Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Phía sau cánh cửa…

25 Tháng Hai 201200:00(Xem: 17583)
Phía sau cánh cửa…


blank
Mái nhà quê - Ảnh: Thaiphong

Đơn giản chỉ là một cánh cửa phía sau nhà thôi, nhưng nó đã đi vào nếp sống, nếp nghĩ của mỗi người trên mảnh đất “lắm nắng nhiều mưa” của quê hương tôi.

Không đẹp đẽ, trang hoàng như tường rào, cửa sắt. Chiếc cửa sau nhà đa số đều là những cánh cửa gỗ. Và tất cả mọi hoạt động của con người, sự vật đều được khắc họa sau cánh cửa đó.

Mỗi khi ở nhà một mình để trông nhà cho bố mẹ đi làm đồng xa, tôi thường ra bậc cửa sau để nhìn những ngôi nhà rúm ró trong khói chiều bảng lảng, để nghe tiếng chim gù trên mấy nhành tre buông xõa. Và cũng cánh cửa đó, mỗi lúc bị ông cho ăn roi, tôi thường ra đó ngồi một mình để khóc thút thít, cạnh đó có hang dế, nó mở mắt nhìn tôi đầy vẻ giễu cợt.

Không phải là nơi ra vào nhiều như cánh cửa chính phía trước nhà, nhưng cánh cửa sau là một nơi để sinh hoạt, để “cất giấu” những điều gì đó thiêng liêng quá đỗi. Cách khu vườn nhà tôi có con kênh hiền hòa chảy qua, chị tôi thường ra đó giặt quần áo khi ánh bình minh chảy đầy trên vai áo chị. Và ánh hoàng hôn nhuốm một màu đỏ trên mi mắt chị mỗi khi chiều về, chị thường dắt trâu ra đó uống nước.

Cánh cửa sau như là một bức chân dung, để vẽ thêm những gì thật sinh động cho một cuộc sống ở thôn quê. Chúng tôi thường ra sau cánh cửa ngồi đó vào mỗi buổi trưa, để xem lũ trẻ hóng hớt rong chơi, vài ba đứa lên bảy rồi mà vẫn cởi truồng… tồng ngồng!

Bước qua cánh cửa sau ấy là khu vườn đầy tiếng chim kêu, đầy nắng, đầy gió và nó đã lưu giữ những khoảnh khắc, những cái nhìn xa xăm của bà tôi. Bên khung cửa, bà nhìn ánh nắng tắt dần để gọi đêm về buông xuống khu vườn. 

Người trong làng tôi thường thích qua lại với nhau bằng cánh cửa sau. Nhà này sát nhà kia, chỉ cần giẫm lên cái bờ rào dâm bụt, hay bụi cây là đến cửa sau, ngay chái bếp cũ mà tỉ tê tâm sự. Đó cũng là nơi sinh hoạt của gia đình tôi với một vài gia đình láng giềng nằm san sát nhau. Mỗi khi vào cuối mùa thu hoạch ngô, khoai gì đó, mặc dầu nồi vẫn đặt trên bếp chờ cho trái bắp, củ khoai chín dần, thì đã thấy mấy chị hàng xóm “nhiệt tình” qua trải chiếu dưới gốc ổi để nói chuyện với nhau cởi mở.

Từ cánh cửa sau bước ra là cái chái bếp già nua. Còm cõi. Rêu phong theo thời gian, đã trải qua nhiều thế hệ. Ở đó lúc nào cũng có bóng mẹ gầy guộc ngày hai lần nhóm lửa. Ở đó có người ông, người bà ngày ngày đẩy cánh cửa sau chống gậy ra ngoài vườn thắc thỏm xem quả mít, trái ổi đã chín chưa, để phần cho con cháu.

Và từ cánh cửa sau bước ra ngoài vườn, nơi đó cũng là nơi mẹ đã chôn nhau cắt rốn chị em tôi mỗi lần hạ sinh. Và cạnh đó có bụi chuối xanh xanh với mấy búp chuối đỏ chót nằm vắt vẻo trên cao. Có cả mấy tổ chim sẻ đang làm tổ trên cây ổi.

Cánh cửa phía sau nhà như mở ra một thế giới riêng thật đẹp, thật bình dị đối với đời sống thôn quê. Để rồi cánh cửa đó trở thành một vật gì thiêng liêng quá đỗi, mà chỉ có ngôn ngữ trái tim mới định nghĩa được.

Mỗi khi đến ngày rằm, khi ánh trăng bồng bềnh trôi qua khe cửa, chị em tôi thường ngồi trên chiếc giường tre của ông tôi để ngắm chị Hằng, ngắm chú Cuội. Và để nghe hương ổi hương cau chùng chình trong gió ùa về phía cửa.

Tạo cửa, làm nhà thường là công việc của một người đàn ông, nhưng trong mỗi gia đình, đằng sau cánh cửa bếp là bóng dáng của người phụ nữ, người mẹ, người vợ, từ khi về làm dâu cho đến khi có con, có cháu. Tiếp nối từ đời này qua đời khác.

Trong câu hát xưa, đã thấp thoáng hình ảnh của cánh cửa phía sau nhà, nơi đó như là một chỗ tựa để người con gái nhớ về quê hương khi lấy chồng xa xứ:

“Chiều chiều ra đứng cửa sau
Trông về quê mẹ ruột đau chín chiều”.

Mẹ tôi thường kể lại rằng, ngày mẹ mới đi lấy chồng, ngoài việc bếp núc, gắn bó với mảnh vườn, thớ đất, mỗi khi nghe tiếng chim vịt kêu chiều mẹ tôi thường tựa vào đó ngóng về phía chân trời xa xa, đỏ quạch ánh hoàng hôn để nhớ về quê nhà, thương cha mẹ nhiều hơn.

Cứ như một nhịp kim đồng hồ, bên cánh cửa phía sau nhà đó, mẹ tôi thường ngóng về quê cũ, lâu dần thành một thói quen, để rồi từ cái “chiều chiều” đó đã trở thành cái “chín chiều” trong trái tim vỡ vụn, lo toan của người con gái lấy chồng xa.

Chái bếp phía sau cánh cửa, đó là nơi mà nồi cơm nguội, niêu nước chè mẹ đã để sẵn cho chúng tôi khi không có nhà. Mỗi khi đi học về, chúng tôi thường ngồi trên bậc cửa để nhấm nháp từng miếng cơm nguội với nồi canh cua đồng mát rượi.

Vào những buổi trưa hè không ngủ, nhìn thấy lũ bạn thập thò ngoài cửa sổ, tôi thường rón rén ra cửa sau để theo chúng nó nhảy dây, mặc cho ngọn roi dâu của bố đang nằm vắt vẻo trên phên, như muốn đe dọa những trận đòn.

Tiếng gà mái cục tác tìm mồi, gà con chim chíp và những thân cây vừa đâm chồi nảy lộc, tiếng xối nước ào ào bên chum nước của em tôi, cùng cảnh mẹ tần tảo sàn thóc… Tất cả đều được khắc họa qua cánh cửa màu xanh mộc mạc, thấm đượm tình quê, tình người ấy.

đâu đó, cánh cửa sau còn chứa trong mình những tục lệ mà ngày xưa ông bà ta đã để lại. Những đôi lứa yêu nhau, nhưng vì lỡ “ăn cơm trước kẻng”, đến khi rước dâu, người ta thường rước vào cửa sau để tránh đi những điều tai tiếng, và tránh đi những gì được cho là không hay trong gia đình chồng.

Và từ cánh cửa sau trong thực tế, nó được dùng như một khái niệm để chỉ những công việc, những cách nói, cách hiểu trong mối quan hệ xã hội ngày nay.

Hình ảnh cánh cửa sau trong mỗi gia đình, đã góp phần rất lớn vào sinh hoạt cũng như nếp sống, nếp nghĩ trên mỗi chặng đường quê. Và cánh cửa ấy, thế giới ấy là một nhịp cầu để gắn liền tình cảm gia đình, tình làng nghĩa xóm từ ngày này qua tháng nọ, trong tâm thức của tất cả những người con yêu quê và nhớ quê.


Thanh Trâm
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 766)
Từ “Phật” (Buddha) đã được biết đến và lưu truyền trước khi Đức Phật xuất hiệnẤn Độ.
(Xem: 736)
Đức Phật, Ngài là con người, bằng xương bằng thịt, như bao nhiêu con người khác...nhưng Ngài là một con người giác ngộ, tỉnh thức...
(Xem: 749)
Tham ái với thân, tập trung lo cho thân tứ đại một cách thái quá, đó là trói buộc.
(Xem: 745)
Trời có lúc nắng lúc mưa, người có lúc may mắn hoặc xui xẻo. Nhưng không có cái gì tự dưng sinh ra hay mất đi, tất cả đều có lý do của do của nó.
(Xem: 648)
Ajaan Dune Atulo (1888-1983) sinh ngày 4 tháng 10/1888 tại làng Praasaat, huyện Muang, tỉnh Surin. Năm 22 tuổi ngài xuất gia ở tỉnh lỵ.
(Xem: 832)
Đức Phật là đấng Toàn giác, bậc trí tuệ siêu việt. Càng hiểu Phật phápcuộc đời, ta càng thấy những gì Đức Phật dạy là vô cùng đúng đắn.
(Xem: 1221)
Một cá nhân hay đoàn thể đệ tử Phật thực sự có tu tập giới-định-tuệ thì được mọi người kính trọng; sống hòa hợp, nhẫn nhịn, không tranh chấp đấu đá lẫn nhau chắc chắn được mọi người thương mến.
(Xem: 1391)
"Một thời Đức Phật du hóa tại nước Xá-vệ, trong rừng Thắng, vườn Cấp Cô Độc. Bấy giờ, khi đêm đã qua, vào lúc trời vừa sáng, Đức Thế Tôn đắp y mang bát vào nước Xá-vệ. …
(Xem: 1115)
Thánh hiệu của Bồ-tát Quán Thế Âm, tại Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc là Thánh hiệu mà không ai chẳng biết.
(Xem: 1452)
Việc nâng cao các tiện nghi vật chấtphương tiện hỗ trợ phát triển bản thânnhững tưởng giúp ta cởi bỏ phiền lụy để sống an vui,
(Xem: 921)
Con người khổ đau vì không biết và không thể sống đời sống chân thực (real life). Đời sống chân thựctrong bài này được gọi là “thực tại của đời sống”.
(Xem: 819)
Duy Thức Tam Thập Tụng, tác giả: tổ Thế Thân (316-396), dịch giả Phạn - Hán: Tam Tạng Pháp Sư Huyền Trang (602-664), có tất cả 30 bài tụng
(Xem: 923)
Đầu Xuân năm Tân Sửu, tôi có dịp sang chùa Khánh Anh ở Pháp, đã gặp Đạo hữu Seng Souvanh Khamdeng Pháp Danh Quảng Chơn, là chồng của Cô Trung Diệp Phạm Thị Hợi, vốn là em gái của cố Hòa Thượng Thích Tuệ Sỹ.
(Xem: 939)
Việc nâng cao các tiện nghi vật chấtphương tiện hỗ trợ phát triển bản thân những tưởng giúp ta cởi bỏ phiền lụy để sống an vui, nhưng thực tế, ta vẫn còn tiếp tục loay hoay giữa rối ren.
(Xem: 908)
Nước chảy mây bay có khoảnh khắc nào ngưng, hoa rơi lá rụng bốn mùa luân chuyển, người đến rồi đi cũng chưa từng gián đoạn bao giờ.
(Xem: 936)
Khi bạn giữ hơi thở trong tâm, bạn gom bốn niệm xứ vào một. Hơi thở là thân, các cảm giác (thọ) nằm trong thân, tâm (tưởng) nằm trong thân, phẩm chất tinh thần (pháp) nằm trong tâm.
(Xem: 1068)
Đêm dần tàn và ngày i đang lên Băng tuyết lạnh mần thủy tiên đã nhú Mùa đông trắng cành đào hồng đơm nụ Xuân rạng ngời hoan hỷ đợi muôn hoa
(Xem: 890)
Khi thân yên, ta có thể hiểu biết về thân. Khi tâm tĩnh lặng, ta có hiểu biết về tâm. Khi hơi thở tĩnh lặng, ta có hiểu b
(Xem: 1034)
Phật rời khỏi thế gian này rồi, lưu lại một số kỉ niệm cho chúng ta, chúng ta chiêm ngưỡng lễ lạy như Phật còn tại thế.
(Xem: 1038)
Qua lịch sử, người ta đã vạch ra, lên án những hành vi, những con người hung ác nhưng chưa định nghĩa thế nào là hung ác.
(Xem: 960)
Trong vài thập niên gần đây, thuật ngữ “tâm linh” trở nên rất thời thượng, tràn ngập khắp trên mặt báo chí, truyền thông, mạng xã hội,
(Xem: 986)
Trong kiếp Đức Thích Ca thành PhậtẤn Độ, người đối nghịch, thậm chí phá hoại đưa đến âm mưu sát hại Ngài là Đề Bà Đạt Đa.
(Xem: 907)
Không áo mão cân đai. Không y hồng hiệp chưởng. Một bộ y hậu thường nhật mà thôi. Nơi khám thờ hậu Tổ, một di ảnh đơn sơ, bình dị, vậy mà bao nhiêu bài viết đã xưng tánThiền Sư.
(Xem: 1068)
Con người được mô tả gồm hai phần: Thể xác và tinh thần. Theo thuật ngữ Phật học thì thể xác tức thân thể con người gọi là “Sắc”, còn tinh thần là “Danh” tức là tâm.
(Xem: 1011)
Tâm từ bi, lòng trắc ẩn và không làm tổn hại là những những giá trị phổ quát trong Phật giáo, cho nên đối với người dân Bhutan
(Xem: 935)
Trong đời mỗi chúng sinh, đặc biệtcon người, sinh tử vẫn là điều làm cho chúng ta bất an, lo sợ nhất, dẫu biết rằng không ai thoát khỏi quy luật này
(Xem: 1046)
Tham ái với thân, tập trung lo cho thân tứ đại một cách thái quá, đó là trói buộc.
(Xem: 970)
Không hiểu con người biết thương-ghét tự bao giờ? Chắc chắnkhi còn nằm trong bụng mẹ thì không có thương-ghét.
(Xem: 901)
Từ lâu chúng ta nghe nói nhiều về xá lợi, trong đó xá lợi Phật và chư thánh Tăng với lòng sùng tín.
(Xem: 1004)
Tôi không biết. Nhưng tôi biết có kiếp trước. Làm sao biết? Bởi vì nếu khôngkiếp trước, làm sao có tôi ở kiếp này?
(Xem: 942)
Doanh nhân hiện nay không riêng gì ở Việt Nam đang đối đầu với nhiều khó khăn: tình trạng mất đơn hàng do ảnh hưởng suy thoái toàn cầu,
(Xem: 1191)
Dùng bè để qua sông, qua sông rồi thì bỏ bè là thí dụ nổi tiếng về pháp phương tiện trong kinh Phật.
(Xem: 971)
Ông cha ta có câu “gieo nhân nào gặt quả ấy” hay “thiện có thiện báo, ác có ác báo”.
(Xem: 1053)
Các anh chị GĐPT đồng phục áo lam, hoa sen trắng đã nhất tề cung nghinh kim quan Đạo Sư, mà bao lần Đạo Sư đã khuyến thỉnh, sách tấn để giữ trọn phương chăm Bi, Trí, Dũng GĐPT Việt Nam, thể hiện một chút tình, gánh kim quan trên vai để đền ơn đáp nghĩa.
(Xem: 1219)
Đạo Phật do đức Phật Thích Ca mâu Ni (Sakya Muni Buddha) khai sáng ở Ấn Độ. Căn bản của giáo phápTứ Diệu Đế, Bát Chánh Đạo
(Xem: 1656)
Hình ảnh, âm thanh đi vào cõi vô tung, đồng vọng ngàn sau, bặt tích, hay lưu lộ hình ảnh đôi bạn chân tình nơi chốn hiu hắt bụi đường mà đôi chân không hề mỏi.
(Xem: 1223)
Con đường giải thoát, tức là Bát Chánh Đạo. Có thể gói trọn vào một câu, hay hai câu, hay vài câu được không?
(Xem: 1299)
Nhĩ căn viên thông là khả năng mà Bồ-tát Quán Thế Âmthành tựu được nhờ vào sự tu tập ba phương pháp lắng nghe, tư duy và hành động (Văn, Tư, Tu).
(Xem: 1158)
Người xưa nói “Lưỡi không xương nhiều đường lắt léo”. Dù cho miệng lưỡi thế gian có thế nào chúng ta vẫn an nhiên, “tâm không bị biến đổi, miệng không phát ra lời nói cộc cằn”
(Xem: 1019)
Immanuel Kant (1724-1804) là triết gia vĩ đại, người sáng lập ra nền triết học cổ điển Đức.
(Xem: 983)
Tu tập hằng ngày chúng ta thường được các vị Thầy hướng dẫn, nhắc nhở nếu muốn giác ngộ, thoát khổ,
(Xem: 1011)
Ven. Pannyavaro là một tu sĩ Phật giáo người Úc, Ngài đã cống hiếncả đời mình tu tập thiền định theo giáo lý Đức Phật.
(Xem: 862)
Kinh, Luật, Luận của Phật Giáo cả Nam Truyền lẫn Bắc Truyền đọc tụng suốt cả đời cũng không hết. Bởi lẽ lời Phật, lời Tổ quá sâu sắc nhiệm mầu
(Xem: 1535)
“Để được làm người, sinh mệnh đó thực sự may mắn”.
(Xem: 1411)
Quan điểm của Phật giáo nói chung, mọi biến động của đời sống tự nhiênxã hội đều là biểu hiện của nghiệp, do nghiệp lực của nhân loại hiện hành chi phối.
(Xem: 1388)
Trong Phật giáo Đại thừa, bản chất của sự giác ngộ được gọi là bồ đề tâm, có nghĩa là tâm thức tỉnh.
(Xem: 1329)
Vào thế kỷ trước khi Đức Phật đản sinh, vùng đông bắc Ấn Độ đã trải qua những biến đổi sâu rộng làm định hình lại địa chính trị của khu vực một cách sâu sắc.
(Xem: 1424)
Tâm trí của Đức Phật được gọi là bồ đề tâm, nghĩa đen là “tâm giác ngộ”. Bồ đề tâm có hai khía cạnh
(Xem: 1381)
Hệ thống kinh điển trí huệ (bát nhã) tánh Không thường được xếp thành ba phạm trù: Văn tự Bát nhã, Quán chiếu Bát nhã, và Thật tướng Bát nhã.
(Xem: 1525)
Tăng đoàn thời Đức Phật còn tại thế không những có hai giai cấp quyền quý tại Ấn ĐộBà La Môn như: Xá Lợi Phất, Mục Kiền Liên, Đại Ca Diếp,…
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant