Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Nơi dòng sông đi qua

24 Tháng Giêng 201100:00(Xem: 16782)
Nơi dòng sông đi qua

Con sông hiền hòa chảy qua bao miền thâm u của miền Trung du Ấn Độ mà dòng lịch sử dung rũi đã cho nó khoát lên mình một sứ mạng thiêng liêng cao cả. Con sông Ni Liên Thiền, tên gọi đó đã gắn liền với sự chứng đắc của một bực Thánh nhân xuất thế - Thái tử Tất-đạt-đa, Người đã đến bên dòng sông này sau sáu năm tu khổ hạnh. Và cuộc đời của một dòng sông bắt đầu có tiếng nói riêng từ dạo ấy.

Vậy là hơn hai mươi lăm thế kỷ trôi qua rồi. Chừng ấy thời gian với biết bao biến chuyển thay đổi của dòng đời, mà vết tích của một con sông vẫn còn đó đủ để khơi dậy niềm tin và hướng đến cho mỗi ý tưởng và bước chân người tìm tới. Rồi một lần nào đó, con sông đã kể lại sự kiện mà nó từng là chứng nhân đặc biệt trong suốt thời kỳ Chánh pháp hiện hữu tại thế gian.


Vào ngày cuối Đông, cuộc sống thâm trầm và tẻ nhạt của những cư dân sống quanh ven rừng bỗng nhiên sôi động hẳn lên. Mọi người kháo với nhau:

“Bên dòng sông Ni Liên Thiền đang nở đầy hoa… đủ sắc đủ màu trông đẹp lắm!” Hoa rừng nở không có gì lạ. Song lúc này là mùa Đông, ở xứ Ưu-lâu-tần-loa này đang hứng chịu trận bão tuyết kéo dài. Đất đai co rúm cơ hồ để được ngũ yên mà chờ đợi cho qua mùa băng giá. Cây cối chỉ còn lại vài cành khẳng khiu khô khốc, màu xanh của lá của hoa lúc này nếu có cũng bị bao phủ hết bởi lớp băng dày đặc.

Ấy vậy mà… họ bảo có cả muôn loại chim cùng hát vang nơi khu rừng ấy nữa. Ồ! Chim ở đây về mùa Đông, chúng thường bay về phương Nam tìm nơi ấm áp hơn để trú ẩn. Hoa nở chim hót, quả là một điều chưa từng thấy ở xứ sở mang đầy tính chất kỳ bí pha trộn của mọi thứ tôn giáo. Rồi cũng có ai đó lên tiếng trước: “Thái tử Tất-đạt-đa vừa chứng đạo bên khu rừng ấy, nên mới có điềm lành xuất hiện.”

Những người dân lam lủ nhưng lại rất thông thái về các hiện tượng tâm linh huyền bí. Họ kể cho nhau nghe về cuộc đờicon đường tu tập của một vị Thái tử tu hành vừa đắc quả và cả lời tiên đoán của vị tiên A-tư-đà năm xưa khi Thái tử vừa ra đời nơi xứ Ca-tì-la-vệ xa xôi nào đó. Dòng sông yên lặng nghe họ nói chuyện. Không ai nghĩ hoặc biết được chính nó là kẻ duy nhất chứng kiến toàn bộ quá trình tu tậpchứng đắc của Thái tử. Mấy năm trước, Thái tử Tất-đạt-đa đã tìm đến bên dòng sông vắng vẻ này, sau nhiều lần tầm sư học đạo nhưng không nhận thấy pháp tu nào có thể đưa đến một chân trời an lạc giải thoát toàn mỹ.

Vì thế, dòng sông cảm thấy mình thật diễm phúc khi được Thái tử chọn làm điểm dừng chân cuối cùng cho giai đoạn tiến tu, đắc đạo:

Ở nơi đây Người đã tới,
Dòng sông thôi yên lặng với tháng ngày
Ở nơi đây Người đã thấy
Vầng trăng thanh soi sáng bấy đêm dài.

Vai trò của dòng sông chỉ có thế thôi và nó chẳng mong cầu gì hơn nữa. Trước khi dòng chảy này đổ vào con sông Hằng bao la huyền bí, nó đã đi qua bao khu rừng yên tịnh, nhiều đất nước mênh mông trù phú và những làng mạc nghèo khổ xa xôi. Để rồi một hôm, sông chợt thấy mặt đất như tỏa sáng hơn, chim chóc các nơi kéo về làm tổ nhiều hơn. Dòng sông nhìn thấy bóng vị Sa môn ngồi tư duy tịnh niệm bên dưới một gốc cây cao tỏa bóng. Ở đây cũng từng đón nhận nhiều Sa môn khác đến tu tập, chắc hẳn bởi không khí trong lành nằm bên dòng sông hiền hòa quanh năm quạnh vắng.

Nhưng với vị Sa môn khổ hạnh này, sông cảm nhận ra sự khác biệt hơn hết với những ai đã từng đến đây. Cũng vóc dáng gầy khô trong mảnh y vàng bạc thếch, nhưng sắc tướng tỏa sáng như trăng rằm, nội tâm tỉnh lặng thông thái đến diệu kỳ. Người tu tập mỗi ngày đứng lên, đi lại đôi phút và chỉ ăn vài hạt đậu mè của chim rừng tha về vương vãi bên các gốc cây. Đã sáu năm rồi, Sa môn Cù-đàm – Dân làng vẫn gọi như vậy – chưa lần bước đến bên dòng sông, hoặc giả như có nhìn qua con sông hay các vật thể nào khác thì cũng chỉ nhìn mà thôi, trong khi cõi lòng Người đang bận dõi tìm bao ý hướng diệu mầu, một con đường thiết thực thoát khổ cho muôn loài.

Sáu năm ròng rã chuyên tâm tu khổ hạnh như vậy, Sa môn đuối sức dần. Một hôm, Sông thấy Người ngất đi bên bìa rừng. Nó vội lớn tiếng gọi nhưng chỉ nghe tiếng xào xạc của lá cây rừng xung quanh đáp lại, cùng với tiếng của dòng sông chảy miên man tuôn mãi giữa chốn đại ngàn. Bỗng một cô gái chăn cừu đã nghe tiếng dòng sông hay chỉ tình cờ đi ngang qua nhìn thấy, liền chạy đến bên Người. Cô vội lấy bát đi xuống sông rửa sạch, vắt lấy sữa cừu, sau đó đổ vài giọt sữa vào miệng Sa môn. Người tỉnh dần rồi mở mắt ra nhìn. Cô gái lúc này - vì thuộc dòng tộc thấp kém hơn – nên đặt bát sữa từ xa để dâng cúng cho Sa môn.

Nhờ bát sữa Sa môn Cù-đàm hồi phục sức lực nhanh chóng. Dùng xong, Người đặt bát nơi gốc cây và thầm chú nguyện cho cô gái chăn cừu. Lúc này mặt trời dần ngã bóng về Tây, mọi vật hối hả trước khi cảnh chiều đông buông xuống. Ngắm nhìn hoàng hôn bên dòng sông giây lát, Người bèn lội xuống tắm rửa. Dòng sông trong xanh mang hương vị nồng dịu của muôn thứ cỏ hoa khô đọng lại, càng làm cho Người sảng khoái minh mẫn. Sau khi bước lên khỏi dòng sông, Người đã nhận ra chân lý diệu mầu, và cần trải nghiệm thêm một giai đoạn ngắn nữa để chứng thực. Quán xét lại sự tu tập của mình lâu nay, Sa môn đã nhận được một điều chính yếu: Không thể có sự chứng ngộ trong một thân thể gầy mòn mệt mỏi cùng tâm hồn khô cứng như sỏi đá. Con đường trung đạo là bước khởi đầu để vươn tới một chân trời an lạc tự tại, giải thoát. Chính nơi dòng sông này, Người đã gội rữa hết mọi trần cấu bám chặt lâu nay. Con đường chứng đạo sẽ tìm ra trước khi ánh bình minh tỏa rạng.

“Ôi Người đã đến đây tắm rửa, Ta chờ đợi điều này biết bao – Dòng sông vui mừng reo lên và còn tỏa ra đôi chút tự hào – Có thể nay mai Người sẽ chứng ngộ, Ta sẽ là con sông hân hạnh được người đời nhắc nhỡ đến như là di tích đầu tiên của bực Đại giác trước khi đắc đạo.”

Lúc này không chỉ có dòng sông reo vui, mà hoa cỏ trong khu rừng cũng nở mầm tươi tắn hẳn lên, muôn loài chim thú hớn hở tụ tập quanh cội Bồ-đề xum xuê cành lá. Tất cả đang hướng lòng mình đến nơi Thái tử Tất-đạt-đa đang ngồi tĩnh tọa, chờ đợi những giây phút diệu kỳ sắp xảy ra.

Đêm về khuya cảnh vật chìm trong tĩnh lặng. Qua màn sương dày đặc của núi rừng, người ta vẫn cảm nhận ra một sức sống rất kỳ diệu, mênh mông lan tỏa khắp cùng vũ trụ nhân sinh. Thái tử Tất-đạt-đa vừa trải qua vòng tranh luận với nội tâm, khắc phục hết ma chướng. Từng bước… từng bước bức màn vô minh được Người vén mở dần ra, để lộ cả khoảng trời trong xanh vô tận. Từng đợt sóng trần trôi qua rồi vụt tan biến nhanh như chưa từng hiện hữu trong tâm trí rạng chiếu của Bậc giác ngộ. Một thân xác tự tại trong một trạng thái an nhiên tạo thành vừng hào quang sáng rực nơi Phật ngồi. Có cả ánh sáng của chư Thiên, Long, Thần, Thổ địa hiện đến từ chập tối hầu cận và cũng muốn tận cảm bao điều kỳ thú của Bậc toàn chân toàn giác.

Đêm ấy, dòng sông cũng ngưng mọi bước phiêu du của mình để được chiêm nghiệm cái thời khắc quan trọng đáng nhớ ấy. Một cơn gió thoảng, một chiếc lá rơi cũng trở nên sinh độngý nhị hơn mọi ngày. Bậc Đại giác đã chứng ngộ, một vị Phật đã ra đời. Thế gian tăm tối rồi đây sẽ được tận hưởng mọi ánh sáng của ánh đạo từ bi, trí huệ. Cuộc đời khổ đau bởi mãi lo tranh chấp vị kỷ, bởi những ham mê tham luyến, rồi sẽ được tắm mình trong dòng nước thuần lương đạo vị. Không gian mở rộngthời gian như dừng hẳn lại dưới chân bậc Đại giác, mọi cảnh vật cũng trở nên vi diệu, thâm trầm và sắc nét hơn.

Trước khi ánh ban mai đánh thức muôn loài, thì Sa môn Cù-đàm hoàn toàn chứng ngộ đạo quả xuất thế. Người rời khỏi gốc Bồ-đề, rời khỏi khu rừng thiêng yên tịnh để tìm về với phố thị xóm làng. Trước tiên, Phật đi đến vườn Lộc Uyển chuyển Pháp luân vô thượng. Sau đó trong suốt mấy mươi năm hành đạo, Người thuyết pháp độ sanh, cứu khổ hằng muôn triệu mảnh đời chìm đắm trong bể ái sông mê. Cho đến ngày trở về nơi cõi Niết-bàn tịch diệt, Phật không một lần trở lại nơi mình thành đạo trước kia. Gốc Bồ đề, con sông Ni Liên Thiền trầm lặng trở lại với tháng năm đời thường, sau khi hoàn thành vai trò lịch sử có một không hai của mình.

Dòng sông mang dòng chảy đi về nơi vô tận của biển trời, tưởng chừng như mọi việc đã trôi theo miền dĩ vãng xa xưa. Trải qua một thời gian lâu xa là vậy, mà con sông bên khu rừng Khổ Hạnh vẫn không khác mấy so với mấy ngàn năm trước. Và vì mang bên mình một giai thoại đặc biệt khi Phật còn tại thế, nên nhân loại đã không hề bỏ quên nó. Một nơi từng lưu bóng đức Tôn sư, có lúc chìm theo vận thế bôn ba thăng trầm. Thế rồi hơn hai ngàn năm sau, chính con người đã khơi thông lại nguồn chảy của nó, và trên lộ trình đi tìm dấu chân xưa, không ít người cứ đứng lặng mãi khi nhìn dòng nước lững lờ trôi mà cảm nhận bao sức sống diệu mầu đang tuôn vào tâm thức.

Một lần nữa, dòng sông êm ả lại cất lên tiếng nói của mình. Tiếng nói từ ngàn xưa vọng mãi đến ngàn sau, tiếng nói phát ra từ một chân lý đã trở thành bất diệtthế gian. Cho dù năm tháng có tàn phá hết mọi chứng tích, cho dù trò đời nhân ngã có làm phai nhạt niềm tin và hướng tới; nhưng dòng sông vẫn còn đó, để cho những nơi nó đi qua vẫn thấm đậm chất phù sa, làm thơm ngát mọi nẻo về chân thiện mỹ. Nơi dòng sông đi qua... còn in đậm dấu chân của Bậc giác ngộ đã trở thành một nơi chốn bình yên vĩnh cữu. ■

Nguồn: Tập San Pháp Luân 25


Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 1552)
Khi giác hạnh đã viên mãn thì thọ mệnh Đức Phật tuổi đã bát tuần (80).
(Xem: 1634)
Giới luật là nền tảng căn bản của đạo giải thoát. Người tu nếu không tuân giữ đúng theo giới luật mà Phật đã răn cấm, thì ...
(Xem: 1480)
Thông thường, người thực hành đạo Phật tìm cách tránh thoát cái vô thường, cái sanh diệt để chứng nhập cái không vô thường, cái không sanh không diệt.
(Xem: 1766)
Ở đời có người quan niệm rằng, mình sống làm người, sau khi chết mình cũng sẽ tái sinh làm người ở một cõi nào đó, thậm chí có người còn nghĩ mình về sống dưới suối vàng.
(Xem: 1731)
Con người thường có quan điểm: “mạng sống, sự sống của con ngườivô giá, là giá trị nhất so với sự sống của muôn ngàn loài khác”
(Xem: 1595)
Khi chúng ta thức dậy vào buổi sáng và nghe radio hoặc đọc báo, chúng ta phải đối mặt với những tin buồn: bạo lực, tội ác, chiến tranh và thiên tai.
(Xem: 1635)
Tham luận “The Way to World Peace via an Integrated Kantian and Buddhist Perspective” được tác già trình bày tại Diễn Đàn Phật Giáo
(Xem: 1475)
Xuyên qua các nguyên tắc để tạo điều kiện hưng thịnh cho một quốc giathiết lập một xã hội thanh bình, đức Phật cũng có những bài thuyết pháp rất rõ ràng về các lãnh vực chính trị, chiến tranh, hòa bình, điểm này đã được phổ cập hóa trong cộng đồng xã hội. Đức Phật luôn chủ trương bất bạo động, xóa bỏ hận thù, tái lập tình thươngkiến thiết hòa bình chân chánh.
(Xem: 1869)
Bản Ngã Càng Lớn, Sĩ Diện Càng Nhiều, Càng Dễ Bị Tổn Thương.
(Xem: 1630)
Thân mạng chúng tachúng ta không biết yêu thương thì làm sao chúng ta có đủ yêu thương để gửi đến người khác.
(Xem: 1415)
Mỗ là quan chức thường thường bậc trung, tuy chưa phải là đại gia nhưng cũng có thể gọi là gìau sang có máu mặt.
(Xem: 1703)
Trong rất nhiều phương pháp tu tập thì phòng hộ các căn (bảo vệ các giác quan) được Đức Phật giảng dạy rất chi tiết.
(Xem: 2267)
Quán tưởngphương pháp Phật tử áp dụng hằng ngày, luyện cả thân tâm, đem lại sự hòa hợp giữa tinh thầnvật chất, giữa con ngườithiên nhiên.
(Xem: 1949)
Hành động phản ánh được ý thức, tính cách của mỗi người, lời nói, suy nghĩ thế nào sẽ biểu hiện ra hành động như thế đó,
(Xem: 1316)
Hôm ra mắt đợt đầu 29 cuốn của Thanh Văn Tạng trong công trình phiên dịch Đại Tạng Kinh Việt Nam do Hội Đồng Hoằng PhápHội Đồng Phiên Dịch Tam Tạng Lâm Thời tổ chức tại Little Saigon, Miền Nam California, Hoa Kỳ, vào ngày 19 tháng 3 năm 2023
(Xem: 1486)
Đạo Phật được biết đến như một tôn giáo hiền hòa nhất và điều đặc biệtcuộc đời vị lãnh đạo tinh thần tối cao của đạo Phật gắn liền với những cái cây.
(Xem: 1490)
Là một tiến trình tự nhiên của con người và muôn loài, bệnh vốn là một giai đoạn của vòng luân hồi sanh tử, là một phần của quy luật thành - trụ - hoại - không.
(Xem: 1829)
Dĩ nhiên là người phàm chúng ta không ai thấy được địa ngục, trừ Đức Phật và các bậc Thánh La-hán.
(Xem: 1602)
ghiệp là tất cả những hành động có tác ý, biểu hiện thường xuyên bằng thân, khẩu, hay ý.
(Xem: 1469)
Phật giáo không chỉ chủ trương từ bi đối với con người, tôn trọng đối với mọi sinh mệnh mà còn phải bảo vệ môi trường sống thiên nhiên,
(Xem: 1610)
Thật sự chúng ta chỉ có một trách nhiệm, tìm đọc và tìm hiểu những lời Phật dạy thật sự là những lời dạy của đức Phật,
(Xem: 1547)
Trước đây, vào thời niên thiếu, tôi chưa từng tín ngưỡng bất kỳ một tôn giáo nào. Tôi đang đứng giữa ngã tư đường, không Phật cũng không Đạo.
(Xem: 1871)
Mỗi người trong chúng ta, ai cũng có một cái “Tôi” và tính chấp thủ, nhưng có người ý thứcquán chiếu được điều đó
(Xem: 1570)
Cửa vào bất nhị, còn gọi là pháp môn bất nhị, từ xa xưa đã được truyền dạy từ thời Đức Phật, chứ không phải là hậu tác của chư tổ Bắc Tông,
(Xem: 1556)
Nhưng giới khoa học vẫn còn hoang mang trong nhận định thế giới vật chất đời thường là ảo, không có thực thể.
(Xem: 1550)
quan niệm rằng người có danh phận, giàu sang là do phước và cúng dường, hộ trì người có phước thì được phước nhiều hơn?
(Xem: 1624)
Hai từ chiến tranh, không ai trong chúng ta là không nghe đến. Trong quá khứ đã có rất nhiều cuộc chiến tranh xảy ra trên quả địa cầu nầy,
(Xem: 1798)
Kinh Thủ Lăng Nghiêm có tên gọi đầy đủ là :"Kinh Đại Phật Đảnh Như Lai Mật Nhân Tu Chứng Liễu Nghĩa Chư Bồ Tát Vạn Hạnh Thủ Lăng Nghiêm",
(Xem: 1688)
Tôi nhớ lần nào gặp Đại sư cũng thấy Ngài mặt mày hồng hào, tinh thần khang kiện.
(Xem: 1637)
Trong rất nhiều phương pháp tu tập thì phương pháp phòng hộ các căn môn được Đức Phật giảng dạy rất chi tiết.
(Xem: 1527)
Kể từ khi con người biết xử dụng tiền bạc làm đơn vị trao đổi mua sắm đến nay, thì không ai là không cần đến tiền!
(Xem: 1622)
Đối trong nhà Phật thì thế gian gồm có khí thế gianchúng sanh thế gian.
(Xem: 1401)
Đây là một trường hợpThiền sư Thích Nhất Hạnhcộng đồng của Thầy đã thay đổi cuộc đời của một người.
(Xem: 2128)
Tam tam-muội là chỉ cho ba loại định, tức là ba loại pháp môn quán hành của Phật giáo, được xem như là nguyên lý thực tiễn của Thiền định. Định có nghĩa là tâm hành giả trụ vào một đối tượng nào đó khiến cho ý không bị tán loạn, dần dần tâm ý trở nên trong sáng và phát sinh trí tuệ.
(Xem: 1437)
Đời tôi gần giống như cuộc đời của cậu bé mồ côi ở Viện Dục Anh trong văn Vũ Trọng Phụng. Chúng tôi đều sinh ra dưới một ngôi sao xấu. Từ những ngày còn bé tôi đã không có một cái gì để gọi là riêng tư. Đời tôi gắn liền với tập thể, lớn lên và nương tựa vào tập thể.
(Xem: 1647)
Để giúp người Phật tửđời sống đạo hạnh, đức Thế Tôn đưa ra năm giới căn bản.
(Xem: 3074)
Tinh thần hòa hiệp là ý nghĩa sống lành mạnh an vui, tinh thần của một khối người biết tôn trọng ý niệm tự tồn, và xây dựng vươn cao trong ý chí hướng thượng.
(Xem: 1656)
Khi con gái tôi còn nhỏ, tôi vẫn thường đưa con đến chùa lễ Phật, học tiếng Việt, sinh hoạt văn hóa Việt…
(Xem: 1833)
Điều phi đạo là những việc dẫn đến sự hao tài, thứ nhất đó là đam mê cờ bạc.
(Xem: 1698)
Chu Lợi Bàn ĐặcMa Ha là hai anh em sinh đôi sinh ra trong một gia đình Bà la môn ở thành Xá Vệ (Sravasti - Ấn Độ).
(Xem: 2159)
Nếu có ai đó hỏi Phật Pháp có gì hay thì những người đệ tử Phật sẽ trả lời như thế nào?
(Xem: 1697)
Thiền phái Trúc Lâm Yên Tử do Phật Hoàng Trần Nhân Tông khai sáng trong khoảng cuối thế kỷ 13.
(Xem: 1882)
Thiền phái Trúc Lâm Yên Tử do Phật Hoàng Trần Nhân Tông khai sáng trong khoảng cuối thế kỷ 13.
(Xem: 2101)
Trong suốt cả Pháp Bảo Đàn Kinh, là những lời dạy của Lục Tổ, ngài chỉ hai lần nói đến hai chữ “từ bi”:
(Xem: 2281)
Thông thường, người ta thường nghĩ “làm phước” là phải làm điều gì đó to lớn, mang tính cho và nhận bằng những vật phẩm...
(Xem: 1781)
Từ góc độ văn hóa có thể thấy ở Phật giáo Việt Nam nói chung và Thiền phái Lâm tế Chúc Thánh nói riêng, có những giá trị văn hóa tiêu biểu
(Xem: 2727)
Đối với người thế gian, tài sản quý giá nhất của họ chính là gia đình, của cải vật chất, công danh sự nghiệp, nhưng với người xuất gia thì đó là trí tuệ.
(Xem: 1811)
Phàm có sinh thì có tử, đó là lẽ thường trong cuộc đời. Vạn sự vạn vật đều vận hành theo quy luật sinh ra, tồn tại, thay đổi, hoại diệt (gọi là sinh, trụ, dị, diệt)
(Xem: 1949)
Nguyễn Du không những là một thi hào lớn của Việt Nam mà còn là nhà Phật học uyên bác. Ông từng viết trong bài thơ “Chiêu Minh Thái Tử Phân Kinh Thạch Đài” lúc đi sứ sang Tàu vào triều Nguyễn, đầu thế kỷ 19 rằng,
(Xem: 1914)
Việc chọn “ngày lành tháng tốt” để tiến hành những công việc hệ trọng trong đời sống của người Việt, được biết bắt nguồn từ thói quen do ảnh hưởng văn hóa, tập tục cổ xưa
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant