Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Phía sau cánh cửa…

25 Tháng Hai 201200:00(Xem: 17580)
Phía sau cánh cửa…


blank
Mái nhà quê - Ảnh: Thaiphong

Đơn giản chỉ là một cánh cửa phía sau nhà thôi, nhưng nó đã đi vào nếp sống, nếp nghĩ của mỗi người trên mảnh đất “lắm nắng nhiều mưa” của quê hương tôi.

Không đẹp đẽ, trang hoàng như tường rào, cửa sắt. Chiếc cửa sau nhà đa số đều là những cánh cửa gỗ. Và tất cả mọi hoạt động của con người, sự vật đều được khắc họa sau cánh cửa đó.

Mỗi khi ở nhà một mình để trông nhà cho bố mẹ đi làm đồng xa, tôi thường ra bậc cửa sau để nhìn những ngôi nhà rúm ró trong khói chiều bảng lảng, để nghe tiếng chim gù trên mấy nhành tre buông xõa. Và cũng cánh cửa đó, mỗi lúc bị ông cho ăn roi, tôi thường ra đó ngồi một mình để khóc thút thít, cạnh đó có hang dế, nó mở mắt nhìn tôi đầy vẻ giễu cợt.

Không phải là nơi ra vào nhiều như cánh cửa chính phía trước nhà, nhưng cánh cửa sau là một nơi để sinh hoạt, để “cất giấu” những điều gì đó thiêng liêng quá đỗi. Cách khu vườn nhà tôi có con kênh hiền hòa chảy qua, chị tôi thường ra đó giặt quần áo khi ánh bình minh chảy đầy trên vai áo chị. Và ánh hoàng hôn nhuốm một màu đỏ trên mi mắt chị mỗi khi chiều về, chị thường dắt trâu ra đó uống nước.

Cánh cửa sau như là một bức chân dung, để vẽ thêm những gì thật sinh động cho một cuộc sống ở thôn quê. Chúng tôi thường ra sau cánh cửa ngồi đó vào mỗi buổi trưa, để xem lũ trẻ hóng hớt rong chơi, vài ba đứa lên bảy rồi mà vẫn cởi truồng… tồng ngồng!

Bước qua cánh cửa sau ấy là khu vườn đầy tiếng chim kêu, đầy nắng, đầy gió và nó đã lưu giữ những khoảnh khắc, những cái nhìn xa xăm của bà tôi. Bên khung cửa, bà nhìn ánh nắng tắt dần để gọi đêm về buông xuống khu vườn. 

Người trong làng tôi thường thích qua lại với nhau bằng cánh cửa sau. Nhà này sát nhà kia, chỉ cần giẫm lên cái bờ rào dâm bụt, hay bụi cây là đến cửa sau, ngay chái bếp cũ mà tỉ tê tâm sự. Đó cũng là nơi sinh hoạt của gia đình tôi với một vài gia đình láng giềng nằm san sát nhau. Mỗi khi vào cuối mùa thu hoạch ngô, khoai gì đó, mặc dầu nồi vẫn đặt trên bếp chờ cho trái bắp, củ khoai chín dần, thì đã thấy mấy chị hàng xóm “nhiệt tình” qua trải chiếu dưới gốc ổi để nói chuyện với nhau cởi mở.

Từ cánh cửa sau bước ra là cái chái bếp già nua. Còm cõi. Rêu phong theo thời gian, đã trải qua nhiều thế hệ. Ở đó lúc nào cũng có bóng mẹ gầy guộc ngày hai lần nhóm lửa. Ở đó có người ông, người bà ngày ngày đẩy cánh cửa sau chống gậy ra ngoài vườn thắc thỏm xem quả mít, trái ổi đã chín chưa, để phần cho con cháu.

Và từ cánh cửa sau bước ra ngoài vườn, nơi đó cũng là nơi mẹ đã chôn nhau cắt rốn chị em tôi mỗi lần hạ sinh. Và cạnh đó có bụi chuối xanh xanh với mấy búp chuối đỏ chót nằm vắt vẻo trên cao. Có cả mấy tổ chim sẻ đang làm tổ trên cây ổi.

Cánh cửa phía sau nhà như mở ra một thế giới riêng thật đẹp, thật bình dị đối với đời sống thôn quê. Để rồi cánh cửa đó trở thành một vật gì thiêng liêng quá đỗi, mà chỉ có ngôn ngữ trái tim mới định nghĩa được.

Mỗi khi đến ngày rằm, khi ánh trăng bồng bềnh trôi qua khe cửa, chị em tôi thường ngồi trên chiếc giường tre của ông tôi để ngắm chị Hằng, ngắm chú Cuội. Và để nghe hương ổi hương cau chùng chình trong gió ùa về phía cửa.

Tạo cửa, làm nhà thường là công việc của một người đàn ông, nhưng trong mỗi gia đình, đằng sau cánh cửa bếp là bóng dáng của người phụ nữ, người mẹ, người vợ, từ khi về làm dâu cho đến khi có con, có cháu. Tiếp nối từ đời này qua đời khác.

Trong câu hát xưa, đã thấp thoáng hình ảnh của cánh cửa phía sau nhà, nơi đó như là một chỗ tựa để người con gái nhớ về quê hương khi lấy chồng xa xứ:

“Chiều chiều ra đứng cửa sau
Trông về quê mẹ ruột đau chín chiều”.

Mẹ tôi thường kể lại rằng, ngày mẹ mới đi lấy chồng, ngoài việc bếp núc, gắn bó với mảnh vườn, thớ đất, mỗi khi nghe tiếng chim vịt kêu chiều mẹ tôi thường tựa vào đó ngóng về phía chân trời xa xa, đỏ quạch ánh hoàng hôn để nhớ về quê nhà, thương cha mẹ nhiều hơn.

Cứ như một nhịp kim đồng hồ, bên cánh cửa phía sau nhà đó, mẹ tôi thường ngóng về quê cũ, lâu dần thành một thói quen, để rồi từ cái “chiều chiều” đó đã trở thành cái “chín chiều” trong trái tim vỡ vụn, lo toan của người con gái lấy chồng xa.

Chái bếp phía sau cánh cửa, đó là nơi mà nồi cơm nguội, niêu nước chè mẹ đã để sẵn cho chúng tôi khi không có nhà. Mỗi khi đi học về, chúng tôi thường ngồi trên bậc cửa để nhấm nháp từng miếng cơm nguội với nồi canh cua đồng mát rượi.

Vào những buổi trưa hè không ngủ, nhìn thấy lũ bạn thập thò ngoài cửa sổ, tôi thường rón rén ra cửa sau để theo chúng nó nhảy dây, mặc cho ngọn roi dâu của bố đang nằm vắt vẻo trên phên, như muốn đe dọa những trận đòn.

Tiếng gà mái cục tác tìm mồi, gà con chim chíp và những thân cây vừa đâm chồi nảy lộc, tiếng xối nước ào ào bên chum nước của em tôi, cùng cảnh mẹ tần tảo sàn thóc… Tất cả đều được khắc họa qua cánh cửa màu xanh mộc mạc, thấm đượm tình quê, tình người ấy.

đâu đó, cánh cửa sau còn chứa trong mình những tục lệ mà ngày xưa ông bà ta đã để lại. Những đôi lứa yêu nhau, nhưng vì lỡ “ăn cơm trước kẻng”, đến khi rước dâu, người ta thường rước vào cửa sau để tránh đi những điều tai tiếng, và tránh đi những gì được cho là không hay trong gia đình chồng.

Và từ cánh cửa sau trong thực tế, nó được dùng như một khái niệm để chỉ những công việc, những cách nói, cách hiểu trong mối quan hệ xã hội ngày nay.

Hình ảnh cánh cửa sau trong mỗi gia đình, đã góp phần rất lớn vào sinh hoạt cũng như nếp sống, nếp nghĩ trên mỗi chặng đường quê. Và cánh cửa ấy, thế giới ấy là một nhịp cầu để gắn liền tình cảm gia đình, tình làng nghĩa xóm từ ngày này qua tháng nọ, trong tâm thức của tất cả những người con yêu quê và nhớ quê.


Thanh Trâm
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 1387)
Lịch sử truyền thừa của Ni giới ở một số bộ phái Phật giáo nói chung mãi đến hôm nay vẫn còn nhiều vấn đề chưa thể lý giải trọn vẹn.
(Xem: 1239)
Thiện ngữ là nói lời lành, chân thật, nhẹ nhàng, xây dựng, đoàn kết, yêu thương.
(Xem: 1308)
Cuộc sống rất ngắn ngủi, vì thế hãy phá bỏ cái tôi ngớ ngẩn của mình, nhanh chóng tha thứ, tin tưởng yêu thương thật lòng
(Xem: 1367)
Một thời, Thế Tôn trú ở giữa dân chúng Sakka, tại Kapilavatthu, ở khu vườn Nigrodha.
(Xem: 1347)
Bốn pháp giới Sự, Lý, Lý Sự vô ngạiSự Sự vô ngại là những từ ngữ của tông Hoa Nghiêm.
(Xem: 1470)
Sống trên đời, có ai không mang ít nhiều âu lo? Người nghèo thì lo làm thế nào để mọi người trong gia đình mình đủ ăn đủ mặc.
(Xem: 1365)
Trong những chúng đệ tử Phật, thì chúng cư sĩ tại gia chiếm số lượng đông đảo và có những ảnh hưởng nhất định đối với diện mạo của Phật giáo nói chung.
(Xem: 1435)
Hạnh phúc chính là sự bình an của thân thể và sự yên tĩnh của tâm hồn.
(Xem: 1428)
Cái vòng tròn vô hình lại quay trọn môt vòng, mùa thu lại về với đất trời Bắc Mỹ.
(Xem: 1312)
Trong Trung luận của Bồ tát Long Thọ luận giảng về tánh Không, phần nhiều là những câu phủ định.
(Xem: 1384)
Trong năm bộ Nikaya của hệ Pali, Đức Phật thường nói đến sự “không có lõi cứng” của các hiện tượng, từ thân tâm, cho đến thế giớichúng sanh.
(Xem: 1398)
Mỗi người trong cuộc sống này luôn có một thử thách để chinh phụcvượt qua, đó là gì?
(Xem: 2093)
Một trong những hình thức ta nuôi dưỡng phiền giận về chính mình là mặc cảm tội lỗi.
(Xem: 1424)
Thế gian không có cái gì khổ cả, khổ chỉ là những ảo giác của con người.
(Xem: 1452)
Thực tập nhằm tăng cường khả năng tập trung hoặc chú ý đóng một vai trò quan trọng trong hầu hết các truyền thống tôn giáo lớn.
(Xem: 1322)
Trong phẩm Thế Chủ Diệu Nghiêm thứ nhất của Kinh Hoa Nghiêm, các thiên vương, các thần vương cho đến các Đại Bồ tát nói kệ tán thán Phật
(Xem: 1578)
Về pháp thiền quán vô thường tôi chia sẻ hôm nay, tôi sẽ không bàn đến đại vô thường như là cái chết, sự hủy diệt, sụp đổ hay sự chia ly.
(Xem: 1436)
Sau khi quy y Tam bảo, vì muốn tìm cầu tri thức, tôi đã nỗ lực nghiên cứu kinh điển. Kinh Phật mênh mông như biển cả,
(Xem: 1288)
Sống lâu, khỏe mạnh là một phước báu lớn. Nhưng không phải ai cũng có được phước báo này.
(Xem: 1257)
Ăn chay không thực hành trong tâm lý cứng nhắc, khắc nghiệt mà ăn chay cần duy trì trong một tâm thái an lạc, nhẹ nhàng và hạnh phúc!
(Xem: 1315)
Thiểu dục: là ít muốn. Tri túc: là biết đủ. “Thiểu dục tri túc”, tức là ít ham muốn và biết đủ.
(Xem: 1294)
Biết chế ngự tâm thì sẽ giảm đi hoặc chấm dứt hẳn những tham vọng, cuồng nộ, sân hận, bẳn gắt, ganh tỵ, đố kỵ, si mê...
(Xem: 1439)
Con người khi mất đi, vẫn còn âm hồn như trong đạo Phật vẫn luôn nhắc đến thuyết luân hồi,
(Xem: 1159)
Phra Ajaan Lee Dhammadharo (1907-1961), là một trong những vị thiền sư theo truyền thống tu khổ hạnh trong rừng.
(Xem: 1152)
Người thế gian không biết nên oán trách cha mẹ không có phước nên sanh mình ra khổ.
(Xem: 1201)
"Một thời Đức Phật du hóa tại thành Vương-xá, trong rừng Trúc, vườn Ca-lan-đa. Bấy giờ, Tôn giả Tam-di-đề cũng đi du hóa ở thành Vương-xá, tại Ôn tuyền lâm.
(Xem: 1338)
"Chánh niệm" - Đó là một từ được bàn tán nhiều khi một người lần đầu tiên tìm hiểu về thiền địnhPhật giáo. Chánh niệm là gì?
(Xem: 1366)
Trí huệ là cái mỗi chúng sanh đều vốn có, chỉ vì bị khuất lấp do những che chướng tạm thời, phiền não chướngsở tri chướng, mà không thấy không biết
(Xem: 1124)
Kinh Vu lan, một bản kinh ngắn nhưng hàm súc, tràn đầy ý nghĩa nhân văn, chan chứa đạo lý, thấm đẫm tình người và đặc biệtgiá trị giáo dục nhân cách với đặc trưng hiếu đạo.
(Xem: 1247)
Đôi khi chúng ta sống cùng nhau, đi ngang đời nhau, đối diệnvới nhau nhưng lại chẳng thấy nhau.
(Xem: 1174)
Các đặc điểm hợp lý trong giáo lý Phật giáo sơ kỳ đã có sức hấp dẫn lớn đối với các học giả châu Âu khi họ nghiên cứu vềPhật giáo.
(Xem: 1342)
Là người Việt Nam, chúng ta ai lại không biết bài hát “Lòng mẹ” của Y Vân với những câu hát như “Lòng mẹ bao la như biển Thái Bình rạt rào/ Tình mẹ tha thiết như dòng suối hiền ngọt ngào…”.
(Xem: 1321)
Ngày Lễ Vu Lan để mỗi người con nhớ đến sự hy sinh, tình thương bao lacông ơn của Cha Mẹ,
(Xem: 1458)
Ngày lễ Vu Lan, những người con ở xa thương nhớ cha mẹ, lòng vẫn luôn hướng về cha mẹ, hướng về nơi chôn nhau cắt rốn của mình.
(Xem: 1564)
Bám chấp là nguyên nhân của mọi đau khổ, phiền não. Đó là những gì làm phát sinh trạng thái hữu và sinh.
(Xem: 1303)
Đạo Phậttôn giáo từ bỏ bạo lực một cách mạnh mẽ nhất trong mọi hình thức.
(Xem: 1272)
Trong mọi truyền thống Phật giáo đều có việc tụng kinh, từ Nam tông, Bắc tông cho đến Mật tông.
(Xem: 1416)
“Hãy ví khổ như rác và hạnh phúc như những đoá hoa… Chuyển hóa khổ đau chính là biết cách biến rác trở lại thành hoa” (Thiền sư Nhất Hạnh).
(Xem: 1461)
Phra Ajaan Lee Dhammadharo (1907-1961), là một trong những vị thiền sư theo truyền thống tu khổ hạnh trong rùng.
(Xem: 1373)
Bất kỳ ai trên thế gian này đều mong muốn tìm cho mình hạnh phúc, an lạc, mà những niềm vui, lạc thú trên đời này rất nhiều.
(Xem: 1720)
Câu hỏi là làm thế nào để đem lại sự an tĩnhan lạc nội tâm trong đời sống hằng ngày của bạn
(Xem: 1357)
Phật giáo thời Hậu Lê tuy không phát triển mạnh như thời Lý-Trần, nhưng thể hiện nên nét đặc sắc về nhiều mặt của Phật giáo
(Xem: 1341)
Những phương cách để đối phó với bệnh khi nó xảy ra là gì? Bình thường phản ứng của chúng tacảm thấy ...
(Xem: 1383)
Phật pháp quả là biển học vô bờ, muôn ngàn pháp môn phương tiện, tùy theo căn cơ trình độ chúng ta chọn và thích hợp với các pháp môn tu khác nhau.
(Xem: 1222)
Hiện nay, vấn đề Bảo vệ Môi trường đang rất được quan tâm ở khắp các nước trên thế giới.
(Xem: 1260)
Hiện nay, ô nhiễm môi trường ngày càng trở nên nghiêm trọngViệt Nam và trên thế giới.
(Xem: 1386)
Để lĩnh hội trọn vẹn “cảm giác an lạc” sinh khởi nhờ thiền định, đòi hỏi các thiền sinh phải có một nền tảng định vững chắc.
(Xem: 1504)
Một hôm Ngài A Nan hỏi Đức Phật ? Bạch Đức Thế Tôn, sau khi một chúng sanh qua đời họ sẽ tái sanh về đâu?
(Xem: 1579)
Ba đứa chơi thân với nhau tự thuở nào, thiên hạ ai cũng bảo ba đứa ấy như hình với bóng
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant