Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Thế Giới Bên Kia

26 Tháng Hai 201916:13(Xem: 5923)
Thế Giới Bên Kia

Thế Giới Bên Kia

Thích Chân Tôn

image001

Một người bạn thân của Einstein là Robert S. Marcus, lúc đó đang giữ chức Giám đốc tổ chức Nghị hội Người Do Thái Thế giới. Sau khi con trai của Marcus chết vì bệnh polio (bệnh bại liệt trẻ em), Einstein viết một lá thư đề ngày 12 tháng 2 năm 1950 để an ủi bạn. Thư Einstein viết, dịch như sau:

 “Bạn Marcus thân:

Con ngườimột phần nhỏ của một tổng thể, mà chúng ta gọi là “Vũ Trụ,” phần này bị hạn chế trong thời giankhông gian. Cá nhân anh ta đã có kinh nghiệm về những suy nghĩ, những cảm thọ của anh như một sự cách biệt với những phần còn lại – đó là một ảo tưởng quang học trong tiềm thức của anh ta. Nỗ lực tự giải thoát khỏi ảo tưởng này là mục đích của tôn giáo chân chính…” (A human being is a part of the whole, called by us "Universe", a part limited in time and space. He experiences himself, his thoughts and feelings as something separated from the rest — a kind of optical delusion of his consciousness. The striving to free oneself from this delusion is the one issue of true religion) Đừng sống trong ảo giác đó mà hảy vượt qua để đạt đến một sự an lạc của tâm hồn.

Sau khi đọc xong lá thư này chúng ta muốn tìm hiểu khoa học, vủ trụ học nói gì về một thế giới khác ngoài cái thế giới ảo tưởng này. Nghĩa là, theo Einstein, những ai thấy họ cách biệt với phần còn lại của thế giới, đó chính là “ảo tưởng quang học của tiềm thức”… chính tiềm thức tạo ra ảo tưởng này. Để thoát ra khỏi những ảo tưởng này , đó là mục đích chính của tôn giáo chân thực. Trong kinh điễn Phật giáo, ngoài thế giới vô thường này mà ảo tưởng của chúng ta cho là có thật, còn có những cõi khác trong vủ trụ, nhưng đối với con mắt phàm, chúng ta chỉ thấy cõi NgườiSúc sanh, riêng thế giới Phật Trời, A tu la, Ngạ quỹ và Địa ngục và các cõi Thánh là chúng ta không thấy nhưng cũng có thể cảm nhận được. 

Như đã biết, không gian chúng ta đang sống là không gian ba chiều. Nhưng để giải thích các vấn đề trên, các nhà khoa học cho rằng không gian có thể có nhiều hơn ba chiều (bốn chiều, năm chiều..v..v.). Những người có thiền định cao, hoặc các nhà ngoại cảm, hay một số người có liên quan đến một năng lực đặc biệt nào đó, giúp họ đi vào thế giới không gian bốn chiều, hoặc những chiều không gian bí ẩn khác, do vậy  họ đã nhìn thấy những hình ảnh mà người khác không nhìn thấy được. Ngay trong kinh chỉ có Đức Thế Tôn mới thấy các cõi khác mà các vị thánh tăng không thấy được. 

 

Nhiều truyền thuyết cho rằng, chiều không gian thứ 4 hoặc các chiều không gian khác là nơi các linh hồn cư ngụ, bởi họ không còn chịu tác động bởi bất cứ một quy luật vật lý nào.Chúng ta biết rằng nhà khoa học Albert Einstein có những quan điểm rất gần với Phật   giáo.Trong thuyết tương đối của mình, Einstein đã đồng nhất thời gian với chiều không gian thứ 4, nhưng điều này cũng gây nhiều tranh cãi, bởi không gianthời gian là 2 thứ không thể tách rời. Từ lâu, thời giankhông gian luôn được xem như một miền liên tục thống nhất, bất cứ thay đổi nào ở phía thời gian sẽ tác động lên không gian, và ngược lại. Tuy nhiên, Einstein đã bác bỏ điều này thông qua việc chỉ ra một yếu tố có khả năng bẻ cong mối tương quan giữa không gianthời gian – đó chính là trọng lực.

 

Nhiều nhà nghiên cứu đã sử dụng ý tưởng của Einstein nhằm mục đích du hành xuyên thời gian. Chúng ta có thể di chuyển tới bất cứ đâu, với bất cứ phương hướng nào trong thế giới ba chiều, nhưng chúng ta lại chỉ có thể di chuyển xuôi dòng theo chiều thời gian. Dù việc đi về quá khứ đã được chứng minh là gần-như-bất-khả-thi, nhiều nhà khoa học vẫn nuôi hi vọng tìm ra các lỗ sâu giúp kết nối giữa các vùng khác nhau trong miền không gian-thời gian.

 

Sở dĩ bạn có thể cảm nhận được điều này là bởi bạn đang sống trong một thế giới với 3 chiều không gian – dài, rộng và cao. Với những ai chỉ sống trong thế giới 2 chiều, việc cảm nhận không gian 3 chiều là bất khả thi. Và chính điều đó, theo nhiều chuyên gia, là nguyên nhân khiến chúng ta không thể thấy được chiều không gian thứ 4, hoặc bất cứ chiều không gian nào ở trên nó. Khoa học đã chỉ ra rằng, có ít nhất 11 chiều không gian, nhưng đại đa số chúng ta sẽ không bao giờ nhìn thấy được. Chúng ta sống trong không gian 3 chiều, và bộ não của chúng ta sẽ không có cách nào để vượt qua giới hạn đó.

Theo các nhà khoa học, bộ não của con người bình thường không thể tưởng tượng được không gian bốn chiều. Điều này có thể được giải thích như sau: Chúng ta hãy giả thiết là có các sinh vật sống ở không gian hai chiều (sống trên một mặt phẳng). Ở trên mặt phẳng đó, họ không hề biết gì về sự hiện hữu của không gian ba chiều. Vì vậy, mọi chuyển động của họ sẽ bị giới hạn trên mặt phẳng ấy và không thể tiến vào chiều không gian thứ ba như chúng ta. Giả sử có một quả cầu lọt vào thế giới đó, các sinh vật ở không gian hai chiều mới đầu sẽ nhìn thấy một điểm sáng, rồi đến các hình tròn to dần lên, đến mức cực đại, rồi các hình tròn nhỏ dần, thu lại thành một điểm, rồi biến mất. Kết quả là họ chỉ nhìn thấy những đường tròn mà không hiểu toàn bộ câu chuyện về quả cầu như thế nào cả.

Nhưng,  những điều thần bí đôi khi cũng đến với các sinh vật ở không gian hai chiều. Ví dụ, thời gian cần thiết để họ vượt qua khoảng cách từ A đến B trên mặt phẳng (không gian hai chiều) khoảng chục năm. Nhưng vì một biến cố nào đó, mặt phẳng kia bị cong lại trong không gian ba chiều, khiến điểm A và điểm B gần nhau hơn, thậm chí trùng lên nhau. Khi đó điều kỳ diệu đã đến với họ: Thời gian hàng chục năm để đi từ A đến B đạt được chỉ trong giây lát.

Trở lại vấn đề trên, các nhà khoa học giải thích: Không gian ba chiều nằm trong cái nôi của không gian bốn chiều (như không gian hai chiều nằm trong không gian ba chiều). Những ai có khả năng xâm nhập vào chiều không gian thứ tư, thì đối với họ khoảng cách hàng vạn cây số, thậm chí hàng vạn năm ánh sáng không còn ý nghĩa gì. Họ vượt qua trong phút chốc bằng cách đi qua “ khe hở” của chiều thứ tư này. "Khe hở" đó là biên giới ngăn cách hai thế giới: Thế giới của không gian ba chiều và thế giới của không gian bốn chiều. Đó chính là cơ hội để những sinh vật cấp thấp xâm nhập vào chiều thứ tư hoặc các chiều cao hơn, như những người trên trái đất đã gặp người hành tinh khác hoặc liên lạc được với những kẻ trong các cõi siêu hình khác v..v.

Để chứng minh sự tồn tại của chiều không gian thứ tư, các nhà khoa học Mỹ dự định chế tạo một máy đo siêu nhỏ, nhằm chỉ ra các hiệu ứng khác lạ, dẫn tới kết luận về sự hiện hữu của các chiều không gian khác. Nguyên lý của thí nghiệm này như sau: Theo thuyết string (Thuyết hình sợi), ở các khoảng không gian cực hẹp (cấp độ nano mét (nm); 1nm = 10-7cm), không gian sẽ bị cuộn lại trong các chiều khác (chiều thứ tư, thứ năm...). Điều này sẽ làm thay đổi lực hấp dẫn giữa các vật thể trong không gian đó. Vì thế, nếu xây dựng được một thí nghiệm để chỉ ra sự thay đổi này của lực hấp dẫn, thì người ta có thể kết luận rằng có chiều không gian thứ tư.

Các nhà khoa học dự định sẽ đo lực hấp dẫn giữa hai lá kim loại siêu mỏng, đặt cách nhau một khoảng cỡ nano mét. Để đo được chính xác lực hấp dẫn này, người ta cần loại trừ một đại lượng gọi là hiệu ứng Casimir.

Theo cơ học lượng tử, hiệu ứng này được sinh ra bởi các photon ảo, thường bất ngờ xuất hiện trong chân không rồi lại tự động biến mất. Bình thường, trong không gian tồn tại các photon với các bước sóng khác nhau và rất đa dạng. Tuy nhiên, giữa hai tấm kim loại cực hẹp thì điều đó không thể có. Ở đây chỉ có các photon có bước sóng nhỏ hơn hoặc bằng khoảng cách giữa 2 lá kim loại. Hệ quả là giữa hai tấm kim loại sẽ có ít photon hơn bên ngoài. Sự chênh lệch về số photon trong và ngoài hai lá kim loại sẽ tạo ra một áp suất nhỏ, ép chúng lại với nhau. Lực đó được gọi là hiệu ứng Casimir.

Để loại trừ hiệu ứng trên, các nhà khoa học sẽ phải làm thí nghiệm với các lá kim loại giống hệt nhau, nhưng với các đồng vị khác nhau. Ở giữa chúng hiệu ứng Casimir sẽ giống nhau, nhưng lực hấp dẫn lại khác nhau (lá kim loại có đồng vị nặng hơn sẽ tạo ra lực hấp dẫn lớn hơn). So sánh hai lực hấp dẫn này người ta loại bỏ được hiệu ứng Casimir ra khỏi phép đo.

Các nhà khoa học hi vọng trong tương lai gần, các thí nghiệm này sẽ được thực hiện. Nếu thí nghiệm thành công, thì đây là một sự kiện chấn động vì nó sẽ khẳng định sự tồn tại của chiều không gian thứ tư, điều mà theo Stephen Hawking là không thể tưởng tượng được với bộ não con người bình thường.

Nhà vật lý người Anh Stephen Hawking mới phát triển ra một mô hình vũ trụ từ những công thức toán học tỉ mỉ. Những phát kiến mới này của Hawking dường như làm đảo lộn quan điểm khoa học truyền thống và được trình bày bằng thuyết M - M đồng nghĩa với magical (thần diệu), mystical (thần bí), mother (mẹ, gốc) - Thuyết này được coi là tổng hợp của thuyết lượng tử và thuyết tương đối. Trong khi thuyết tương đối giải thích thế giới ở dạng vĩ mô, có liên hệ với lực hấp dẫn, thì trong mô hình của thuyết lượng tử (miêu tả thế giới vĩ mô), không có tương tác này. Vì thế, thuyết M của Hawking được gọi là "thuyết lượng tử hấp dẫn". Theo Hawking thuyết này cung cấp và lý giải chính xác về bản chất của vũ trụ.

Khi phát triển thuyết M, Hawking tin rằng đã đạt được những thành tựu có tính bước ngoặt, dựa trên nền tảng của một lý thuyết rất nổi tiếng trong những năm gần đây: Thuyết String. Thuyết này cho rằng, những thành tố nhỏ nhất tạo nên vũ trụ là những dạng thức hình sợi (string), chứ không phải dạng hạt. Nhưng ở xung quanh các sợi này, theo Hawking có hiện hữu một trường hấp dẫn và người ta có thể xác định được độ lớn của trường hấp dẫn ấy (thí nghiệm mà các nhà khoa học Mỹ dự định tiến hành như đã trình bày ở trên)

Dựa trên "thuyết lượng tử hấp dẫn" của mình, Hawking đã tính ra vũ trụ của chúng ta được hình thành từ 11 chiều. Nhưng chỉ có ba chiều không gian và một chiều thời gian đã mở, còn bảy chiều kia bị cuộn lại từ sau vụ nổ lớn.

Nhận xét về thuyết mới của Hawking, tạp chí khoa học P. M của Đức đã viết:" Khi bạn đọc những dòng này, thì cùng lúc, hàng trăm con người trong bạn đang đọc nó - những kẻ đồng hành với bạn - tất cả đều đang nhún vai như bạn, đều lắc đầu, nghi hoặc..."

Lý thuyết trên của Hawking đang gây ra nhiều tranh cãi lớn, vì nhà vật lý này cho rằng, có thể giải thích được hiện tượng "linh cảm" một cách khoa học bằng thuyết M: Trong mô hình vũ trụ này, cùng lúc tồn tại vô số những con người khác nhau trong một con người. Và cùng lúc, tất cả thông tin về vũ trụ ở mọi thời đại đều hiện hữu. Vì thế, hiện tượng "linh cảm" có thể giải thích bằng việc một con người nào đó trong bạn đã trải nghiệm điều mà bạn sẽ trải qua, và mách bảo cho bạn biết trước điều đó.

TS Carr, một giáo sư toán học và thiên văn học tại trường Đại học Queen Mary ở London, đã nói rằng ý thức của chúng ta có khả năng tương tác với chiều không gian khác. Ngoài ra, vũ trụ đa chiều mà ông hình dung có một cấu trúc phân tầng. Chúng ta đang ở chiều không gian thấp nhất.

“Mô hình này giải quyết các vấn đề triết học nổi tiếng về mối liên hệ giữa vật chấttinh thần, làm sáng tỏ bản chất của thời gian, đồng thời cung cấp một cái khung bản thể luận để diễn giải các hiện tượng như hồn ma, trải nghiệm rời thể xác, trải nghiệm cận tử, và những giấc mơ”, ông đã viết trong một bản tóm tắt hội nghị.

TS Carr lý luận rằng các giác quan vật lý chỉ cho chúng ta thấy một vũ trụ 3 chiều, tuy nhiên trên thực tếít nhất 4 chiều. Những gì tồn tại trong các chiều không gian khác là những thực thể chúng ta không thể tiếp cận được bằng các giác quan vật lý. Ông nói rằng những thực thể như vậy vẫn phải tồn tại trong một không gian nào đó.

“Các thực thể phi vật lý duy nhất trong vũ trụchúng ta có thể trải nghiệm là các thực thể trong tinh thần, và … sự tồn tại của các hiện tượng siêu thường cho thấy các thực thể tinh thần phải tồn tại trong một loại hình không gian nào đó”, GS Carr đã viết.

Chiều không gian chúng ta tiến nhập vào trong các giấc mơ trùng lặp với không gian nơi ký ức tồn tại. TS Carr nói rằng khả năng thần giao cách cảm báo hiệu sự tồn tại của một không gian tinh thần chung và khả năng tiên tri cũng có một không gian vật lý riêng của nó. “Các đối tượng tri giác phi vật lý mang các thuộc tính của yếu tố bên ngoài”, ông đã viết trong cuốn sách “Vật chất, tinh thần, và các chiều không gian cao hơn”.

Ông xây dựng lý thuyết của mình dựa trên nền tảng các lý thuyết trước đó, bao gồm lý thuyết Kaluza–Klein, vốn hợp nhất hai lực căn bản là lực hấp dẫn và lực điện từ. Lý thuyết Kaluza–Klein cũng hình dung ra một không gian 5 chiều.

Trong “lý thuyết M”, có đến 11 chiều. Trong lý thuyết siêu dây, có đến 10 chiều. TS Carr hiểu điều này như một không gian “ngoại vi” 4 chiều—nghĩa là đây là 4 chiều không gian trong thuyết tương đối của Einstein—và một không gian “nội vi” có từ 6 đến 7 chiều—nghĩa là những chiều không gian này có liên hệ với khả năng ngoại cảm và hiện tượng “vô hình” khác.

 Vật chất tối và năng lượng tối 

Lâu nay các nhà khoa học vẫn cho rằng thành phần chính của vũ trụnăng lượng tối (chiếm hơn 68%) và vật chất tối (27%), còn các hành tinh và vì sao chỉ chiếm khoảng 5%.

Vật chất tối bắt đầu có tên trong tự điển thiên văn thế giới vào năm 1933, khi nhà thiên văn Thụy Sĩ Fritz Zwicky có một khám phá chấn động thế giới: vũ trụ có nhiều vật chất hơn những cái chúng ta đã thấy trong thực tế. Đến những năm 1970, khái niệm vật chất tối càng trở nên quan trọng hơn khi nó được nhà thiên văn Mỹ Vera Rubin dùng để giải thích sự dịch chuyển và tốc độ của các vì sao. Sau đó giới khoa học đã cống hiến nhiều nguồn lực đáng kể để xác định vật chât tối: trên không gian, mặt đất và tại CERN (Tổ chức Nghiên cứu hạt nhân châu Âu) nhưng tất cả đều không thành công. Năm 1998, thế giới lại chứng kiến khám phá chấn động thứ hai: phát hiện sự gia tốc của vũ trụ đang giãn nở từ một nhóm các nhà vật lý thiên thể Úc và Mỹ. Khám phá được gọi là năng lượng tối này đã được trao giải Nobel vật lý 2011.

Bất chấp những nguồn lực khổng lồ đã được thực hiện nêu trên, chưa từng có lý thuyết hay quan sát nào có thể định nghĩa được loại năng lượng đen được cho là mạnh hơn cả lực hấp dẫn của Newton. Từ khi được phát hiện, vật chất đen và năng lượng tối là hai bí ẩn đã thách thức giới thiên văn trong gần một thế kỷ qua.

Trong gần một thế kỷ qua, các nhà nghiên cứu đã giả định rằng vũ trụ chứa nhiều vật chất hơn những gì đã được quan sát trực tiếp. Loại vật chất chưa thể quan sát, yếu tố khiến các vì sao chuyển động đã được gọi tên là vật chất tối chiếm 27% vũ trụ. Ngoài ra trong vũ trụ còn một thành phần thúc đẩy quá trình tăng tốc giãn nở vũ trụ, mạnh mẽ hơn cả lực hấp dẫn, được gọi là năng lượng tối chiếm đến 68% vũ trụ.

Hằng số này là yếu tố chi phối mô hình truyền thống được xây dựng trên phương trình của Einstein. Maeder cho rằng không gian rỗng và các đặc điểm của nó sẽ không thay đổi theo quy mô, nghĩa là dù giãn nở hay thu hẹp thì không gian rỗng và các đặc điểm của nó vẫn giữ nguyên.

image003 

Trong mô hình thứ hai dựa trên luật hấp dẫn của Newton, áp dụng cho các cụm thiên hà, mô hình này cho thấy vô số cụm thiên hà phù hợp với vật chất thấy được, nghĩa là chúng ta có thể giải thích được tốc độ cao của các thiên hà trong các cụm thiên hà mà không cần đến vật chất tối. Luật hấp dẫn Newton đã điều chỉnh cũng dự đoán được các vì sao sẽ đạt được tốc độ cao ở các khu vực rìa ngoài thiên hà mà không cần miêu tả vật chất tối. Trong thử nghiệm thứ ba tập trung vào độ phân tán trong tốc độ của các vì sao dao động quanh mặt phẳng Milky Way (thường gia tăng theo độ tuổi của các ngôi sao liên quan), giả thuyết không gian rỗng bất biến (không thay đổi) truyền thống đã giải thích rất tốt sự phân tán tốc độ này. Kết quả độc đáo này là điều mà trước giờ khoa học vẫn chưa thống nhất

Khám phá mới của Maeder sẽ mở đường cho một khái niệm mới trong thiên văn, một khái niệm gây nhiều nghi vấn và tranh cãi."Mô hình này cuối cùng đã giải quyết được hai trong những bí ẩn lớn nhất của thiên văn. Việc công bố nó vẫn đúng với tinh thần khoa học: không điều gì có thể mãi mãihiển nhiên, không chỉ trong các mặt kinh nghiệm, quan sát hay lý luận của con người", giáo sư André Maeder kết luận.

Qua các chứng minh của khoa học, vủ trụ học, thiên văn học, chúng ta có thể kết luận rằng theo tinh thần Phật giáo Đại thừa, có thế giới vô hình bên kia, những cõi mà kinh điễn đề cập đến đều có thật, những cõi Phật, Bồ Tát, Trời, Ngạ quỹ, Địa ngục hay các cõi Thánh. Những cõi này là các thế giới có những chiều không gian khác nhau từ không gian 4 chiều cho đến 11 chiều và 68% năng lượng tối của vủ trụ, do vậy với mắt phàm phu của chúng ta chỉ thấy 2 cõi, đó là cõi Người và cõi súc sanh mà thôi, trùng hợp với không gian 3 chiều trên 11 chiều và 2 cõi trong 10 cõi của Phật giáo.

Nguồn tham khảo: Wikipedia/ Lập thu 2018

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 595)
Ajaan Dune Atulo (1888-1983) sinh ngày 4 tháng 10/1888 tại làng Praasaat, huyện Muang, tỉnh Surin. Năm 22 tuổi ngài xuất gia ở tỉnh lỵ.
(Xem: 781)
Đức Phật là đấng Toàn giác, bậc trí tuệ siêu việt. Càng hiểu Phật phápcuộc đời, ta càng thấy những gì Đức Phật dạy là vô cùng đúng đắn.
(Xem: 1103)
Một cá nhân hay đoàn thể đệ tử Phật thực sự có tu tập giới-định-tuệ thì được mọi người kính trọng; sống hòa hợp, nhẫn nhịn, không tranh chấp đấu đá lẫn nhau chắc chắn được mọi người thương mến.
(Xem: 1268)
"Một thời Đức Phật du hóa tại nước Xá-vệ, trong rừng Thắng, vườn Cấp Cô Độc. Bấy giờ, khi đêm đã qua, vào lúc trời vừa sáng, Đức Thế Tôn đắp y mang bát vào nước Xá-vệ. …
(Xem: 997)
Thánh hiệu của Bồ-tát Quán Thế Âm, tại Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc là Thánh hiệu mà không ai chẳng biết.
(Xem: 1341)
Việc nâng cao các tiện nghi vật chấtphương tiện hỗ trợ phát triển bản thânnhững tưởng giúp ta cởi bỏ phiền lụy để sống an vui,
(Xem: 791)
Con người khổ đau vì không biết và không thể sống đời sống chân thực (real life). Đời sống chân thựctrong bài này được gọi là “thực tại của đời sống”.
(Xem: 763)
Duy Thức Tam Thập Tụng, tác giả: tổ Thế Thân (316-396), dịch giả Phạn - Hán: Tam Tạng Pháp Sư Huyền Trang (602-664), có tất cả 30 bài tụng
(Xem: 808)
Đầu Xuân năm Tân Sửu, tôi có dịp sang chùa Khánh Anh ở Pháp, đã gặp Đạo hữu Seng Souvanh Khamdeng Pháp Danh Quảng Chơn, là chồng của Cô Trung Diệp Phạm Thị Hợi, vốn là em gái của cố Hòa Thượng Thích Tuệ Sỹ.
(Xem: 823)
Việc nâng cao các tiện nghi vật chấtphương tiện hỗ trợ phát triển bản thân những tưởng giúp ta cởi bỏ phiền lụy để sống an vui, nhưng thực tế, ta vẫn còn tiếp tục loay hoay giữa rối ren.
(Xem: 803)
Nước chảy mây bay có khoảnh khắc nào ngưng, hoa rơi lá rụng bốn mùa luân chuyển, người đến rồi đi cũng chưa từng gián đoạn bao giờ.
(Xem: 790)
Khi bạn giữ hơi thở trong tâm, bạn gom bốn niệm xứ vào một. Hơi thở là thân, các cảm giác (thọ) nằm trong thân, tâm (tưởng) nằm trong thân, phẩm chất tinh thần (pháp) nằm trong tâm.
(Xem: 948)
Đêm dần tàn và ngày i đang lên Băng tuyết lạnh mần thủy tiên đã nhú Mùa đông trắng cành đào hồng đơm nụ Xuân rạng ngời hoan hỷ đợi muôn hoa
(Xem: 835)
Khi thân yên, ta có thể hiểu biết về thân. Khi tâm tĩnh lặng, ta có hiểu biết về tâm. Khi hơi thở tĩnh lặng, ta có hiểu b
(Xem: 988)
Phật rời khỏi thế gian này rồi, lưu lại một số kỉ niệm cho chúng ta, chúng ta chiêm ngưỡng lễ lạy như Phật còn tại thế.
(Xem: 1007)
Qua lịch sử, người ta đã vạch ra, lên án những hành vi, những con người hung ác nhưng chưa định nghĩa thế nào là hung ác.
(Xem: 930)
Trong vài thập niên gần đây, thuật ngữ “tâm linh” trở nên rất thời thượng, tràn ngập khắp trên mặt báo chí, truyền thông, mạng xã hội,
(Xem: 932)
Trong kiếp Đức Thích Ca thành PhậtẤn Độ, người đối nghịch, thậm chí phá hoại đưa đến âm mưu sát hại Ngài là Đề Bà Đạt Đa.
(Xem: 858)
Không áo mão cân đai. Không y hồng hiệp chưởng. Một bộ y hậu thường nhật mà thôi. Nơi khám thờ hậu Tổ, một di ảnh đơn sơ, bình dị, vậy mà bao nhiêu bài viết đã xưng tánThiền Sư.
(Xem: 1015)
Con người được mô tả gồm hai phần: Thể xác và tinh thần. Theo thuật ngữ Phật học thì thể xác tức thân thể con người gọi là “Sắc”, còn tinh thần là “Danh” tức là tâm.
(Xem: 956)
Tâm từ bi, lòng trắc ẩn và không làm tổn hại là những những giá trị phổ quát trong Phật giáo, cho nên đối với người dân Bhutan
(Xem: 897)
Trong đời mỗi chúng sinh, đặc biệtcon người, sinh tử vẫn là điều làm cho chúng ta bất an, lo sợ nhất, dẫu biết rằng không ai thoát khỏi quy luật này
(Xem: 995)
Tham ái với thân, tập trung lo cho thân tứ đại một cách thái quá, đó là trói buộc.
(Xem: 910)
Không hiểu con người biết thương-ghét tự bao giờ? Chắc chắnkhi còn nằm trong bụng mẹ thì không có thương-ghét.
(Xem: 850)
Từ lâu chúng ta nghe nói nhiều về xá lợi, trong đó xá lợi Phật và chư thánh Tăng với lòng sùng tín.
(Xem: 958)
Tôi không biết. Nhưng tôi biết có kiếp trước. Làm sao biết? Bởi vì nếu khôngkiếp trước, làm sao có tôi ở kiếp này?
(Xem: 885)
Doanh nhân hiện nay không riêng gì ở Việt Nam đang đối đầu với nhiều khó khăn: tình trạng mất đơn hàng do ảnh hưởng suy thoái toàn cầu,
(Xem: 1144)
Dùng bè để qua sông, qua sông rồi thì bỏ bè là thí dụ nổi tiếng về pháp phương tiện trong kinh Phật.
(Xem: 916)
Ông cha ta có câu “gieo nhân nào gặt quả ấy” hay “thiện có thiện báo, ác có ác báo”.
(Xem: 1017)
Các anh chị GĐPT đồng phục áo lam, hoa sen trắng đã nhất tề cung nghinh kim quan Đạo Sư, mà bao lần Đạo Sư đã khuyến thỉnh, sách tấn để giữ trọn phương chăm Bi, Trí, Dũng GĐPT Việt Nam, thể hiện một chút tình, gánh kim quan trên vai để đền ơn đáp nghĩa.
(Xem: 1157)
Đạo Phật do đức Phật Thích Ca mâu Ni (Sakya Muni Buddha) khai sáng ở Ấn Độ. Căn bản của giáo phápTứ Diệu Đế, Bát Chánh Đạo
(Xem: 1617)
Hình ảnh, âm thanh đi vào cõi vô tung, đồng vọng ngàn sau, bặt tích, hay lưu lộ hình ảnh đôi bạn chân tình nơi chốn hiu hắt bụi đường mà đôi chân không hề mỏi.
(Xem: 1165)
Con đường giải thoát, tức là Bát Chánh Đạo. Có thể gói trọn vào một câu, hay hai câu, hay vài câu được không?
(Xem: 1261)
Nhĩ căn viên thông là khả năng mà Bồ-tát Quán Thế Âmthành tựu được nhờ vào sự tu tập ba phương pháp lắng nghe, tư duy và hành động (Văn, Tư, Tu).
(Xem: 1113)
Người xưa nói “Lưỡi không xương nhiều đường lắt léo”. Dù cho miệng lưỡi thế gian có thế nào chúng ta vẫn an nhiên, “tâm không bị biến đổi, miệng không phát ra lời nói cộc cằn”
(Xem: 978)
Immanuel Kant (1724-1804) là triết gia vĩ đại, người sáng lập ra nền triết học cổ điển Đức.
(Xem: 920)
Tu tập hằng ngày chúng ta thường được các vị Thầy hướng dẫn, nhắc nhở nếu muốn giác ngộ, thoát khổ,
(Xem: 960)
Ven. Pannyavaro là một tu sĩ Phật giáo người Úc, Ngài đã cống hiếncả đời mình tu tập thiền định theo giáo lý Đức Phật.
(Xem: 806)
Kinh, Luật, Luận của Phật Giáo cả Nam Truyền lẫn Bắc Truyền đọc tụng suốt cả đời cũng không hết. Bởi lẽ lời Phật, lời Tổ quá sâu sắc nhiệm mầu
(Xem: 1486)
“Để được làm người, sinh mệnh đó thực sự may mắn”.
(Xem: 1366)
Quan điểm của Phật giáo nói chung, mọi biến động của đời sống tự nhiênxã hội đều là biểu hiện của nghiệp, do nghiệp lực của nhân loại hiện hành chi phối.
(Xem: 1330)
Trong Phật giáo Đại thừa, bản chất của sự giác ngộ được gọi là bồ đề tâm, có nghĩa là tâm thức tỉnh.
(Xem: 1274)
Vào thế kỷ trước khi Đức Phật đản sinh, vùng đông bắc Ấn Độ đã trải qua những biến đổi sâu rộng làm định hình lại địa chính trị của khu vực một cách sâu sắc.
(Xem: 1380)
Tâm trí của Đức Phật được gọi là bồ đề tâm, nghĩa đen là “tâm giác ngộ”. Bồ đề tâm có hai khía cạnh
(Xem: 1334)
Hệ thống kinh điển trí huệ (bát nhã) tánh Không thường được xếp thành ba phạm trù: Văn tự Bát nhã, Quán chiếu Bát nhã, và Thật tướng Bát nhã.
(Xem: 1478)
Tăng đoàn thời Đức Phật còn tại thế không những có hai giai cấp quyền quý tại Ấn ĐộBà La Môn như: Xá Lợi Phất, Mục Kiền Liên, Đại Ca Diếp,…
(Xem: 1355)
Lịch sử truyền thừa của Ni giới ở một số bộ phái Phật giáo nói chung mãi đến hôm nay vẫn còn nhiều vấn đề chưa thể lý giải trọn vẹn.
(Xem: 1208)
Thiện ngữ là nói lời lành, chân thật, nhẹ nhàng, xây dựng, đoàn kết, yêu thương.
(Xem: 1267)
Cuộc sống rất ngắn ngủi, vì thế hãy phá bỏ cái tôi ngớ ngẩn của mình, nhanh chóng tha thứ, tin tưởng yêu thương thật lòng
(Xem: 1326)
Một thời, Thế Tôn trú ở giữa dân chúng Sakka, tại Kapilavatthu, ở khu vườn Nigrodha.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant