độ, người đối nghịch, thậm chí phá hoại đưa đến âm mưu sát hại Ngài là Đề Bà Đạt Đa.
(Xem: 901)
Không áo mão cân đai. Không y hồng hiệp chưởng. Một bộ y hậu thường nhật mà thôi. Nơi khám thờ hậu Tổ, một di ảnh đơn sơ, bình dị, vậy mà bao nhiêu bài viết đã xưng tánThiền Sư.
(Xem: 1064)
Con người được mô tả gồm hai phần: Thể xác và tinh thần. Theo thuật ngữ Phật học thì thể xác tức thân thể con người gọi là “Sắc”, còn tinh thần là “Danh” tức là tâm.
(Xem: 1008)
Tâm từ bi, lòng trắc ẩn và không làm tổn hại là những những giá trị phổ quát trong Phật giáo, cho nên đối với người dân Bhutan
(Xem: 935)
Trong đời mỗi chúng sinh, đặc biệtcon người, sinh tử vẫn là điều làm cho chúng ta bất an, lo sợ nhất, dẫu biết rằng không ai thoát khỏi quy luật này
(Xem: 1045)
Tham ái với thân, tập trung lo cho thân tứ đại một cách thái quá, đó là trói buộc.
(Xem: 969)
Không hiểu con người biết thương-ghét tự bao giờ? Chắc chắnkhi còn nằm trong bụng mẹ thì không có thương-ghét.
(Xem: 899)
Từ lâu chúng ta nghe nói nhiều về xá lợi, trong đó xá lợi Phật và chư thánh Tăng với lòng sùng tín.
(Xem: 1003)
Tôi không biết. Nhưng tôi biết có kiếp trước. Làm sao biết? Bởi vì nếu khôngkiếp trước, làm sao có tôi ở kiếp này?
(Xem: 941)
Doanh nhân hiện nay không riêng gì ở Việt Nam đang đối đầu với nhiều khó khăn: tình trạng mất đơn hàng do ảnh hưởng suy thoái toàn cầu,
(Xem: 1191)
Dùng bè để qua sông, qua sông rồi thì bỏ bè là thí dụ nổi tiếng về pháp phương tiện trong kinh Phật.
(Xem: 968)
Ông cha ta có câu “gieo nhân nào gặt quả ấy” hay “thiện có thiện báo, ác có ác báo”.
(Xem: 1049)
Các anh chị GĐPT đồng phục áo lam, hoa sen trắng đã nhất tề cung nghinh kim quan Đạo Sư, mà bao lần Đạo Sư đã khuyến thỉnh, sách tấn để giữ trọn phương chăm Bi, Trí, Dũng GĐPT Việt Nam, thể hiện một chút tình, gánh kim quan trên vai để đền ơn đáp nghĩa.
(Xem: 1219)
Đạo Phật do đức Phật Thích Ca mâu Ni (Sakya Muni Buddha) khai sáng ở Ấn Độ. Căn bản của giáo phápTứ Diệu Đế, Bát Chánh Đạo
(Xem: 1654)
Hình ảnh, âm thanh đi vào cõi vô tung, đồng vọng ngàn sau, bặt tích, hay lưu lộ hình ảnh đôi bạn chân tình nơi chốn hiu hắt bụi đường mà đôi chân không hề mỏi.
(Xem: 1222)
Con đường giải thoát, tức là Bát Chánh Đạo. Có thể gói trọn vào một câu, hay hai câu, hay vài câu được không?
(Xem: 1295)
Nhĩ căn viên thông là khả năng mà Bồ-tát Quán Thế Âmthành tựu được nhờ vào sự tu tập ba phương pháp lắng nghe, tư duy và hành động (Văn, Tư, Tu).
(Xem: 1158)
Người xưa nói “Lưỡi không xương nhiều đường lắt léo”. Dù cho miệng lưỡi thế gian có thế nào chúng ta vẫn an nhiên, “tâm không bị biến đổi, miệng không phát ra lời nói cộc cằn”
(Xem: 1016)
Immanuel Kant (1724-1804) là triết gia vĩ đại, người sáng lập ra nền triết học cổ điển Đức.
(Xem: 982)
Tu tập hằng ngày chúng ta thường được các vị Thầy hướng dẫn, nhắc nhở nếu muốn giác ngộ, thoát khổ,
(Xem: 1009)
Ven. Pannyavaro là một tu sĩ Phật giáo người Úc, Ngài đã cống hiếncả đời mình tu tập thiền định theo giáo lý Đức Phật.
(Xem: 861)
Kinh, Luật, Luận của Phật Giáo cả Nam Truyền lẫn Bắc Truyền đọc tụng suốt cả đời cũng không hết. Bởi lẽ lời Phật, lời Tổ quá sâu sắc nhiệm mầu
(Xem: 1534)
“Để được làm người, sinh mệnh đó thực sự may mắn”.
(Xem: 1404)
Quan điểm của Phật giáo nói chung, mọi biến động của đời sống tự nhiênxã hội đều là biểu hiện của nghiệp, do nghiệp lực của nhân loại hiện hành chi phối.
(Xem: 1385)
Trong Phật giáo Đại thừa, bản chất của sự giác ngộ được gọi là bồ đề tâm, có nghĩa là tâm thức tỉnh.
(Xem: 1326)
Vào thế kỷ trước khi Đức Phật đản sinh, vùng đông bắc Ấn Độ đã trải qua những biến đổi sâu rộng làm định hình lại địa chính trị của khu vực một cách sâu sắc.
(Xem: 1413)
Tâm trí của Đức Phật được gọi là bồ đề tâm, nghĩa đen là “tâm giác ngộ”. Bồ đề tâm có hai khía cạnh
(Xem: 1379)
Hệ thống kinh điển trí huệ (bát nhã) tánh Không thường được xếp thành ba phạm trù: Văn tự Bát nhã, Quán chiếu Bát nhã, và Thật tướng Bát nhã.
(Xem: 1521)
Tăng đoàn thời Đức Phật còn tại thế không những có hai giai cấp quyền quý tại Ấn ĐộBà La Môn như: Xá Lợi Phất, Mục Kiền Liên, Đại Ca Diếp,…
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant