Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Bài Mới Nhất trang Văn Học
Điền Email để nhận bài mới

Tình Và Lý

21 Tháng Hai 201618:14(Xem: 11669)
Tình Và Lý

TÌNH VÀ LÝ

Thích Giải Hiền

Tình Và Lý


Nếu một người được đánh giá là tâm tư tốt nhưng về mặt giao tế thì không được hay lắm, như vậy người đó có được xem là người tốt không ?

Đứng trên phương diện cá nhân để nhìn thì người đó là người tốt. Trên phương diện xã hội người ấy mới chỉ tốt được 50%. Nhìn bằng quan điểm Phật Giáo thì nếu đối xử không tốt được với người khác thời không phát huy được tác dụng “Tịnh hoá xã hội” nên không được coi là người tốt.

Bàn đến vấn đề “Tình và Lý” là bàn thảo đến mối quan hệ giữa người với người phải được xây dựng như thế nào ? để cho mối quan hệ ấy được hoà hợp hơn.

Định nghĩa về tình và lý:

Thế nào gọi là tình và thế nào gọi là lý? Thái độ chủ quan gọi là tình, thái độ khách quan gọi là lý. Quan điểm tự tư là tình, quan điểm công bình là lý. Mưu cầu chuyện cá nhâncầu lợi trước mắt là tình, cầu lợi lạc cho số đông và tính toán cho lợi ích lâu dài là lý. Làm việc có mưu cầu là tình, làm việc không mưu cầu là lý.

Tình duy trì kích thích sự tồn tạihoạt động của thế giới loài người nó như là chất nhờn làm cho cuộc sống của con ngườiý nghĩa hơn. Nhưng với người học Phật phải biết từng bước hoá giải tình để đi vào lý. Thái độ chủ quan chính là cái nhìn, cái nghĩ chỉ biết đến bản thân mà không hề nghĩ đến người khác hay đặt mình vào địa vị của người ta mà suy nghĩ, đó là biểu hiện của tình. Ngược lại, lúc nào cũng vì người khác, từng bước xoá bỏ những tâm lý và những hành vi tự tư, tự lợi. Đấy chính là lý.

Tuy nghĩ đến bản thân nhưng cũng đồng thời giúp đỡ người khác đạt được lợi ích. Cũng như cùng bạn thuyền “Đồng cam cộng khổ” đưa thuyền cập bến an toàn chính là đưa bản thân mình cùng những người cùng chuyến thuyền cập bến an toàn. Tấm lòng rộng lượng giúp người càng nhiều thì sự tiến bộthành tựu của bản thân càng lớn. Do vậy dù là không màn đến lợi ích của cá nhân nhưng kết quả thì chính mình lại được lợi nhiều nhất. Phương thức này chính là “Không cầu tất cả mà được tất cả” vậy.

Phân loại tình và lý

Hình thái của tình có thể chia làm năm loại

1.    Ai tình (tình yêu) giữa nam và nữ
2.    Tình thân (thân tình) giữa người thân trong gia quyến
3.    Tình bạn với bạn bè
4.    Ân tình giữa người làm ơn và người thọ ơn
5.    Đạo tình giữa những người trong đạo


Bốn loại trước gọi là “tục tình” (tình cảm thế gian), loại thứ năm gọi là “Pháp tình”. Cho nên Đạo Phật gọi chúng sanh là “ Hữu tình chúng sanh’

Nói đến ái tình giữa nam và nữ không chỉ là ái tình đơn giản thôi mà trong đó có tình bạnân tình nữa. Còn với người học Phật trong quan hệ vợ chồng vẫn đầy đủ đạo tình giữa những người đồng tu. Xã hội trước đây giữa cha mẹ và con cái chỉ có thân tình và ân tình mà thôi nhưng ở các nước Phương Tây hiện nay người ta cũng coi cha mẹ như bạn. Đồng thời giữa những người thân với nhau cũng có tình yêu, cha mẹ yêu thương con cái, con cái thì yêu kính cha mẹ. Còn trong tình bạn vẫn chất chứa ân tình và đạo tình. Trong việc thi ân và thọ ân có một số người chỉ đơn thuầnbố thíbố thí không hề nghĩ đến việc thi ân cho người những người này chính là “vô ngã bố thí”. Dùng Phật Pháp, tiền bạc, sức lực để giúp đỡ người làm cho họ có được lợi lạc trong đạo đó chính là “Đạo Tình”.

Trên quan điểm phổ thôngquan điểm Phật Pháp thì lý được chia làm sáu loại.

6.        Định lý về vật chất gọi là vật lý
7.        Cơ cấu của thật thể gọi là sinh lý
8.        Quỹ tích của của tâm niệm gọi là tâm lý
9.        Phạm trù giao tế với người gọi là luân lý
10.      Chân lý của triết họctôn giáo
11.      Trong Phật giáochân như hay lý tánh.


Mọi hiện tượng đều có nhân duyên của nó cũng như nhân duyên quả báo trong Phật giáo vậy đó là định lý về vật chất hay “vật lý”. Nói về sinh lý thân thể của con người chúng ta như  bộ máy, không được dùng qúa sức mau hao mòn, cũng không được không dùng bỏ phế sẽ bị rĩ sét. Sử dụng và duy tu bảo trì kịp thời, luôn cần được chú trọng, có như vậy mới sử dụng được bền bỉ. Trên phương diện tâm lý. Tổ đức dạy tâm lý của chúng ta là “Tâm viên ý mã” nhưng một khi đã tìm thấy con đường chân lý, hiểu rõ được nguyên nhân sanh diệt của tâm niệm thời sẽ không phiền não bởi sự vọng động của tâm lý. Hiện nay có những bác sĩ chuyên gia tâm lý họ có thể giúp người khác  phân tích những nguyên nhân phát sinh  ý niệm của tâm lý và đưa ra phương pháp giải quyết, giúp cho những người có vấn đề về tâm lý có được sự an ổntrị liệu trong nhất thời nhưng đây chỉ là phương thức trị bệnh trên ngọn chứ  chưa diệt trừ tận gốc được vì lý, tuy được giải quyết phần nào nhưng tâm thời vẫn loạn động.

Phật phápnăng lực làm thanh tịnh cả gốc lẫn ngọn. Trước hết là chỉ ra được phiền não của tâm lý phát xuất từ đâu ( có phần giống phương pháp của tâm lý học ). Kế tiếp bất kể là vấn đề gì đều “Gặp Phật chém Phật, gặp ma chém ma”. Ý niệm xấu phải bỏ, ý niệm tốt cũng phải bỏ, buông bỏ hết thảy mọi tư tưởng ở mọi lúc, mọi nơi. Đạt được trình độ này thời mọi dấu vết của tâm niệm đều không tồn tại, thử hỏi lúc này tâm lý còn có vần đề nữa không ? đương nhiên là không đây chính là sự  “khai ngộ”, “trừ phiền não”, “chứng bồ đề”. Bác sĩ tâm lý có thể giúp được nhiều người còn Phật giáo lại có khả năng giúp các Bác sĩ tâm lý. Do vậy Đức Phật còn được gọi là “Đại y vương”.

Người Phương Đông chú trọng đến “luân lý” nhấn mạnh và đề cao “Ngũ luân” tức nghĩa vụ và trách nhiệm  trong “luân lý” cần làm đúng nghĩa vụ và trách nhiệm của mỗi người trên cương vị của mình trong mỗi từng công việc. Nếu không làm tròn trách nhiệm và nghĩa vụ trên cương vị của mình thì không thể là người tốt được. Chúng ta thường chỉ biết yêu cầu người khác mà quên đi nhiệm vụ của chính mình.

Chân  lý chính là quan điểm lý luậntư tưởng trên phương diện hình nhi thượng, từ hiện thực của xã hội hình thành nên lý tưởng về chân lý bất biến. Hiện tượng thì biến động, còn chân lý thì bất biến, cho nên các triết gia, các nhà tôn giáo đều cho rằng có chân lý tối sơ và chân lý cuối cùng. Nếu tin tưởngchân lý tâm hồn sẽ được an ổn, tin tưởng sẽ được trở về. Do vậy người có tư tưởng về triết học thường là người tốt, tánh tình không thô tháo, nhân cách tốt đẹp. Bởi vì họ tin rằng dù cuộc sống hiện thực tuy bất công nhưng chân lý mãi mãi công bình.

Chân như còn gọi là Niết Bàn, Phật tánh hay Pháp thân Phật. Nhiều người cứ ngỡ rằng “ Chết ” là Niết Bàn. Thật ra Niết Bàn là “Tự Tại vô Ngại”, sự tự do tự tại không bị ràng buộc bởi hoàn cảnh thuận nghịch, quan niệm thiện ác và những chuyện thị phi  tốt, xấu của đời, tâm như mặt nước phẳng lặng. Gặp việc tâm luôn bình thảng để đối mặt và giải quyết như vậy sẽ có được sự giải thoát trong hiện tại.

Tình lý Viên dung sự sự vô ngại

Từ bitrí tuệ trong Phật Giáo chính là sự tịnh hoá của tình và lý. Tịnh hoá là không bị sự chi phối ràng buộc của phiền não. Dùng từ bitrí tuệ để giải quyết mọi mối quan hệ giữa người với người, để những mối quan hệ ấy không trở nên phức tạp. Quan tâm đến người khác chính là vun vén  nghĩa tình. Có người rất ương ngạnh không thể dùng lý lẽ để khuyên răn nhưng nếu dùng tình cảm thì họ lại chuyển lòng mà chấp nhận nghe theo. Mặc dù vậy nhưng không thể nghiêng hẳn về tình vì như vậy sẽ xáo trộn mọi lẽ phải, không phân biệt tốt, xấu, trắng, đen. Trong mối quan hệ với gia đình và người thân có thể dùng tình , còn trong  những mối quan hệ xã hội thời phải dùng lý. Hay nói cách khác xử lý vấn đề cá nhân có thể dùng tình nhưng giải quyết  việc công cần phải dùng lý. Dùng tình có thể tạo môi trường hòa giải, nhưng dùng lý lại xây dựng được nền tảng công bình, hai mặt không thể  thiếu một.

Từ bi có phần nào giống với cảm thông nhưng được thăng hoa và thanh tịnh hơn. Tình thương có màu sắc tình cảm cá nhân nhưng từ bi thì không. Trong cuộc sống nhiều chuyện bất bình hay nhiều người làm điều không phải, chiếu theo lý thì họ phải ngồi tù, nhưng nếu nhìn bằng ánh mắt và lòng từ bi thì có thể do hoàn cảnh gia đình, môi trường xã hội hoặc yếu tố tâm lý … khiến họ như vậy. Ta có thể từ gốc độ khác để nhìn, để tha thứ và tìm phương pháp khác để khuyến hoá và dẫn dắt họ. Đó chính là từ bi vậy. Từ bi với người nhưng không có nghĩa là sao cũng được, cái gì cũng tốt. Đối với bản thân phải biết dùng trí tuệ để hoá giải, chỉ đạosửa đổi mọi vấn đề, đây chính là việc tụ tập hằng ngày của tự thân.

Những việc phiền phứcchúng ta thường gặp trong đới sống hằng ngày hoặc do hoàn cảnh đưa đến, hoặc do tự mình tạo ra. Khi gặp phải những hoàn cảnh này nếu chỉ dằn vặt trách cứ mình hay trách móc oán hận người khác đều không có lợi ích gì. Tốt nhất là dùng quan điểm nhân qủa trong Phật Pháp để hoá giải, nếu không sẽ mãi mãi buồn bực, oán hận trong lòng. Theo định luật Nhân qủa mọi phiền não bứt rứt đều do Nhân quá khứ phát sinh thành qủa hiện tại thông suốt được nhân qủa thì phiền não tan biến không còn khả năng chi phối chúng ta nữa. Nhưng nhân qủa không có nghĩa là chúng ta không cần thay đổi, cải tạo hoàn cảnh, không cần giải quyết vấn đề. Ngược lại cần nổ lực bồi đắp thiện duyên để cải tạo hoàn cảnhgiải quyết vần đề, đây chính là thái độ sống bằng trí tuệ.

Phật giáo chú trọng từ bitrí tuệ, truyền bá Phật Pháp cũng chính là cuộc vận động sâu rộng về từ bitrí tuệ. Khi mọi người đều có lòng từ bi và thái độ sống bằng trí tuệ thì xã hội nhất định sẽ được thăng hoa, trong sạch, cuộc sống của chúng ta nhất định sẽ hạnh phúc. Do vậy, chúng ta cần phải hoằng dương, truyền bá sâu rộng Phật Pháp,  khuyến hoá mọi người tin Phật, học Phật và tu Phật. Đó là nền tảng căn bản của hạnh phúc con người và tịnh hoá xã hội.

 

Thích Giải Hiền
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 2436)
Đợi cha mẹ già qua đời rồi mới báo hiếu làm đàn tràng cầu siêu thiệt to, mua đất nghĩa trang thiệt rộng, xây mồ xây mả thiệt đẹ
(Xem: 2556)
Phật giáo đề cao giá trị của hạnh buông xả – một trong những đức hạnh căn bản giúp con người thoát khỏi khổ đau, đạt được sự an lạctự do nội tâm.
(Xem: 3011)
Không chỉ riêng với Phật giáo dân gian, hầu hết (và có thể là tất cả) các tôn giáo khác, đều tin rằng có một kiếp sau, hay một đời sau.
(Xem: 2490)
Phật tánhchủ đề của Kinh Đại Bát Niết Bàn và được luận giảng trong Phật tánh luận.
(Xem: 2533)
Phàm làm việc gì muốn được thành công, trước tiên đòi hỏi người ta phải siêng năng.
(Xem: 1589)
Chữ Tánh, Bản tánh, Tự tánh được nói đến trong rất nhiều kinh, luận Đại thừa. Đó cũng chính là mục đích rốt ráo cần tu chứng.
(Xem: 2466)
Trong khi một số vị Pháp sư cố gắng hết sức để quảng bá giáo lý của họ – bằng cách viếng thăm các chùa và tu viện khác nhau trên khắp thế giới
(Xem: 2129)
Hãy quán niệm thật sâu. Một khi có sinh, phải có khổ. Tất cả chúng ta đều phải chịu đựng theo cách đó.
(Xem: 2818)
Khát khao là một cảm xúc tự nhiên của con người, biểu hiện qua mong muốn đạt được điều mà mình cho là quan trọng hoặc cần thiết.
(Xem: 1944)
Từ nguyên thủy, tất cả chúng sanh đều muốn được hạnh phúc, và không muốn đau khổ.
(Xem: 3147)
Vipassana và sathama là hai phương phápthiền nổi bật mang đến những trải nghiệm tâm hồn độc đáo.
(Xem: 2271)
Nguyện là lý tưởng, là mục đích, là định hướng cho cuộc hành trình.
(Xem: 3654)
Một trong những đóng góp to lớn của Hoà thượng Thích Minh Châu là sự nghiệpphiên dịch kinh điển.
(Xem: 2148)
Trong kinh Hoa nghiêm Đức Phật có dạy: “Nhất niệm sân tâm khởi, bách vạn chướng môn khai”
(Xem: 1952)
Chúng ta có cuộc sống khác nhau trên những giai tầng xã hội, cung bậc tình cảm, cảnh giới tâm linh.
(Xem: 3028)
Khi đức Phật thành đạo dưới cội Bồ Đề, ngài đứng trước một lựa chọn trọng đại:
(Xem: 2664)
Ngày xưa, đa phần chùa ở Á Châu được xây dựng trên núi, nên vị Thầy đến đó dựng chùa gọi là Thầy Khai sơn, Trụ trì.
(Xem: 2154)
Sống trong một nền văn hóa dựa trên sợ hãi, điều đó chắc chắn ảnh hưởng đến trạng thái tâm của bạn và những quyết định bạn đưa ra.
(Xem: 3059)
Cho đến trọn đời, các vị A-la-hán dùng mỗi ngày một bữa, không ăn ban đêm, từ bỏ không ăn ban đêm, từ bỏ ăn phi thời.
(Xem: 2969)
Khi nói đến thiền Quán là nói đến Tứ Niệm Xứ. Quán Tứ Niệm Xứthiết lập Chánh niệm trên bốn lãnh vực Thân, Thọ, Tâm, Pháp.
(Xem: 2892)
Muốn chuyển hóa cảm xúc thì chúng ta cần chuyển hóa nhận thức trước, đau khổ đơn thuần cũng chỉ là một trạng thái của tâm.
(Xem: 2010)
Bất cứ dược phẩm nào được tìm ra trong thế giới, dù nhiều và đa dạng, không có thứ nào bằng Pháp (trích từ Milindapanha).
(Xem: 2552)
Trong khi một số vị Pháp sư cố gắng hết sức để quảng bá giáo lý của họ – bằng cách viếng thăm các chùa và tu viện khác nhau
(Xem: 2477)
Từ xưa đến nay, chánh ngữ vẫn là yếu tố cần thiết để khẳng định “tính người” trong mỗi cá nhân,
(Xem: 1868)
Sinh, lão, bệnh và tử: những điều này là bình thường. Sinh là bản chất bình thường của sự vật
(Xem: 2107)
Thay đổi, biến động, dịch chuyển vốn là tính chất thường hằngcủa vạn hữu: có sinh ắt có diệt.
(Xem: 2841)
Trong cuộc sống đời thường, mỗi ngày chúng ta phải quyết định hàng trăm, hàng ngàn lần.
(Xem: 1641)
“Thử tại tâm trung xuất hình ư ngoại” Đó là câu nói của cổ nhân, cũng có thể nói: “ Tâm sanh tướng”.
(Xem: 2207)
Khi đề cập đến những người tu trong Phật Giáo, thì chúng ta thấy có phân ra hai khuynh hướng tu học, một số vị thì nghiêng về pháp học, còn số vị khác lại chuyên về pháp hành.
(Xem: 2570)
Người xuất gia mang trên mình một hoài bão lớn là hướng tâm đến giải thoát tự thân và giúp người khác giải thoát.
(Xem: 3362)
Đức Quán Thế Âm trở nên thân thiết trong đời sống của người dân Việt đến mức trong sâu thẳm trái tim của mỗi người...
(Xem: 2293)
Nghe nói đến người tu, tưởng chừng như người ấy làm cái gì to lớn, đội đá vá trời, dời non, lấp biển;
(Xem: 3209)
Ngũ cănngũ lực tiếng Phạn là Pancindriya và Pancabala. Indriya có nghĩa là nguồn gốc, khả năng để tất cả các thiện pháp sinh khởi.
(Xem: 3012)
Nếu người nam hay người nữ nào, hành pháp ác bất thiện, phạm giới; thân thành tựu ác hạnh; khẩu, ý thành tựu ác hạnh;
(Xem: 2362)
Tu theo Giáo môn hoặc Thiền môn, họ tuân theo lời dạy của Phật hoặc Tổ sư, bám chặt vào lời nói của Phật hay Tổ ghi chép
(Xem: 2764)
Ăn chay, không ăn thịt, là một truyền thống cao đẹp hơn ngàn năm nay ở nước ta, phù hợp một cách sâu xa với tinh thần sùng cao của Phật giáo.
(Xem: 1779)
Chuyện người tu hành bị ma quỷ nhiễu hại xưa nay không phải là hiếm. Những bậc Thánh tăng còn bị làm hại huống gì phàm tăng.
(Xem: 3149)
Khi thức dậy, điều gì là điều đầu tiên chúng ta nghĩ đến?
(Xem: 3053)
Đời sống của con người thọ mạng nhiều lắm chỉ trên dưới trăm năm.
(Xem: 3279)
Khi chúng ta thức dậy vào buổi sáng và nghe radio hoặc đọc báo, chúng ta phải đối mặt với những tin buồn: bạo lực, tội ác, chiến tranh và thiên tai.
(Xem: 2804)
Một trong những đặc điểm của đời sống xuất giadu hành. Không thường ở một nơi cố định, Tỳ-kheo có thể tùy duyên vân du giáo hóa.
(Xem: 2888)
Trong kinh Duy Thức thuộc tạng kinh phát triển, để chỉ cho sự huân tập thành khối nghiệp lực (A Lại Da ThứcMạt Na Thức,) được xem là
(Xem: 3005)
Sinh già bệnh chết là bản chất của đời sống con người. Ai cũng phải trải qua tiến trình này vì có sinh ắt có diệt. Có điều việc này đến với mỗi người nhanh chậm khác nhau.
(Xem: 2463)
Những lời chỉ dạy của đức Phật có khả năng chuyển hóa nỗi khổ niềm đau, thành an vui hạnh phúc ngay tại đây và bây giờ bằng sự tin sâu nhân quả
(Xem: 2499)
Có người ở chùa mấy mươi năm mà không ý thức được mình đang ở đoạn đường nào trên con đường mà mình đang đi.
(Xem: 2083)
Quán Thế Âm Bồ Tát có rất nhiều nhân duyên với chúng sanh trong cõi Ta Bà này.
(Xem: 2319)
Có lẽ ai cũng cảm nhận được rằng, cuộc sống này hiếm khi yên bình mà luôn đầy ắp những biến động. Với nghịch cảnh
(Xem: 2343)
Pháp thoại dưới đây Đức Phật dùng hình ảnh gương Pháp (Pháp kính) để khi soi vào vị đệ tử Phật biết chỗ thọ sinh.
(Xem: 2428)
Thói thường, đa số chúng ta những khi sung sướng, cuộc đời đang may mắn thành công, chỉ biết hưởng thụ lợi lộc, chìm đắm trong hoan lạc của ái dục.
(Xem: 2511)
Bài này sẽ viết về một chủ đề: cách tu nào đơn giản nhất cho những người có tâm hồn rất mực đơn sơ.
Quảng Cáo Bảo Trợ
free website cloud based tv menu online azimenu
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant