Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Bánh xe pháp của vua A Dục hay là bức thông điệp hòa bình gởi cho thế giới

15 Tháng Ba 201100:00(Xem: 13705)
Bánh xe pháp của vua A Dục hay là bức thông điệp hòa bình gởi cho thế giới

BÁNH XE PHÁP CỦA VUA A DỤC

HAY LÀ BỨC THÔNG ĐIỆP HÒA BÌNH GỞI CHO THẾ GIỚI

Nguyên tác: Dr. R. L. Soni

Việt dịch: HT. Thích Trí Chơn

 

Thế giới hiện đang lâm vào tình trạng bất an. Hai cuộc thế chiến tàn khốc trước đây khiến cho thế giới con người đã phải đổ không biết bao nhiêu là máu, khốn cùng và kiệt quệ. Nền tảng của nền văn minhvăn hóa nhân loại hầu đã bị lung lay: Người thắng cũng như kẻ bại thảy đều là những bằng chứng để nói lên rõ sự phá sản đạo đức và sa đọa tinh thần của nhân loại. Và hiện nay, viễn tượng khủng khiếp của một trận thế chiến thứ ba như đang đè nặng trên tâm hồn con người với mọi đe dọa tàn phá ghê gớm của những loại bom nguyên tử vô cùng ác hại.

Thế giới ngày nay như chiếc xe hơi với tên say rượu cầm lái và đang lao mình xuống vực thẳm, nếu không có gì ngăn chận để hướng nó sang con đường khác an toàn hơn thì chắc nhân loại không tránh khỏi rơi vào tai họa khủng khiếp và khổ đau. Cố thủ tướng Nehru của Ấn Độ đã tỏ ra sáng suốt khi ông tuyên bố rằng: “Nếu thật thế giới hiện nay, không có gì đáng cho chúng ta duy trì để chung sống thì tốt hơn, chúng ta nên tiêu diệt nó bằng bom nguyên tử hay bất cứ loại bom nào khác. Nhưng nếu thấy thế giới này cần được cứu thoát thì nhân loại nên cố gắng tận cùng để phá hủy những loại bom ác hại đó đi. Nghĩa là bom cần đem dùng để tiêu diệt nhân loại hoặc bom phải phá hủy để nhân loại được sống còn”. Dĩ nhiên là ai cũng thích trường hợp sau. Thật vậy, cần phải có một phương pháp hữu hiệu để giải quyết tình trạng thập tử nhất sinh này. Phương pháp chấm dứt hận thù bằng cách gây thêm thù hận đã thất bại, nghĩa là bạo tàn không bao giờ có thể diệt được tàn bạo.

Tưởng đã đến lúc chúng ta nên lật xem lại những trang sử đã qua của nhân loại để tìm một phương thuốc hữu hiệu mong chữa lành được bệnh tình trầm trọng của thế giới chúng ta hôm nay. Phương thuốc đó chúng ta có thể tìm thấy nơi bánh xe Pháp ở chiếc trụ đá vĩ đại của vua A Dục đã dựng nên thời xưa. Qua 23 thế kỷ không bị bụi đời phủ lấp và thời gian tàn phá, bánh xe Pháp huy hoàng ấy ngày nay vẫn còn chói sáng, ngự trị trên chiếc cột trụ bằng đá cổ kính, oai nghiêm ở Ấn Độ để gởi đến thế giới đầy máu lệ, chiến tranh này bức thông điệp của hòa bình, tình thươnghy vọng. Trải qua bao thế kỷ, tiếng nói ngọc vàng của A Dục Vương vẫn còn vang dội mãi với thời gian, không gian: “Hạnh phúc con người không phải xây dựng trên hận thù mà trên tình thương. Không phải chiến tranh mà là hòa bình mới chinh phục được thế giới”. Đây là phương thuốc thần diệu, là lá bùa linh nghiệmthế giới đang khẩn cấp cần thiết để chữa lành những cơn bệnh trầm trọng, những phá sản khốc liệt về tinh thầnđạo đức của con người hiện nay. Bánh xe Pháp của A Dục Vương còn là một hình ảnh tượng trưng cho nền hòa bình thế giới được thể hiện qua tình thương. Thật không một lý tưởng cao cả nào đáng tôn thờ hơn, không một con đường hoàn hảo nào đáng theo hơn.

Chúng ta mong rằng lý tưởng cao quý này sẽ là ngọn đuốc dẫn đường, soi sáng tinh thần cho những nhà cầm quyền, các chính khách và lãnh tụ trong giai đoạn mà hiện tất cả họ như mù quáng không tìm được một hướng đi chân chính. Chỉ có vậy, thế giới mới hy vọng cứu thoát khỏi họa diệt vong, gây nên bởi những ngộ nhận, cố chấphận thù. Chúng ta càng nghĩ đến những lời giáo huấn trên của vua A Dục bao nhiêu, chúng ta càng cảm thấy thán phục lý tưởng của Ngài bấy nhiêu. Như một mặt trời thu nhỏ, nó rọi chiếu khắp nơi ánh sáng của từ bi, trí tuệđại dũng. Hoặc như chiếc hoa với những cánh thơm, đang tỏa khắp nơi mùi hương của hòa bình. Hơn thế nữa, nó còn là một biểu tượng nói lên sự tiến bộ, những hoạt độngnỗ lực chân chính hướng về lẽ thiện của con người.

Tồn tại qua bao nhiêu thế kỷ, ngày nay bánh xe Pháp của vua A Dục với một sứ mạng mới, đã gởi đến mọi quốc gia trên thế giới bức thông điệp hòa bình của Ấn độ ngàn xưa. Giữa khung trời sáng rộng, chuyển động từ trên cao của cột trụ đá, bánh xe nầy như không ngừng truyền đi khắp nơi lời nói của A Dục Vương: “Tôi nguyện sẽ không bao giờ tham dự vào những cuộc xâm lăng. Tôi nguyện cương quyết sẵn sàng chiến thắng mọi đàn áp, khủng bố, bất công và tàn bạo”. Chính bởi lúc nhân loại đang cần phục hồi lý tưởng hòa bình đó mà bánh xe Pháp này đã trở thành một bảo vật tượng trưng cho mối liên lạc tinh thần giữa các dân tộc quốc gia. Thật vậy, nó là một sức mạnh nhiệm mầu để tạo nên sự đoàn kết thế giới, là khí cụ thần diệu để đương đầu chống lại với những quả bom nguyên tử sắp tận diệt nhân loại.

Nếu hiện tại mọi người ai cũng biết thực hành theo lý tưởng trên của vua A Dục thì thế giới nhân loại ngày mai sẽ hạnh phúc biết bao. Đó là lúc mà con người sống không còn hận thù xung đột, mọi thứ súng ống bom đạn đều được phá hủy bởi sức mạnh của tình thương và mọi dân tộc bắt đầu chung sống thân yêu như anh em trong một đại gia đình. Thật vậy, đến lúc đó và chỉ lúc đó, chúng ta mới mong được hát lại với nỗi lòng thành thật sung sướng, điệu nhạc an lành khắc ghi ngàn đời nơi cột trụ đá bất diệt của vua A Dục. Đến lúc đó và chỉ lúc đó, chúng ta mới mong thực sự thưởng thức bài ca hòa bình mà qua bao thế kỷ đã được truyền đi từ tấm bia ký của Ngài. Lúc đó và chỉ lúc đó, chúng ta mới hiểu rõ được những ý nghĩa sâu xa mà vị đại vương đã nói từ xưa: “Ngày nay do nhờ kết quả thực hành Phật giáo của trẫm, mà tiếng trống chiến tranh đã im bặt và thay vào đó, người ta chỉ còn nghe những pháp âm nhiệm mầu của đức Phật”.

Mong rằng tất cả chúng ta đều hoạt động không ngừng cho lý tưởng cao quý này. Mong rằng chúng ta sẽ sớm được thấy nhân loại quay về với chủ trương hòa bình ghi trên bánh xe Pháp của vua A Dục. Chúng ta sẽ được chứng kiến cái cảnh thanh bình với sự im bặt hoàn toàn những âm thanh khủng khiếp của bom đạn và vang dội khắp nơi lời dạy ngọc vàng của đức Thế Tôn. Và chỉ có như vậy, nhân loại may ra mới được cứu thoát.

 Trích tạp chí Jayanti tập 1, số 4, ấn hành tại Tích Lan

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 595)
Ajaan Dune Atulo (1888-1983) sinh ngày 4 tháng 10/1888 tại làng Praasaat, huyện Muang, tỉnh Surin. Năm 22 tuổi ngài xuất gia ở tỉnh lỵ.
(Xem: 779)
Đức Phật là đấng Toàn giác, bậc trí tuệ siêu việt. Càng hiểu Phật phápcuộc đời, ta càng thấy những gì Đức Phật dạy là vô cùng đúng đắn.
(Xem: 1100)
Một cá nhân hay đoàn thể đệ tử Phật thực sự có tu tập giới-định-tuệ thì được mọi người kính trọng; sống hòa hợp, nhẫn nhịn, không tranh chấp đấu đá lẫn nhau chắc chắn được mọi người thương mến.
(Xem: 1268)
"Một thời Đức Phật du hóa tại nước Xá-vệ, trong rừng Thắng, vườn Cấp Cô Độc. Bấy giờ, khi đêm đã qua, vào lúc trời vừa sáng, Đức Thế Tôn đắp y mang bát vào nước Xá-vệ. …
(Xem: 997)
Thánh hiệu của Bồ-tát Quán Thế Âm, tại Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc là Thánh hiệu mà không ai chẳng biết.
(Xem: 1339)
Việc nâng cao các tiện nghi vật chấtphương tiện hỗ trợ phát triển bản thânnhững tưởng giúp ta cởi bỏ phiền lụy để sống an vui,
(Xem: 789)
Con người khổ đau vì không biết và không thể sống đời sống chân thực (real life). Đời sống chân thựctrong bài này được gọi là “thực tại của đời sống”.
(Xem: 763)
Duy Thức Tam Thập Tụng, tác giả: tổ Thế Thân (316-396), dịch giả Phạn - Hán: Tam Tạng Pháp Sư Huyền Trang (602-664), có tất cả 30 bài tụng
(Xem: 807)
Đầu Xuân năm Tân Sửu, tôi có dịp sang chùa Khánh Anh ở Pháp, đã gặp Đạo hữu Seng Souvanh Khamdeng Pháp Danh Quảng Chơn, là chồng của Cô Trung Diệp Phạm Thị Hợi, vốn là em gái của cố Hòa Thượng Thích Tuệ Sỹ.
(Xem: 823)
Việc nâng cao các tiện nghi vật chấtphương tiện hỗ trợ phát triển bản thân những tưởng giúp ta cởi bỏ phiền lụy để sống an vui, nhưng thực tế, ta vẫn còn tiếp tục loay hoay giữa rối ren.
(Xem: 802)
Nước chảy mây bay có khoảnh khắc nào ngưng, hoa rơi lá rụng bốn mùa luân chuyển, người đến rồi đi cũng chưa từng gián đoạn bao giờ.
(Xem: 790)
Khi bạn giữ hơi thở trong tâm, bạn gom bốn niệm xứ vào một. Hơi thở là thân, các cảm giác (thọ) nằm trong thân, tâm (tưởng) nằm trong thân, phẩm chất tinh thần (pháp) nằm trong tâm.
(Xem: 947)
Đêm dần tàn và ngày i đang lên Băng tuyết lạnh mần thủy tiên đã nhú Mùa đông trắng cành đào hồng đơm nụ Xuân rạng ngời hoan hỷ đợi muôn hoa
(Xem: 834)
Khi thân yên, ta có thể hiểu biết về thân. Khi tâm tĩnh lặng, ta có hiểu biết về tâm. Khi hơi thở tĩnh lặng, ta có hiểu b
(Xem: 988)
Phật rời khỏi thế gian này rồi, lưu lại một số kỉ niệm cho chúng ta, chúng ta chiêm ngưỡng lễ lạy như Phật còn tại thế.
(Xem: 1007)
Qua lịch sử, người ta đã vạch ra, lên án những hành vi, những con người hung ác nhưng chưa định nghĩa thế nào là hung ác.
(Xem: 929)
Trong vài thập niên gần đây, thuật ngữ “tâm linh” trở nên rất thời thượng, tràn ngập khắp trên mặt báo chí, truyền thông, mạng xã hội,
(Xem: 931)
Trong kiếp Đức Thích Ca thành PhậtẤn Độ, người đối nghịch, thậm chí phá hoại đưa đến âm mưu sát hại Ngài là Đề Bà Đạt Đa.
(Xem: 858)
Không áo mão cân đai. Không y hồng hiệp chưởng. Một bộ y hậu thường nhật mà thôi. Nơi khám thờ hậu Tổ, một di ảnh đơn sơ, bình dị, vậy mà bao nhiêu bài viết đã xưng tánThiền Sư.
(Xem: 1014)
Con người được mô tả gồm hai phần: Thể xác và tinh thần. Theo thuật ngữ Phật học thì thể xác tức thân thể con người gọi là “Sắc”, còn tinh thần là “Danh” tức là tâm.
(Xem: 954)
Tâm từ bi, lòng trắc ẩn và không làm tổn hại là những những giá trị phổ quát trong Phật giáo, cho nên đối với người dân Bhutan
(Xem: 897)
Trong đời mỗi chúng sinh, đặc biệtcon người, sinh tử vẫn là điều làm cho chúng ta bất an, lo sợ nhất, dẫu biết rằng không ai thoát khỏi quy luật này
(Xem: 995)
Tham ái với thân, tập trung lo cho thân tứ đại một cách thái quá, đó là trói buộc.
(Xem: 910)
Không hiểu con người biết thương-ghét tự bao giờ? Chắc chắnkhi còn nằm trong bụng mẹ thì không có thương-ghét.
(Xem: 850)
Từ lâu chúng ta nghe nói nhiều về xá lợi, trong đó xá lợi Phật và chư thánh Tăng với lòng sùng tín.
(Xem: 958)
Tôi không biết. Nhưng tôi biết có kiếp trước. Làm sao biết? Bởi vì nếu khôngkiếp trước, làm sao có tôi ở kiếp này?
(Xem: 884)
Doanh nhân hiện nay không riêng gì ở Việt Nam đang đối đầu với nhiều khó khăn: tình trạng mất đơn hàng do ảnh hưởng suy thoái toàn cầu,
(Xem: 1143)
Dùng bè để qua sông, qua sông rồi thì bỏ bè là thí dụ nổi tiếng về pháp phương tiện trong kinh Phật.
(Xem: 914)
Ông cha ta có câu “gieo nhân nào gặt quả ấy” hay “thiện có thiện báo, ác có ác báo”.
(Xem: 1016)
Các anh chị GĐPT đồng phục áo lam, hoa sen trắng đã nhất tề cung nghinh kim quan Đạo Sư, mà bao lần Đạo Sư đã khuyến thỉnh, sách tấn để giữ trọn phương chăm Bi, Trí, Dũng GĐPT Việt Nam, thể hiện một chút tình, gánh kim quan trên vai để đền ơn đáp nghĩa.
(Xem: 1154)
Đạo Phật do đức Phật Thích Ca mâu Ni (Sakya Muni Buddha) khai sáng ở Ấn Độ. Căn bản của giáo phápTứ Diệu Đế, Bát Chánh Đạo
(Xem: 1616)
Hình ảnh, âm thanh đi vào cõi vô tung, đồng vọng ngàn sau, bặt tích, hay lưu lộ hình ảnh đôi bạn chân tình nơi chốn hiu hắt bụi đường mà đôi chân không hề mỏi.
(Xem: 1164)
Con đường giải thoát, tức là Bát Chánh Đạo. Có thể gói trọn vào một câu, hay hai câu, hay vài câu được không?
(Xem: 1260)
Nhĩ căn viên thông là khả năng mà Bồ-tát Quán Thế Âmthành tựu được nhờ vào sự tu tập ba phương pháp lắng nghe, tư duy và hành động (Văn, Tư, Tu).
(Xem: 1113)
Người xưa nói “Lưỡi không xương nhiều đường lắt léo”. Dù cho miệng lưỡi thế gian có thế nào chúng ta vẫn an nhiên, “tâm không bị biến đổi, miệng không phát ra lời nói cộc cằn”
(Xem: 977)
Immanuel Kant (1724-1804) là triết gia vĩ đại, người sáng lập ra nền triết học cổ điển Đức.
(Xem: 919)
Tu tập hằng ngày chúng ta thường được các vị Thầy hướng dẫn, nhắc nhở nếu muốn giác ngộ, thoát khổ,
(Xem: 960)
Ven. Pannyavaro là một tu sĩ Phật giáo người Úc, Ngài đã cống hiếncả đời mình tu tập thiền định theo giáo lý Đức Phật.
(Xem: 804)
Kinh, Luật, Luận của Phật Giáo cả Nam Truyền lẫn Bắc Truyền đọc tụng suốt cả đời cũng không hết. Bởi lẽ lời Phật, lời Tổ quá sâu sắc nhiệm mầu
(Xem: 1486)
“Để được làm người, sinh mệnh đó thực sự may mắn”.
(Xem: 1366)
Quan điểm của Phật giáo nói chung, mọi biến động của đời sống tự nhiênxã hội đều là biểu hiện của nghiệp, do nghiệp lực của nhân loại hiện hành chi phối.
(Xem: 1330)
Trong Phật giáo Đại thừa, bản chất của sự giác ngộ được gọi là bồ đề tâm, có nghĩa là tâm thức tỉnh.
(Xem: 1274)
Vào thế kỷ trước khi Đức Phật đản sinh, vùng đông bắc Ấn Độ đã trải qua những biến đổi sâu rộng làm định hình lại địa chính trị của khu vực một cách sâu sắc.
(Xem: 1379)
Tâm trí của Đức Phật được gọi là bồ đề tâm, nghĩa đen là “tâm giác ngộ”. Bồ đề tâm có hai khía cạnh
(Xem: 1333)
Hệ thống kinh điển trí huệ (bát nhã) tánh Không thường được xếp thành ba phạm trù: Văn tự Bát nhã, Quán chiếu Bát nhã, và Thật tướng Bát nhã.
(Xem: 1478)
Tăng đoàn thời Đức Phật còn tại thế không những có hai giai cấp quyền quý tại Ấn ĐộBà La Môn như: Xá Lợi Phất, Mục Kiền Liên, Đại Ca Diếp,…
(Xem: 1355)
Lịch sử truyền thừa của Ni giới ở một số bộ phái Phật giáo nói chung mãi đến hôm nay vẫn còn nhiều vấn đề chưa thể lý giải trọn vẹn.
(Xem: 1208)
Thiện ngữ là nói lời lành, chân thật, nhẹ nhàng, xây dựng, đoàn kết, yêu thương.
(Xem: 1267)
Cuộc sống rất ngắn ngủi, vì thế hãy phá bỏ cái tôi ngớ ngẩn của mình, nhanh chóng tha thứ, tin tưởng yêu thương thật lòng
(Xem: 1326)
Một thời, Thế Tôn trú ở giữa dân chúng Sakka, tại Kapilavatthu, ở khu vườn Nigrodha.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant