BÓNG
ÁO NÂU
TẬP
SÁCH VỀ CUỘC ĐỜI THƯỢNG TỌA THÍCH CHƠN THANH
Phần II:
Truyện ký Bóng áo nâu
Ðồng
tác giả:
Thu
Nguyệt - Ðỗ Thiền Ðăng - Thiện Bảo
Chùa
quê
Ngôi
chùa nhỏ nằm khiêm tốn trong khoảng đất rộng đầy cây
trái. Buổi tối, mùi nhang tỏa ra từ chánh điện hòa với
mùi thơm trái chín đâu đó trong vườn. Buổi sáng, tiếng
chuông mõ công phu bình dị hòa cùng tiếng gà gáy sáng. Chùa
Hải Huệ chỉ như một ngôi nhà lớn trong xóm, không mấy
cách biệt, do vậy bà con trong ấp Mỹ Hưng Hòa hằng ngày
lui tới với chùa rất tự nhiên, thân thiện. Ni sư trụ trì
rất hiền lành, chất phác, nhu thuận. Không như ở thành thị,
cứ thấy chùa to Phật lớn, quang cảnh đẹp là mọi người
kéo nhau tới lễ bái, ít ai quan tâm tới chư tăng ở chùa
ấy ra sao. Ở quê, mọi sinh hoạt trong chùa cả xóm đều biết.
Chùa nào thầy trụ trì đức độ hiền lành là mọi người
theo. Chùa ở quê rất nghèo, không có tiền nhưng đồ ăn thức
uống thì dư giả. Mùa nào thức đó: mùa xoài thì chánh điện
tràn ngập xoài, mùa nhãn thì vừa đến cổng chùa đã như
bước vào vườn nhãn. Nhiều nhất quanh năm là chuối. Những
ngày rảnh, Bé thường cùng mẹ lên chùa phụ quí cô ép chuối
phơi khô. Chuối khô chất đầy trên mấy cái gióng tre treo
trong nhà bếp, lâu lâu có lái buôn, chùa phải gởi đi bán
bớt để lấy tiền mua nhang, mua dầu lửa thắp đèn. Người
nào lên chùa cũng chỉ dâng cúng cây trái nhà mình. Cô trụ
trì cứ nhìn những thứ trên tay họ mà hỏi thăm về vườn
tược, thu hoạch, đời sống của họ. Chỉ đơn giản thế
thôi nhưng tình nghĩa vô cùng ấm áp. Nhà có việc gì họ
cũng kể cô nghe, từ việc mẹ chồng nàng dâu cho đến việc
xích mích hàng xóm. Cô sống ở chùa từ nhỏ nên cũng chẳng
hiểu biết việc đời nhiều, nhưng cứ phải sắm vai nhà
tư vấn tâm lý giáo dục để khuyên nhủ mọi người. Những
lời khuyên cứ khuyên đi rồi khuyên lại, quanh quẩn bao nhiêu
đó nhưng cũng tạm an lòng đôi chút. Lạ vậy, cũng những
lời nói ấy, nhưng nếu người này nói thì ta cho là sáo ngữ,
hoặc “biết rồi khổ lắm nói mãi...!” nhưng nếu người
khác nói thì ta lại thấy chí lý. Cái đức, cái duyên là
vậy.
Chùa
quê những năm chiến tranh này không tổ chức lễ bái rình
rang, nhưng người quê đi chùa chăm chỉ. Họ cầu an cầu siêu
rất thiết tha. Trước tượng Quan Âm lúc nào cũng khói hương
thành khẩn. Người quê tin vào Phật, Trời, Thần, Thánh một
cách hồn nhiên, họ đâu cần biết Phật nói điều gì, trời
như thế nào, thần thánh ra sao, chỉ nghĩ đơn giản rằng
“đội ngũ cõi trên” ấy là điểm tựa cuối cùng của
họ. Qui y Phật, qui y Tăng là chính, còn đối với giáo pháp
cao sâu họ chưa đủ điều kiện tiếp nhận. Tuy vậy, với
Phật, với Tăng họ đem hết lòng tin kính, có lẽ nhờ phước
báu ấy mà đa số những bậc cao tăng thường được
sinh ra ở các vùng quê. Và chùa quê là cái nôi giản đơn,
mộc mạc đã nuôi lớn biết bao ý chí thanh cao thuần khiết.
Mẹ
của Bé thường lên chùa làm công quả, dù không biết chữ,
nhưng giờ tụng kinh, bà rất thành khẩn lên chánh điện
quì, đợi tiếng chuông là cúi đầu lạy Phật. Chùa không
có tổ chức thuyết pháp, lên chùa chỉ nghe tiếng tụng kinh,
mà kinh thì đa số bằng tiếng Phạn, tiếng Hán khó hiểu,
vậy mà theo tiếng mõ tiếng chuông, tâm hồn những người
dân quê cũng men ven đường Chánh Pháp.
Ngày
rằm, mùng một, cả nhà Bé đều đi chùa, phụ cô Sáu nấu
nướng, dọn dẹp. Ni sư trụ trì rất mến Bé vì không như
những đứa trẻ khác, bao giờ lên chùa chú cũng rất trang
nghiêm, không leo trèo, phá phách, nghịch ngợm hay cười đùa
lớn tiếng. Trái lại, chú rất siêng năng, thành kính
lễ Phật, tụng kinh chăm chỉ. Nhìn dáng chú đứng chắp tay
thành kính trước tượng Phật, cô thầm đoán trong đầu:
thế nào cậu bé này cũng xuất gia. Cái duyên với Phật lộ
rõ: mỗi lần đến chùa là chú cứ loanh quanh dọn dẹp lau
chùi, phủi bụi xung quanh bệ Phật. Chú làm rất say sưa tỉ
mỉ. Một chút bụi dính trong kẻ móng chân của tượng, chú
cũng chồm người nhón chân lên lau thật kỹ. Có lần, cô
bắt gặp chú đứng nhìn ngắm rất say sưa tượng đức Di
Ðà, cô hỏi:
- Con
nhìn gì kỹ vậy?
Chú
cười bẽn lẽn:
- Sao
con thấy thương ông Phật quá. Con muốn nữa mình cũng thành
ông Phật giống ổng.
Cô
bật cười:
- Vậy
con xin má cho đi tu đi. Tu rồi sẽ thành ông Phật như vậy.
Chú
phụng phịu:
- Bữa hổm con có hỏi rồi, nhưng má hổng cho. Má nói con còn
nhỏ, chùa hổng có chứa.
- Chứa
chớ – Chợt thấy mình lỡ lời, cô dịu giọng – ờ, con
cũng còn nhỏ, thôi đợi lớn lên chút nữa hen.
Cô
xoa đầu chú, trong ánh mắt không giấu được một nét vui,
kỳ vọng và tin tưởng.
An
cư kiết hạ
nguồn
sinh lực của tăng già
An
cư kiết hạ là một thông lệ từ lâu của các đạo sĩ Ấn
Độ khi tăng đoàn Phật giáo hãy còn chưa xuất hiện. Thời
tiết Ấn Độ có vẻ khác hơn Việt Nam hay Trung Quốc cũng
như các quốc gia khác: Từ tháng một đến tháng tư là mùa
xuân, từ tháng chín đến tháng mười hai là mùa đông. Ấn
Độ không có mùa thu. Một năm chia làm ba mùa rõ rệt như
thế, nên các đạo sĩ qui định vào những tháng mưa gió nên
an trú một nơi nhất định để bảo tồn sức khoẻ và tăng
cường đạo lực. Giáo đoàn Phật giáo hợp thức hoá thông
lệ này bắt đầu từ Lục quần Tỳ kheo (sáu thầy tỳ kheo
chuyên gia khai duyên cho Phật chế giới). Suốt mấy tháng mùa
mưa, nhóm sáu thầy tỳ kheo này lang thang du hoá khắp nơi không
kể gì mưa gió, đạp dẫm lên hoa cỏ mùa màng mới đâm chồi
hay những loài côn trùng vừa sanh nở. Cư sĩ chê trách hàng
sa môn Thích tử thật quá đáng, các đạo sĩ khác vẫn có
những tháng sống cố định, ngay đến loài cầm thú vẫn
có mùa trú ẩn của nó, còn các vị hành đạo này thì luông
tuồng không biết nghỉ chân vào mùa nào cả. Lúc ấy, đức
Phật ở tại nước Xá Vệ, trong thành Cấp Cô Độc, biết
được sự việc xảy ra liền ban hành quyết định cấm túc
an cư cho toàn thể tăng đoàn trong các tháng đầu mùa mưa,
tức từ mồng một trăng tròn của tháng A-sa-đà đến hết
trăng tròn của tháng A-thấp-phược-đê-xà (Theo ngài Huyền
Trang là nhằm 16 tháng 5 của Trung Quốc, sau vì muốn lấy ngày
rằm tháng bảy Vu Lan làm ngày Tự tứ nên chọn ngày An cư
là 16 tháng 4). Phật giáo Việt Nam cũng tuân theo nguyên tắc
này nhưng thời gian có khác một chút. Nghĩa là thời tiết
Việt Nam tuy thể hiện rõ rệt chỉ có hai mùa nắng và mùa
mưa, nhưng vẫn qui định theo bốn mùa như Trung Quốc: xuân,
hạ, thu, đông. Như vậy thời điểm để tu sĩ Phật giáo
Việt Nam an cư là bắt đầu từ ngày rằm tháng 4 đến rằm
tháng 7 (mùa hạ), đó gọi là tiền an cư. Hậu an cư là dành
cho trường hợp đặc biệt, có duyên sự khẩn thiết thì
có thể bắt đầu an cư từ 17 - 4 cho đến 17 - 5, và kết
thúc dĩ nhiên cũng phải đủ 90 ngày như tiền an cư (cùng
làm lễ Tự tứ, nhưng phải ở lại cho đủ số ngày). Riêng
hệ phái Nguyên Thuỷ chọn thời điểm kiết hạ vào ngày
rằm tháng 6 cho đến ngày rằm tháng 9. Tuỳ theo quốc độ,
địa phương mà có những mùa an cư không hoàn toàn giống
nhau, ở Việt Nam, một vài nơi còn có thêm kiết đông bắt
đầu từ rằm tháng 9 đến rằm tháng 12 là dựa theo tinh thần
của Luật Bồ Tát.
Vì
sao lại phát sinnh thêm kiết đông thay vì chỉ có kiết hạ?
Có phải an cư là thời gian để tăng già tích luỹ nguốn
sinh lực hay không?
Hàng
xuất gia trong giáo đoàn Phật giáo bao giờ cũng tâm niệm
hai nhiệm vụ cần phải sớm thành tựu: thượng cầu Phật
đạo và hạ hóa chúng sanh. Song lộ trình tiến đến quả
vị Phật hay Thánh quả thật gian truân cách trở, không phải
là vấn đề một sớm một chiều hay một kiếp. Vì vậy việc
tự lợi là một nhu cầu cần thiết cho bất cứ một hành
giả nào còn vương mang pháp hữu lậu, chưa có phần dự vào
dòng Thánh. Nếu như thời gian dành cho việc đi lại bên ngoài
quá nhiều, mà căn bản phiền não vẫn còn sâu kín bên trong
thì kết quả hoàn toàn sai với tinh thần hóa độ của đức
Phật. Người bị trói tất nhiên không bao giờ cởi trói được
cho người khác. Người có thật nhiều hạnh phúc, vượt lên
trên những khổ đau triền phược mới có thể đưa người
ra khỏi dòng tục bến mê. Hóa độ thì xem như chia phần,
bớt đi. Mặc dù một ngọn đèn có thể thắp sáng hàng trăm
nghìn ngọn đèn khác. Song một khi ngọn đèn ra trước gió,
thì sự an nguy cũng giống như một người hành đạo chưa
liễu đạo mà phải đương đầu với ngũ dục trần lao. Thế
mới biết, an cư là thời gian quý báu để người tu hành
có điều kiện nhìn lại chính mình, soi thấu bệnh tật phiền
não hoặc mới huân tập hoặc lâu đời mà đoạn trừ, trị
liệu. Ngoài ra việc tránh ngộ sát côn trùng hay không ảnh
hưởng mùa màng của người thế tục cũng là một duyên cớ
để trưởng dưỡng lòng từ bi. Song lý do trước mới là
tinh thần chính yếu của việc cấm túc an cư.
Bộ
Luật Tư Trì Ký định nghĩa: Lập tâm một chỗ gọi là Kiết;
bộ Nghiệp Sớ định nghĩa: Thu thúc thân vào chỗ tịch tĩnh
gọi là An. Như vậy dù kiết hạ hay kiết đông an cư thì
mục đích chính vẫn là thúc liễm thân tâm, trau dồi giới
đức. Tỳ kheo hay tỳ kheo ni nào không quan tâm đến việc
tu tập thiền định để bồi dưỡng trí tuệ thì thật không
xứng đáng là bậc mô phạm tỉnh thức. Sự khắc khe này
cũng chỉ vì đức Phật muốn bảo hộ sức sống của tăng-già
bằng việc triển khai năng lực tu tập của mỗi cá nhân.
Nếu ai trong hàng xuất gia đệ tử Phật không tôn kính vâng
giữ lời huấn thị của đức Phật, xem an cư là một điều
bó buộc, một phương tiện nhỏ nhặt thì quả thật người
ấy không những tự chối bỏ phần tự lợi mà gây ảnh hưởng
không tốt cho tăng đoàn. Cũng như bác nông phu mỗi năm phải
làm ruộng, nếu năm nào bỏ bê không chăm lo đến mùa màng
thì bác sẽ bị nghèo nàn đói thiếu. Hàng Bí Sô nếu không
có những ngày tháng cùng sinh hoạt cộng trú để sách tấn
lẫn nhau thì làm sao có điều kiện để tạo thành năng lực
hoà hợp và kiểm chứng giá trị thanh tịnh? Kết thúc khoá
an cư là Tự Tứ, một hình thức tối quan trọng để tổng
kết quá trình tu tập tiến triển hay lui sụt của từng cá
nhân qua ba tiêu chuẩn: thấy, nghe, nghi. Những ai vượt ra khỏi
phạm vi giới luật, buông lung theo ba nghiệp, hành động theo
bản năng cố hữu thì sẽ bị cử tội giữa đại chúng để
bổ khuyết sửa chữa.
Một
lần, sau mùa an cư các thầy tỳ kheo lần lượt về vấn an
đức Phật và trình bày công phu tu tập của mình. Đức Phật
hỏi:
- Vừa
qua các ông có được an lạc không?
- Thưa
an lạc lắm ạ!
- Thế
trong ba tháng ấy các ông tu tập pháp gì?
Các
thầy tỳ kheo vui vẻ trả lời:
- Bạch
Thế Tôn, chúng con thực hành pháp tịnh khẩu, tự mỗi người
giữ im lặng tuyệt đối.
- Đức
Phật quở trách:
- Các
ông thật vô trí, được sống chung sao không chịu trao đổi
hay nhắc nhở nhau tu tập mà lại thực hiện pháp câm như
thế, vậy an cư được lợi ích gì chứ? Các ông phải luôn
sinh hoạt trong niệm đoàn kết, trên dưới thuận hoà, cùng
thống nhất ý kiến, cùng bàn bạc trao đổi và học hỏi
lẫn nhau, lẽ nào không thấy được giá trị của thấy, nghe
và nghi làm tiêu chuẩn để thanh lọc mỗi người. Các ông
đã bỏ phí một mùa an cư. Các ông đã hành động phi pháp.
Năng
lực của đại chúng quả thật như biển (Đức chúng như
hải) sẽ nâng đỡ những con thuyền lành tốt, khôn khéo chiều
theo từng đợt sóng, và sẽ đào thải tất cả những con
thuyền hư thủng ra khỏi lòng đại dương. Tăng đoàn muốn
hòa hợp theo đúng bản chất của nó như nước với sữa
thì buộc mỗi cá nhân phải tự nỗ lực, trang nghiêm chính
mình. Ngày nay, những người trí thức ở phương Tây luôn
tranh thủ cho mình một khoảng thời gian một tháng hay nhiều
hơn trong năm để tu nghiệp, tức là bồi dưỡng thêm nghề
nghiệp. Người tu sĩ Phật giáo lấy trí tuệ làm sự nghiệp
lẽ nào không đầu tư vào công phu thiền định. Không có
thời gian để cùng nhau nhắc nhở giới luật. Tứ niệm xứ,
Tứ thánh chủng… Một mình một cõi du hóa lơ lỏng trong
nhân gian thì rất khó cho việc thành tựu tuệ giác, hóa độ
viên mãn.
Cũng
như những giáo hội khác, ngày nay ở Việt Nam không còn giống
như thời Phật ở Ấn Độ là hàng xuất gia không phải mỗi
người du hóa một phương, mang theo ba y một bình bát và ngủ
dưới gốc cây, nhưng lối sống theo từng tông phái, chùa
riêng, tổ đình riêng, thầy riêng đệ tử riêng thì cũng
xem như rời rạc, chưa đoàn kết hoà hợp. Vì lẽ chưa dung
hoà đó mà Kiết hạ an cư đã trở thành qui luật rất cần
thiết để làm phương thuốc hồi sinh, làm sống lại tình
Linh Sơn cốt nhục mà lắm lúc vì những nguyên do gì đó,
vì bệnh nghiệp cá biệt nào đó đã làm cho anh em cùng nhà
phải bút chiến, khẩu chiến phân tranh cao hạ, làm cho sư
tử phải trọng thương chỉ vì loài trùng ăn gặm trong thân
sư tử. Hơn nữa, Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam hôm nay nhắm
vào tinh thần thống nhất về tổ chức (thống nhất ý chí
và hành động) thì Kiết hạ an cư là một phương tiện thuận
lợi cho giáo hội xây dựng tăng đoàn đoàn kết hòa hợp
và thống nhất mọi mặt theo phương châm: “Đạo pháp - Dân
tộc - chủ nghĩa xã hội”.
Rõ
ràng, ba tháng an cư, cửu tuần tu học đích thực là nguồn
năng lực quí báu làm nóng lại và bền vững hơn tinh thần
thanh tịnh hòa hợp của tăng-già. Chúng ta sẽ dễ dàng nhìn
thấy sự hưng thịnh của Phật pháp khi chốn tòng lâm ngày
ngày giới luật nghiêm minh, đêm đêm toạ thiền niệm Phật,
trên dưới hoà hợp, tu tập trong niệm đoàn kết an hoà.
Mùa
An Cư - PL 2544
Thích
Chơn Thanh.