Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Hoa Vô Ưu Có Phải Là Hoa Ưu Đàm?

18 Tháng Sáu 202213:03(Xem: 2494)
Hoa Vô Ưu Có Phải Là Hoa Ưu Đàm?
Hoa Vô Ưu Có Phải Là Hoa Ưu Đàm?

Quảng Tánh


Hoa Vô Ưu

HỎI: Hoa vô ưu có phải là hoa ưu đàm không? Nếu không phải thì tại sao Thái tử Tất Đạt Đa hạ sinh dưới cội vô ưu nhưng khi nói về Đản sanh của Đức Phật thì lấy biểu tượng hoa ưu đàm?

Đáp: Vô ưuPhạn ngữ Asoka, Hán ngữ phiên âm A du caA thúc ca, A thuật ca… dịch nghĩa là Vô ưu hoa, hoa không ưu tư phiền muộn. Theo Tiến sĩ Rupa A. Shah, Đại học Bombay thì hoa Vô ưu có tên thực vật học là Saraca Indica or Jonesia Ashok, thuộc họ Caesalpaeniaceae, cây thân mộc, hoa màu vàng cam. Mùa ra hoa khoảng giữa tháng Tư và tháng Năm. Hoa được phát hiện ở vùng trung tâm phía Đông dãy Himalaya và vài khu vực phía Tây bờ biển Bombay.

Theo kinh luận thì vô ưu là loại hoa thân mộc, trổ hoa vào mùa Xuân, mọc rất phổ biến ở xứ Thiên Trúc. Khi hoa nở, đoá lớn, sắc đẹp, hương thơm, ong bướm hút mật không biết chán. Phụ nữ Ấn Độ rất ái mộ và tôn kính cây hoa này. Theo thần thoại (Ramayana), nàng Sita khi bị ác thần Ravana nhiễu hại đã trốn dưới cây Vô ưu và kháng cự thành công. Vì thế, hoa Vô ưu rất được phụ nữ Ấn tôn trọng và loại hoa quý để dâng cúng được thần Siva. Tương truyền, loài cây này cũng cảm nhận được tình cảm của con người nên được phụ nữ chăm sóc thì trổ hoa mau và rất nhiều.

Tại vườn ngự uyển Lâm Tỳ Nihoa vô ưu được trồng rất nhiều. Hoàng hậu Ma Gia cùng đoàn tuỳ tùng xa giá rời Ca Tỳ La Vệ trở về quê ngoại để sanh con đầu lòng, theo tập tục Ấn Độ thời bấy giờ. Khi ngang qua vườn Lâm Tỳ Ni, hoàng hậu ra lệnh dừng lại để người vào lâm viên nghỉ ngơi, đi dạo và ngoạn cảnh. Khi đi đến dưới cây vô ưu, thấy hoa nở rộ, ngào ngạt hương thơm bèn đưa tay phải vin cành hoa vô ưu, liền khi đó hạ sanh Thái tử.

Ưu đàm cũng là một loại cây có hoa nhưng là loại cây thiêng (linh thọ). Theo Phật giáohoa ưu đàm nở là một điềm lànhƯu đàmPhạn ngữ Udumbara, Hán ngữ phiên âm thành ưu đàm bà la, Ô đàm bạt la, Ô đám bát la, Uất đàm… Hoa ưu đàm có tên ưu đàm bát hoa hay ưu bát hoa gọi tắt là Đàm hoa, dịch nghĩa là Linh thuỵ hoa, Thuỵ ứng hoa, Không khởi hoa. Theo Từ điển Phật học Hán Việt, NXB. Khoa Học Xã Hội thì: “Cây ưu đàm không thuộc loại hoa quả, mọc ở các nơi như núi Himalaya , cao nguyên Đê-can và nước Xây-lan… Thân trơn, một thứ thô nhám, cả hai thứ đều dài khoảng 4,5 tấc nhọn đầu. Hoa lưỡng tính rất bé, mọc kín ở lõm sâu trong đài hoa, nên thường nhầm là loại cây không hoa. Hoa xếp như nắm tay hoặc như ngón tay cái, thành chùm hơn chục đoá, ăn được nhưng vị không ngon”. Sách Huyền Lâm Ứng Nghĩa, quyển 21 mô tả về ưu đàm “lá cây có hoa nhưng ít xuất hiện, khó trồng”. Cứ vào các đặc điểm được mô tả về thân, lá, hoa và quả của ưu đàm và Vô ưu thì chắc chắn ưu đàm và vô ưu là hai loại cây hoàn toàn khác biệt nhau.

Đúng là Thái tử Tất Đạt Đa được sinh ra dưới cội vô ưuTuy nhiên, khi nói về Phật đản sanh lại lấy hoa ưu đàm làm biểu tượng là do một nguyên nhân khác. Hoa ưu đàmtheo quan niệm của Phật giáo là một hoa thiêng, cực kỳ quý hiếm “ba ngàn năm mới nở một lần” nên mang ý nghĩa hy hữu, hiếm có, khó gặp. Mặt khác, hoa ưu đàm nở là điềm lành báo hiệu Đức Phật ra đời hay có bậc Luân vương xuất thếvì lẽ ấy mà hoa ưu đàm được gọi là hoa Linh thuỵ. Theo Pháp Hoa Văn Cú: “Ưu đàm là loại hoa thiêng, ba ngàn năm mới nở một lần, mỗi làn hoa nở thì có Đức Phật ra đời”. Do các đặc điểm này, hoa ưu đàm thường được làm ảnh dụ cho sự kiện xuất thế hy hữu của Đức Thế Tôn trong văn học và kinh điển Phật giáo.

Như vậy, Thái tử Tất Đạt Đa đản sanh dưới cội vô ưu trong vườn Lâm Tỳ Ni là một sự thật lịch sử. Còn việc dùng hoa ưu đàm làm ảnh dụ cho sự kiện xuất thế của một Bậc Giác ngộ là một chuyện khác. Vì thế, khi bàn đến Đản sanh của Phật Thích Ca thì hoa vô ưu được xem như một chứng tíchgắn liền với một sự kiện lịch sử cụ thể, còn hoa ưu đàm là ảnh dụ của sự kiện lịch sử vĩ đại và hy hữu ấy. Dẫu chắc rằng ưu đàm đã khai hoa vào dịp ấy nhưng không phải nơi vườn Lâm Tỳ Ni. Do vậy, hoa Vô ưu nở vào mùa Xuân mỗi năm là chuyện bình thường nhưng nói đến hoa Ưu đàm nở, tự khắc ta liên tưởng đến đại sự nhân duyên, một vị Phật đản sanh, Bậc Giác Ngộ xuất hiện.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 701)
Trời có lúc nắng lúc mưa, người có lúc may mắn hoặc xui xẻo. Nhưng không có cái gì tự dưng sinh ra hay mất đi, tất cả đều có lý do của do của nó.
(Xem: 595)
Ajaan Dune Atulo (1888-1983) sinh ngày 4 tháng 10/1888 tại làng Praasaat, huyện Muang, tỉnh Surin. Năm 22 tuổi ngài xuất gia ở tỉnh lỵ.
(Xem: 783)
Đức Phật là đấng Toàn giác, bậc trí tuệ siêu việt. Càng hiểu Phật phápcuộc đời, ta càng thấy những gì Đức Phật dạy là vô cùng đúng đắn.
(Xem: 1104)
Một cá nhân hay đoàn thể đệ tử Phật thực sự có tu tập giới-định-tuệ thì được mọi người kính trọng; sống hòa hợp, nhẫn nhịn, không tranh chấp đấu đá lẫn nhau chắc chắn được mọi người thương mến.
(Xem: 1268)
"Một thời Đức Phật du hóa tại nước Xá-vệ, trong rừng Thắng, vườn Cấp Cô Độc. Bấy giờ, khi đêm đã qua, vào lúc trời vừa sáng, Đức Thế Tôn đắp y mang bát vào nước Xá-vệ. …
(Xem: 998)
Thánh hiệu của Bồ-tát Quán Thế Âm, tại Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc là Thánh hiệu mà không ai chẳng biết.
(Xem: 1342)
Việc nâng cao các tiện nghi vật chấtphương tiện hỗ trợ phát triển bản thânnhững tưởng giúp ta cởi bỏ phiền lụy để sống an vui,
(Xem: 792)
Con người khổ đau vì không biết và không thể sống đời sống chân thực (real life). Đời sống chân thựctrong bài này được gọi là “thực tại của đời sống”.
(Xem: 765)
Duy Thức Tam Thập Tụng, tác giả: tổ Thế Thân (316-396), dịch giả Phạn - Hán: Tam Tạng Pháp Sư Huyền Trang (602-664), có tất cả 30 bài tụng
(Xem: 808)
Đầu Xuân năm Tân Sửu, tôi có dịp sang chùa Khánh Anh ở Pháp, đã gặp Đạo hữu Seng Souvanh Khamdeng Pháp Danh Quảng Chơn, là chồng của Cô Trung Diệp Phạm Thị Hợi, vốn là em gái của cố Hòa Thượng Thích Tuệ Sỹ.
(Xem: 823)
Việc nâng cao các tiện nghi vật chấtphương tiện hỗ trợ phát triển bản thân những tưởng giúp ta cởi bỏ phiền lụy để sống an vui, nhưng thực tế, ta vẫn còn tiếp tục loay hoay giữa rối ren.
(Xem: 803)
Nước chảy mây bay có khoảnh khắc nào ngưng, hoa rơi lá rụng bốn mùa luân chuyển, người đến rồi đi cũng chưa từng gián đoạn bao giờ.
(Xem: 791)
Khi bạn giữ hơi thở trong tâm, bạn gom bốn niệm xứ vào một. Hơi thở là thân, các cảm giác (thọ) nằm trong thân, tâm (tưởng) nằm trong thân, phẩm chất tinh thần (pháp) nằm trong tâm.
(Xem: 948)
Đêm dần tàn và ngày i đang lên Băng tuyết lạnh mần thủy tiên đã nhú Mùa đông trắng cành đào hồng đơm nụ Xuân rạng ngời hoan hỷ đợi muôn hoa
(Xem: 835)
Khi thân yên, ta có thể hiểu biết về thân. Khi tâm tĩnh lặng, ta có hiểu biết về tâm. Khi hơi thở tĩnh lặng, ta có hiểu b
(Xem: 988)
Phật rời khỏi thế gian này rồi, lưu lại một số kỉ niệm cho chúng ta, chúng ta chiêm ngưỡng lễ lạy như Phật còn tại thế.
(Xem: 1007)
Qua lịch sử, người ta đã vạch ra, lên án những hành vi, những con người hung ác nhưng chưa định nghĩa thế nào là hung ác.
(Xem: 932)
Trong vài thập niên gần đây, thuật ngữ “tâm linh” trở nên rất thời thượng, tràn ngập khắp trên mặt báo chí, truyền thông, mạng xã hội,
(Xem: 932)
Trong kiếp Đức Thích Ca thành PhậtẤn Độ, người đối nghịch, thậm chí phá hoại đưa đến âm mưu sát hại Ngài là Đề Bà Đạt Đa.
(Xem: 858)
Không áo mão cân đai. Không y hồng hiệp chưởng. Một bộ y hậu thường nhật mà thôi. Nơi khám thờ hậu Tổ, một di ảnh đơn sơ, bình dị, vậy mà bao nhiêu bài viết đã xưng tánThiền Sư.
(Xem: 1015)
Con người được mô tả gồm hai phần: Thể xác và tinh thần. Theo thuật ngữ Phật học thì thể xác tức thân thể con người gọi là “Sắc”, còn tinh thần là “Danh” tức là tâm.
(Xem: 960)
Tâm từ bi, lòng trắc ẩn và không làm tổn hại là những những giá trị phổ quát trong Phật giáo, cho nên đối với người dân Bhutan
(Xem: 897)
Trong đời mỗi chúng sinh, đặc biệtcon người, sinh tử vẫn là điều làm cho chúng ta bất an, lo sợ nhất, dẫu biết rằng không ai thoát khỏi quy luật này
(Xem: 995)
Tham ái với thân, tập trung lo cho thân tứ đại một cách thái quá, đó là trói buộc.
(Xem: 910)
Không hiểu con người biết thương-ghét tự bao giờ? Chắc chắnkhi còn nằm trong bụng mẹ thì không có thương-ghét.
(Xem: 851)
Từ lâu chúng ta nghe nói nhiều về xá lợi, trong đó xá lợi Phật và chư thánh Tăng với lòng sùng tín.
(Xem: 959)
Tôi không biết. Nhưng tôi biết có kiếp trước. Làm sao biết? Bởi vì nếu khôngkiếp trước, làm sao có tôi ở kiếp này?
(Xem: 886)
Doanh nhân hiện nay không riêng gì ở Việt Nam đang đối đầu với nhiều khó khăn: tình trạng mất đơn hàng do ảnh hưởng suy thoái toàn cầu,
(Xem: 1147)
Dùng bè để qua sông, qua sông rồi thì bỏ bè là thí dụ nổi tiếng về pháp phương tiện trong kinh Phật.
(Xem: 918)
Ông cha ta có câu “gieo nhân nào gặt quả ấy” hay “thiện có thiện báo, ác có ác báo”.
(Xem: 1018)
Các anh chị GĐPT đồng phục áo lam, hoa sen trắng đã nhất tề cung nghinh kim quan Đạo Sư, mà bao lần Đạo Sư đã khuyến thỉnh, sách tấn để giữ trọn phương chăm Bi, Trí, Dũng GĐPT Việt Nam, thể hiện một chút tình, gánh kim quan trên vai để đền ơn đáp nghĩa.
(Xem: 1158)
Đạo Phật do đức Phật Thích Ca mâu Ni (Sakya Muni Buddha) khai sáng ở Ấn Độ. Căn bản của giáo phápTứ Diệu Đế, Bát Chánh Đạo
(Xem: 1618)
Hình ảnh, âm thanh đi vào cõi vô tung, đồng vọng ngàn sau, bặt tích, hay lưu lộ hình ảnh đôi bạn chân tình nơi chốn hiu hắt bụi đường mà đôi chân không hề mỏi.
(Xem: 1166)
Con đường giải thoát, tức là Bát Chánh Đạo. Có thể gói trọn vào một câu, hay hai câu, hay vài câu được không?
(Xem: 1261)
Nhĩ căn viên thông là khả năng mà Bồ-tát Quán Thế Âmthành tựu được nhờ vào sự tu tập ba phương pháp lắng nghe, tư duy và hành động (Văn, Tư, Tu).
(Xem: 1113)
Người xưa nói “Lưỡi không xương nhiều đường lắt léo”. Dù cho miệng lưỡi thế gian có thế nào chúng ta vẫn an nhiên, “tâm không bị biến đổi, miệng không phát ra lời nói cộc cằn”
(Xem: 978)
Immanuel Kant (1724-1804) là triết gia vĩ đại, người sáng lập ra nền triết học cổ điển Đức.
(Xem: 921)
Tu tập hằng ngày chúng ta thường được các vị Thầy hướng dẫn, nhắc nhở nếu muốn giác ngộ, thoát khổ,
(Xem: 960)
Ven. Pannyavaro là một tu sĩ Phật giáo người Úc, Ngài đã cống hiếncả đời mình tu tập thiền định theo giáo lý Đức Phật.
(Xem: 806)
Kinh, Luật, Luận của Phật Giáo cả Nam Truyền lẫn Bắc Truyền đọc tụng suốt cả đời cũng không hết. Bởi lẽ lời Phật, lời Tổ quá sâu sắc nhiệm mầu
(Xem: 1487)
“Để được làm người, sinh mệnh đó thực sự may mắn”.
(Xem: 1366)
Quan điểm của Phật giáo nói chung, mọi biến động của đời sống tự nhiênxã hội đều là biểu hiện của nghiệp, do nghiệp lực của nhân loại hiện hành chi phối.
(Xem: 1330)
Trong Phật giáo Đại thừa, bản chất của sự giác ngộ được gọi là bồ đề tâm, có nghĩa là tâm thức tỉnh.
(Xem: 1275)
Vào thế kỷ trước khi Đức Phật đản sinh, vùng đông bắc Ấn Độ đã trải qua những biến đổi sâu rộng làm định hình lại địa chính trị của khu vực một cách sâu sắc.
(Xem: 1381)
Tâm trí của Đức Phật được gọi là bồ đề tâm, nghĩa đen là “tâm giác ngộ”. Bồ đề tâm có hai khía cạnh
(Xem: 1334)
Hệ thống kinh điển trí huệ (bát nhã) tánh Không thường được xếp thành ba phạm trù: Văn tự Bát nhã, Quán chiếu Bát nhã, và Thật tướng Bát nhã.
(Xem: 1478)
Tăng đoàn thời Đức Phật còn tại thế không những có hai giai cấp quyền quý tại Ấn ĐộBà La Môn như: Xá Lợi Phất, Mục Kiền Liên, Đại Ca Diếp,…
(Xem: 1355)
Lịch sử truyền thừa của Ni giới ở một số bộ phái Phật giáo nói chung mãi đến hôm nay vẫn còn nhiều vấn đề chưa thể lý giải trọn vẹn.
(Xem: 1208)
Thiện ngữ là nói lời lành, chân thật, nhẹ nhàng, xây dựng, đoàn kết, yêu thương.
(Xem: 1267)
Cuộc sống rất ngắn ngủi, vì thế hãy phá bỏ cái tôi ngớ ngẩn của mình, nhanh chóng tha thứ, tin tưởng yêu thương thật lòng
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant