Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Bài Mới Nhất trang Văn Học
Điền Email để nhận bài mới

Bốn mùa lá rụng

19 Tháng Chín 201000:00(Xem: 20910)
Bốn mùa lá rụng

Trong văn học cũng như trong thực tế, người ta thường đề cập đến mùa thu có lá rơi, nhưng ít ai lại thấy thực tế hơn, chính xác hơn là trong bốn mùa, mùa nào cũng có lá rơi rụng cả.
Người ta thường thấy mùa xuân hoa nở, nhưng ít người thấy mùa xuân có lá rụng. Chính không thấy mùa xuân có lá rụng, khiến cho nhiều người đã định hướng cuộc đời của mình một cách mơ hồ, không thực tiễn. Trong mùa xuân có mặt của cả mùa đôngmùa hạ, trong mùa hạ có mặt của cả mùa xuânmùa thu, trong mùa thu có mặt của cả mùa hạmùa đông, và trong mùa đông đều có mặt của cả mùa thumùa xuân, đó là cách nhìn hết sức thực tiễn của thiền quán.
Và cách nhìn thực tiễnchính xác hơn nữa, là trong mỗi mùa đều có chất liệu của cả ba mùa kia, nên mùa nào cũng có lá rụng và mùa nào cũng có hoa nở cả.
Bằng cái nhìn thiền quán ấy, ta mới khám phá ra nơi tự thân của chính ta và của những người chung quanh ta, với bất cứ độ tuổi nào cũng có thể nở hoa và với bất cứ độ tuổi nào cũng có thể rơi rụng và với độ tuổi nào ta cũng có niềm vui và nỗi buồn của chính độ tuổi ấy.

Chúng ta đừng bao giờ nghĩ rằng, tuổi già không có niềm vui và tuổi trẻ không có nỗi buồn. Hiện nay giới trẻ, có những vị có rất nhiều nỗi buồn, có những vị buồn cho số phận hẩm hiu của chính mình, có những vị buồn cho hoàn cảnh của gia đình mình, cha và mẹ không hòa thuận với nhau, anh và em không có sự thương yêu tương kính, tương thuận nhau, nhưng cũng có những vị buồn vì cho rằng:

“Lũ chúng ta đầu thai lầm thế kỷ 
Bị quê hương ruồng bỏ giống nòi khinh”.

Cảm giác rằng, mình sinh ra đời không đúng lúcsai lầm thời đại, đó là những cảm giác thất vọng và khổ đau, nhưng cảm giác thất vọng và khổ đau hơn nữa, là mình đã vọng tưởng rằng, mình đã bị quê hương ruồng bỏ, mình đã bị giống nòi khinh! Và nếu ta sống với những cảm giác như vậy, thì cuộc đời của ta bốn mùa đều là lầm lũi và trở nên băng giá. 

Trong tất cả chúng ta, đến hành tinh này đều là thụ động và rồi ta từ giã hành tinh cũng là thụ động. Ta đâu có tự sinh mà cha mẹ của ta sinh, khi sinh rồi ta đâu có muốn chết, mà cái chết vẫn đến với ta bất cứ lúc nào và bất cứ ở đâu. Nên ta không có thẩm quyền để chọn lựa sự sinh ra và sự chết đi của ta ngay từ buổi ban đầu. Ngay từ buổi đầu ta có thẩm quyền chọn lựa đâu mà lầm với không lầm! Khi nào ta có thẩm quyền chọn lựa cha mẹ, dòng họthời đại hay xã hội đểø ta sinh ra mà ta sinh ra không đúng với những gì mà ta đã chọn lựa, thì đó mới gọi là lầm, nhưng thử hỏi trong tất cả chúng ta ai là người không lầm?

Vì là thụ động trong sự sinh ra và trong cái chết đi, nên đầu thai lầm thế kỷ là điều khó tránh khỏi, nhưng khi lớn lên ta đã được học hành và ta đã có ý thức đối với cuộc sống, mà ta chọn cho ta một cách sống hay một định hướng sai lầm, đó mới là điều thật đáng than trách. Và điều đáng than trách hơn nữa, là do ta đã chọn cách sống và định hướng sai lầm, nên ta đã bỏ dòng họ và quê hương của ta và rồi ta có cảm giác là ta bị quê hương ruồng bỏ giống nòi khinh! Nhưng thực ra, chẳng có quê hương nào ruồng bỏ mình mà do mình mặc cảm quê hương, rồi trốn chạy; và chẳng có ông bà nào trong dòng họ mà khinh con cháu, nhưng do con cháu vì mặc cảm tự tôn hay mặc cảm tự ty mà chạy theo tà kiến, nên không những quên mất dòng họ mà còn kết án dòng họ!

Quên mất dòng họ, chính là quên mất quê hương và quên mất quê hương là quên mất đường về. Đối với tuổi trẻ đánh mất quê hương, chính là đánh mất bản chất mùa xuân của chính mình. Và đối với tuổi già cũng có những vị đã đánh mất quê hương và dòng họ của chính họ, nên họ đã trầm mình trong những tháng ngày đông giá lạnh. Nhưng cũng có những vị đã tìm ra được những niềm vui thanh khiết, trong những ngày còn lại của đời người và họ sống hết sứcý nghĩa, và họ đã tạo ra được mùa xuân cho chính họ vào tuổi già, đồng thời họ cũng đã tạo ra được mùa xuân cho cả con cháu của họ.

Bởi vậy, mùa thu hay mùa đông, mùa xuân hay mùa hạ của thiên nhiên là có ước lệ của thời gian nhất định, nhưng mùa thu hay mùa đông, mùa xuân hay mùa hạ thuộc về tâm hồn của con ngườibất định về thời gian, nghĩa là có khi chỉ cần trong một khoảnh khắc mà sự sống con người trở thành vĩnh cửu và vô hạn, nhưng cũng có khi, con người kéo lê đời mình cả trăm năm trong vô vọng, mà chẳng có một chút ý nghĩa nào, ngoài sự lo lắngsợ hãi, ngoài việc sống để giành giựt hơn thua, để rồi tạo ra mùa hè nóng bức hay mùa đông băng giá cho nhau!

Thực sự, trong cuộc sống của con người, ở nơi nào có đấu tranh, có giành giựt, thì ở nơi đó có sự oi bức của mùa hạ, chính sự oi bức của mùa hạ ấy, mới làm cho đời sống của con người bị chết ngột không có lối thoát; chính cái oi bức của mùa hạ ấy, mới đốt cháy hết sạch mọi hạnh phúc trong đời sống của con người. Sự oi bức do mùa hạ của thiên nhiên đem lại, con người có thể vượt qua được bằng những tiện nghi của khoa học hiện đại, nhưng sự oi bức của mùa hạ trong tâm hồn, thì không có một văn minh khoa học nào có thể giúp ta vượt qua, ngoài sự thiền quán để an tịnh tâm ý và nuôi dưỡng chất liệu từ bi trong ta.

Và sự băng giá hay lạnh cóng của khí hậu thiên nhiên mùa đông, ta cũng có thể sử dụng những tiện nghi của khoa học hiện đại để vượt qua, nhưng sự băng giá và lạnh buốt của tâm hồn, thì cho dù những tiện nghi của khoa học có hiện đại đến bao nhiêu đi nữa, cũng không thể giúp ta vượt ra khỏi tình trạng ấy. Ta có thể vượt ra khỏi tình trạng ấy, khi nào ta biết bật ngọn đèn chánh niệm ở nơi tâm ta lên, khi tâm ta đã có ngọn đèn chánh niệm, ta biết rõ ta đang hiện hữu với tất cả những gì toàn vẹn trong từng giây, từng phút của sự sống, và mỗi giây phút đi qua đời ta là mỗi giây phút sống động nhiệm mầu, là mỗi giây phút đưa ta đi đến với thời gian không giới hạn, với không gian vô cùng.

Thực sự, không có sự sống nào gọi là sự sống khép kín, bản chất của sự sống là mở. Ta phải mở và thả ra tất cả những gì mà ta đã nắm bắt trong một đời người. Ta phải buông thả những ý niệm và những tri giác sai lầm trong ta về thời giankhông gian ra. Ta phải thả mùa xuân trong đời sống của ta ra, thì mùa hạ trong đời sống của ta không có lý do gì để có mặt. Trong đời sống của ta, mùa hạ đã không có lý do để có mặt, thì mùa thumùa đông cũng theo đó mà lặng yên.

Buông bỏ mùa xuân, nghĩa là buông bỏ mọi hạt giống vô minh, tham ái và hưởng thụ ở trong tâm thức ta, vì trong đời sống của con người, mùa xuân được tạo nên bởi những chất liệu này, mà không phải là những chất liệu của chánh niệm, tuệ giáctình thương, nên mùa xuân ấy là mở đầu cho một sự sống hạnh phúc mơ hồ, mà thất vọng và khổ đau chắc chắn sẽ xuất hiện ở trong mùa hạ và trong những mùa kế tiếp của đời người.

Bằng đôi mắt thiền quán, khi ta thở vào hay ra là ta phải có ý thức toàn thân, chính ý thức ấy, khiến ta có thể tạo ra mùa xuân đầy sức sống, đầy ý vị cho ta suốt cả chiều dài, chiều rộng, chiều cao và chiều sâu của cuộc sống, từ những yếu tố sinh học và tâm học ở trong ta.

Thở với ý thức toàn thân là ta phải có ý thức về toàn thể không gianthời gian trong lúc ta đang thở. Đối với không gian, hơi thở của ta liên hệ chặc chẽ với không khí, với hơi ấm, với thể lỏng và với thể rắn, đồng thời nó gắn chặt với các bộ phận sinh học khác ở trong cơ thể của ta. 

Và quan trọng hơn hết là một khi hơi thở của ta đã gắn chặt được với không gian tâm thức, thì bấy giờ những hạt giống khổ đau ở trong tâm thức ta từ từ lắng yên và chuyển hóa. Lúc ấy mùa xuân đối với ta không gọi mời mà nó vẫn đến, không cần duy trì mà nó vẫn hiện hữu. Nó hiện hữu một cách thanh cao với ý nghĩa toàn vẹn và không có giới hạn.

Thở với ý thức toàn thân là ta ý thức rõ, ở trong thân thể ta từ đầu đến chân không có chỗ nào là không có mặt của hơi thở và trong các bộ phận của cơ thể, không có bộ phận nào là không gắn liền và không liên hệ với hơi thở. Chính hơi thở chánh niệm với ý thức toàn thân, chúng tạo ra năng lực mùa xuân hiện thực cho các bộ phận sinh học trong ta. 

Sở dĩ, hơi thở và các bộ phận trong cơ thể, chúng gắn liền được với nhau là do chúng không có tự tính cho chính nó. Hơi thở không có tự tính cho chính nó, nên hơi thở có thể đến và hòa nhập vào với bất cứ bộ phận nào của cơ thể và có thể trở thành một với các bộ phận ấy. 

Và các bộ phận trong cơ thể cũng vậy, chúng không có tự tính cho chính nó, nên chúng mới tiếp nhận hơi thở một cách tự nhiên. Hơi thở đi vàohiện hữu ở trong các bộ phận và các bộ phận đi vàohiện hữu ở trong hơi thở mà không hề có một sự chướng ngại nào cả.

Bởi vậy, khi thiền quán ta thấy rõ tự thân của ta vốn là “Nhất chân pháp giới”, nghĩa là vũ trụ đang hiện hữu ở trong sự thuần nhất chân thực. Sự hiện hữu này không làm trở ngại đối với sự hiện hữu kia, sự hiện hữu kia không làm trở ngại đối với sự hiện hữu này. Chúng hiện hữu trong nhau, để cùng nhau tạo ra một sự sống vô cùng, hay là một mùa xuân bất tận.

Đối với thời gian, khi ta thở với ý thức toàn thân, thì ta thấy cả bốn mùa đều có mặt trong nhau và bốn mùa đều có mặt trong từng hơi thở của ta. Ta thở vào và ra dài, hay ta thở vào và ra ngắn, thì sự vào và ra của hơi thở, nó liên hệ chặc chẽ từ không gian vật lý đến không gian tâm thức trong đời sống của ta. Và khi ta thở vào và ra dài hay ta thở vào và ra ngắn, thì sự dài ngắn của hơi thở, chúng có liên hệ chặc chẽ từ thời gian vật lý đến thời gian tâm thức trong đời sống của ta.

Không gian vật lý dù lớn mấy cũng nhỏ so với không gian tâm thứcthời gian vật lý dù dài mấy cũng ngắn so với thời gian tâm linh, nên khi thiền quán, có khi ta chỉ ngồi yên lặng để nhìn kỹ tâm ta, mà trong khoảnh khắc ta thấy cả mười phương vô tận thế giới, hay ta ngồi yên lắng để cảm nhận niềm vui của tâm chỉ mới thoáng chốc mà đã trải qua mấy mùa sương tuyết, hay khi ta hẹn ai và chờ đợi thì thời gian vật lý mới chỉ đi qua mấy phút mà ta có cảm giác lâu như thế kỷ.

Bởi vậy, không gian của tâm là không gian vô cùng, nên ta đi mãi trong đó mà không bao giờ chạm phải bởi bất cứ một biên cương nào cả. Và thời gian của tâm là thời gian vô tận, nên sống và chết ta cứ đi mãi ở trong đó, và ẩn hay hiện của chúng, chỉ là những trò chơi đuổi bắt, khi gió nghiệp thổi lên, khiến những ngọn sóng ái triều chập chùng khởi sinh vô tận

Nhưng, một khi gió nghiệp lắng yên, sóng thức không còn có điều kiện để sinh khởi, biển tâm hoàn toàn an tịnh, không còn gợi lên một tý sóng cồn, bấy giờ ta sống trong biển tâm ấy, thì không gian chính là thời gianthời gian chính là không gian, chúng không phải là một mà cũng không phải khác. Ở nơi đó mọi ý niệm hoàn toàn lắng yên. Thực tại vốn không có ý niệm, nếu ta sử dụng ý niệm để ý niệm về thực tại, thì thực tại đó là thực tại của ý niệm mà không phải là thực tại của thực tại.

Khi ta sử dụng ý niệm để phán xét và cảm nghiệm niềm vui và nỗi buồn của cuộc sống, thì chính cái ta đang sống và đang tiếp xúc để cảm nghiệm ấy, là cái đang sinh diệt, chúng là trò chơi được biểu hiện từ tâm thức. Và hẳn nhiên, thế giới mà ta đang sống và đang cảm nghiệm như thế, thì cả bốn mùa đều có lá rơi, chứ không phải chỉ có mùa thu mới có lá rơi và ta cũng có thể rơi bất cứ lúc nào và bất cứ ở đâu, đó là một sự thực của cuộc sống, nó luôn luôn xảy ra cho ta và cho những người chung quanh ta là như vậy
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 98)
Vesak theo truyền thống gắn liền với sự ra đời, giác ngộ và nhập Niết bàn của Đức Phật,
(Xem: 150)
Bồ Tát Đạo là con đường mà vị Bồ Tát phải đi qua. Đây là những giai đoạn mà một vị Bồ Tát kinh qua trên đường giác ngộ.
(Xem: 489)
Trong triết lý sống của ông cha ta, có một câu nói nghe qua tưởng nghịch lý nhưng lại ẩn chứa sự minh triết sâu sắc
(Xem: 647)
Hiện nay đang ở vào thời mạt thế, xuất hiện nhiều tà sư hướng dẫn Phật tử vào con đường sai lạc. Điều này không phải bây giờ mới có.
(Xem: 744)
Bài này được viết với chủ đề ghi lời Đức Phật dạy rằng hãy giữ thân không bệnh, để có thể học và tu pháp giải thoát.
(Xem: 786)
Cách đây hơn 2500 năm trước, Đức Phật Thích Ca Mâu Ni đã từng dự ngôn, sau khi Ngài ly thế, cũng chính là vào thời kỳ Mạt pháp thì
(Xem: 655)
Đạo đức không còn là một khái niệm, một lời kêu gọi ‘hãy sống thiện’, một giá trị lý tưởng cao xa, mà là một thực thể cụ thể, ăn được, uống được, thu nạp được, và ăn uống được nên mới “say”.
(Xem: 736)
Quan điểm cho rằng tâm trí của chúng ta có chiều sâu vô thức đã trở nên phổ biến do sự phổ biến của phân tâm học và các kỹ thuật trị liệu liên quan.
(Xem: 830)
Trong kinh điển Phật giáo, từ Hán tạng cho đến Nikāya nói chung, thật sự không quá khó để tìm thấy những cụm từ liên quan đến một phương tiện
(Xem: 806)
Người học Phật, chẳng những phải tham cứu chơn lý, mà lại cần phải y như chơn-lý mà thiệt thành cho đến khi chứng đặng chơn-lý;
(Xem: 830)
Phật tánh là chủ đề chính của Kinh Đại Bát Niết Bàn do ngài Đàm Vô Sấm (385 – 433) mang qua Trung Hoa và dịch.
(Xem: 920)
Đôi khi bạn rơi vào một diễn đàn Phật pháp trên Internet, bất ngờ lại thấy tranh cãi bộ phái, rằng chuyện Nam Tông thế này và Bắc Tông thế kia
(Xem: 1043)
Trong giáo lý nhà Phật, "kham nhẫn" và "nhẫn nhục" là hai phạm trù rất quan trọng trong việc tu tập.
(Xem: 835)
Phật giáo cũng như vận mệnh của người dân, luôn thăng trầm theo thời cuộc.
(Xem: 926)
Hãy buông xả và cuộc sống của bạn sẽ tốt hơn. Một kỹ năng sống không thể thiếu.
(Xem: 798)
Từ thời học tiểu học, trong mỗi cuốn vở đều thấy có in dòng chữ “Ngày nay học tập, ngày mai giúp đời”.
(Xem: 1485)
Tôi không dám so sánh vì ai cũng có cuộc du hành cuối đời, tôi đã khá xúc động mạnh khi đọc kinh Đại Bát Niết Bàn hồi còn trẻ, nhưng hiện tại tôi đang tưởng niệm và cảm xúc đến Thầy tôi nên xin viết ra đây để kỷ niệm.
(Xem: 848)
Phra Ajaan Lee Dhammadharo (1907-1961), là một trong những vị thiền sư theo truyền thống tu khổ hạnh trong rừng.
(Xem: 891)
Năm ấy Bồ Đề Đạt Ma đến Trung Nguyên hoằng pháp. Ngài gặp Lương Võ Đế, một ông vua có tiếng sùng đạo, mến mộ Phật pháp.
(Xem: 1392)
Có khi nào bạn hỏi: “Tại sao khi càng lớn tuổi, người ta càng thích sống một mình và bớt đi nhiều mối quan hệ?”
(Xem: 1444)
Sâu thẳm bên trong tất cả chúng sinh là một loại tia lửa thắp sáng và sưởi ấm cuộc sống của chúng ta. Nó được gọi bằng nhiều tên trong nhiều truyền thống khác nhau.
(Xem: 1230)
Chúng con trân trọng kính mời quý vị tham gia một Ngày Quán Niệm với chủ đề “Tháng Tư Nuôi Dưỡng và Trị Liệu” dành cho các tăng thân người Việt do quý thầy và sư cô của Tu Viện Lộc Uyểnhướng dẫn tại Quận Cam.
(Xem: 1617)
Có khi nào bạn hỏi: “Tại sao khi càng lớn tuổi, người ta càng thích sống một mình và bớt đi nhiều mối quan hệ?”
(Xem: 1539)
Sâu thẳm bên trong tất cả chúng sinh là một loại tia lửa thắp sáng và sưởi ấm cuộc sống của chúng ta.
(Xem: 1035)
Bản kinh dưới đây là “Bahiya Sutta,” trong Tiểu Bộ Kinh (Khuddhaka Nikaya) trong Tam Tạng Pali,
(Xem: 1733)
Tứ Như Ý Túc, là pháp hành thứ ba, đứng sau Tứ Niệm XứTứ Chánh Cần. Sau Tứ Như Ý TúcNgũ Căn, Ngũ Lực,
(Xem: 1471)
Sự kiện Đức Phật nhập Niết-bàn thường được các giới Phật giáo tổ chức thành một lễ hội thiêng liêng.
(Xem: 1021)
Chúng ta hành thiền để tìm hạnh phúc, nhưng trước hết chúng ta phải mang chút hạnh phúc đến với thiền nếu ta muốn có kết quả.
(Xem: 1539)
Hộ niệm hay giáo hóa cho người bệnh sắp chết là pháp hành quan trọng và phổ biến trong thời đại Thế Tôn. Pháp tu này
(Xem: 1042)
Chúng ta hành thiền để tìm hạnh phúc, nhưng trước hết chúng ta phải mang chút hạnh phúc đến với thiền nếu ta muốn có kết quả.
(Xem: 1595)
Tứ Như Ý Túc, là pháp hành thứ ba, đứng sau Tứ Niệm XứTứ Chánh Cần.
(Xem: 1577)
Bộ Cao Tăng truyện của nhà sử học Phật giáo cao tăng Huệ Kiểu (497-554) là bộ sử liệu quan trọng
(Xem: 970)
Trong Kinh Từ Bi (Metta Sutta). Đức Phật liệt kê mười lăm điều kiện thiện lành, tạo nên sự bình an bên trong, và đưa chúng ta đến lòng từ bi.
(Xem: 972)
Khi đa số người trong một xã hội không có niềm tin về chính mình, không biết “tôi là ai”,
(Xem: 2065)
Trong cuộc sống chúng ta thường lẫn lộn giữa thực tếước mơ, thế nhưng ước mơ cũng có thể giúp chúng ta nhìn vào thực tế một cách thực tế hơn
(Xem: 1841)
Sau thực phẩm, ngôn ngữ là nguồn nước của dòng chảy văn hóa trong đó văn là vẻ đẹp (văn vẻ), hóa là sự thay đổi.
(Xem: 1487)
Trong cuộc sống chúng ta thường lẫn lộn giữa thực tếước mơ, thế nhưng ước mơ cũng có thể giúp chúng ta nhìn vào thực tế
(Xem: 2167)
Đức Phật đã từng xác định pháp tu Tứ Niệm Xứ là “Con đường độc nhất đưa đến: Thanh tịnh chúng sanh; Vượt khỏi sầu não;
(Xem: 2075)
Khi nào bạn thấy tâm và cảnh vốn là không, bạn sẽ thấy bất kỳ nơi nào cũng là Niết Bản.
(Xem: 2027)
“Tâm linh” vốn là cụm từ mà đối với nhiều người vẫn xem đó là những gì thuộc về thế giới siêu linh, huyền bí, thuộc về cõi âm.
(Xem: 2118)
Phát xuất từ lời Phật dạy trên đây mà ngài Châu Hoằng nhắc nhở các Sa di không được nghe lén Tỷ kheo tụng giới.
(Xem: 1791)
Ngay cả khi con trẻ không hiểu ý nghĩa, việc quy y vẫn có thể giúp chúng phát triển nghiệp duyên với Pháp.
(Xem: 1196)
Trong thực tế đời sống, có những vấn đề lặp lại thường gắn với sự đơn diệu tẻ nhạt,
(Xem: 2230)
Duy thức tam thập tụng là một bộ trước tác rất trọng yếu trong pháp tướng duy thức, còn là cương lĩnhyếu chỉ của duy thức học.
(Xem: 2278)
Phi-bạo-lực là một giải pháp thực tế trước các sự xung đột trong thời đại của chúng ta.
(Xem: 1753)
Phật tử chúng ta thường đặt hoa trên bàn thờ. Chúng ta biết hoa rất đẹp, nhưng đó không phải là mục đích chúng ta đặt chúng ở đấy.
(Xem: 2244)
Bài này sẽ viết trong tinh thần đối chiếu Kinh Pháp Cú với Thiền Tông.
(Xem: 1438)
Bên ngoài trời đã lạnh. Ra ngoài phải khoác thêm áo ấm; trong nhà phải vặn lò sưởi.
(Xem: 1499)
Trái tim không phải để suy nghĩ. Trái tim là để yêu thương.
Quảng Cáo Bảo Trợ
free website cloud based tv menu online azimenu
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant