- 01. Bốn Chặng Đường Tỉnh Thức
- 02. Hồng Danh
- 03. Luận Vãng Sinh
- 04. Ý Nghĩa Trai Đàn Bạt Độ
- 05. Tương Quan Giữa Thiền Và Mật
- 06. Các Đề Mục Nguyên Thủy
- 07. Thân Hành Niệm
- 08. Ba Thời Chuyển Pháp
- 09. Câu Chuyện Dòng Sông
- 10. Ý Nghĩa Quy Y Qua Ba Chặng Đường Tu Tập
- 11. Phương Pháp Học Phật
- 12. Tiến Trình Chết & Trung Ấm
- 13. Trung Ấm Tái Sinh
- 14. Kêu Dài Một Tiếng Lạnh Hư Không
- 15. Cách Chữa Tim Tại Mỹ
Thích Nữ Trí Hải
Nhà Xuất Bản Tôn Giáo Hà Nội 2003
PHƯƠNG PHÁP HỌC PHẬT
I.
DẪN
NHẬP
Chữ
Pháp
trong đạo Phật có rất nhiều nghĩa: theo nghĩa hẹp thì
“Pháp” là tất cả kinh, luật, luận gọi là “ba tạng”
ghi lại những lời Phật dạy trong 45 năm Ngài còn ở đời
giáo hóa; theo nghĩa rộng nhất thì “Pháp” chỉ tất cả
sự vật hữu hình vô hình, thuộc vật chất hay tâm linh, cụ
thể hay trừu tượng, có thực hay bịa đặt như lông rùa,
sừng thỏ. Pháp còn ám chỉ niết bàn Phật chứng, chân lý
tối hậu hay “tri kiến Phật” mà Phật đã đạt, như trong
từ ngữ “pháp nhãn ly trần vô cấu” hay con mắt pháp thanh
tịnh. Pháp cũng còn có nghĩa là phép tắc lý đương nhiên
của sự vật, tương tự chữ “đạo” mà ngài Huệ Năng
dùng “Sắc loại tự hữu đạo, cácbất tương phòng não”
nghĩa là mỗi loài tự có cái đạo hay cái lý, cái pháp của
nó, như ong kiến biết làm tổ, hoa biết nở, chim bay cá ìội,
cò trắng quạ đen vân vân không thể đổi khác. Nhưng còn
một nghĩa nữa cũng rất quan trọng của danh từ “pháp”,
đó là nghĩa “phương pháp”.
Hôm
nay
chúng ta sẽ chú trọng đến ý nghĩa này của Pháp, đó
là Phương pháp học Phật, hay cách tu hành, cách chuyển hóa
cuộc đời đau khổ
thành
an
vui, đó mới là vai trò quan trọng nhất của Pháp. Nếu
Pháp chỉ là ba tạng giáo điển Phật dạy, thì người không
tin Phật sẽ không đếm xỉa. Hoặc dù có tin nhưng không biết
chữ, bận làm ăn buôn bán cũng không đọc được. Nếu Pháp
chỉ là Niết bàn Phật chứng, là chân lý tối hậu, thì phàm
phu chúng ta đang còn lăn lộn giữa bụi trần cũng vô phương
mó tới. Còn nếu Pháp là cál lý đương nhiên của mọi sự
vật thì ta sẽ nghĩ rằng lý đương nhiên của con người
sống giữa đời là phải bon chen, ăn miếng trả miếng, cái
nghiệp của ta đã là như vậy thì tu hành nào có lợi ích
gì. Nhưng khi nói Pháp là phương pháp, là cái chìa khóa mở
cửa hạnh phúc, chuyển đau khổ thành an vui, luyện cát ra
vàng ròng, thì bất luận là người theo đạo nào, muốn hết
khổ được vui, đều cần phải có nó.
II.
NHỮNG CÁCH SỬ DỤNG SAI CHÌA KHÓA PHẬT PHÁP
Khi
đã
xác định ý nghĩa chữ Pháp là chìa khóa, ta mới thấy
có nhiều lốí hành xử như sau.
1.
Liệng mất chìa khóa
Có
khi
giảng sư nói thẳng chân lý Phật dạy trong kinh điển,
như nói hết thảy pháp không sinh không diệt không dơ không
sạch. Hoặc về giới sát sinh, thì nói không được giết
hại từ người cho đến sinh vật nhỏ nhít như muỗi mòng
sâu kiến. Một số Phật tử nghe không hiểu nên đâm chán,
ngủ gục; một số khác thấy Phật Pháp quá cao siêu mà mình
quá tệ, đã lỡ sát sinh quá nhiều đâm ra mặc cảm bỏ cuộc.
Đó
là
thái độ liệng xâu chìa khóa vì thấy vô dụng đối với
mình.
2. Dùng không đúng cách
a.
Pháp không hợp trình độ:
Khi
định
nghĩa Pháp là phương pháp thì có rất nhiều, tùy thời,
tùy người, tùy việc mà vận dụng. Nhiều khi một phương
pháp thích hợp với giảng sư lại không hợp với Phật tử
trình độ tu hành còn thấp kém, ví dụ câu “Dâm phòng tửu
tứ vô phi thanh tịnh đạo tràng” rất thích hợp để đem
nói cho một vị tu hành đã hết lầm lỗi, nhưng quá chấp
trước vào sự thanh tịnh, không màng đến chuyện xuống núi
lợi sinh hành đạo. Nhưng nếu nói cho một bợm nhậu nghe
thì không còn sửa đổi gì y được nữa. Bởi thế, Phật
pháp còn gọi là pháp bất định, cũng như thuốc trị bệnh
có nhiều thứ và liều lượng khác nhau, dùng không đúng bệnh
và đúng lượng thì chẳng những bệnh không khỏi mà còn
thêm hại.
b.
Người
nghe cố chấp:
Có
nhiều
Phật tử nghe Pháp rồi chấp chặt vào pháp ấy xem
như chân lý duy nhất đúng, mà không xét đúng cho hạng người
nào, đối tượng nào. Lỗi không ở giảng sư mà ở người
nghe. Có một gia đình nọ cha mẹ không biết gì đến Phật
pháp nhưng cô con gái lại thường theo bạn bè đi chùa nghe
pháp. Sau một thời gian nhờ thấm nhuần Pháp, cô tha thiết
xin cha mẹ xuất gia. Cha mẹ lúc đầu không cho, nhưng cô gái
một mực năn nỉ, cuối cùng ông bà phải xiêu lòng cho con
xuất gia. Vào chùa xong, cô gái lại còn dụ được cha mẹ
đi nghe pháp. Rủi thay trong thời pháp mà ông bà được nghe
lần đầu tiên đó, có một câu làm cho họ đắc ý: “ở
đâu tu cũng được, không cần phải vào chùa”. Họ bèn lôi
cổ cô con về lại nhà.
Lại
có
giảng sư dạy rằng không phải cứ ăn chay, niệm Phật
mới là tu. Dĩ nhiên giảng sư nói không sai, nhưng cũng không
đúng hẳn. Thế mà có một Phật tử ăn chay trường ba mươi
năm, nghe thế bèn về ngã mặn.
Như
thế
dấy là sự tai hại của việc nói pháp cho công chúng
khi có quá nhiều trình độ, nhiều chấp trước bất đồng.
Cho nên trong kinh Kim Cang, sau khi đã dạy rất nhiều, Phật
dạy: “Như Lai không có nói gì cả”. Để chúng ta đừng
bám vào lời Ngài, xem là chân lý duy nhất đúng, mà không
xét lời Ngài đang nói nhắm vào hạng người nào, cốt trị
căn bệnh gì. “Tin ta mà không hiểu ta chính là phỉ báng
ta đó”. Phật đã từng dạy.
Thái
độ
trên đây là “thực hành theo Pháp mình đã nghe một
cách vội vàng, không suy xét”. Đó là thái độ của người
kém trí tuệ, có lòng tin mù quáng thành ra tự hại mình và
còn làm cho thầy mang tiếng xúi bậy. Khi tu hành không được
kết quả thì lại mất lòng tin một cách oan uổng. Chẳng
khác nào Phật đưa cho cái chìa khóa, mà không mở được
cửa vì xoay chìa không đúng cách. Hoặc có khi xoay chìa đúng,
cửa sẵn sàng mở nhưng thay vì đẩy ra, ta lại kéo vào thì
cũng không xong!
3.
Ngã chấp
Còn
một
thái độ thứ ba cũng không kém tác hại, là bác bỏ
ngay lời giảng dạy vì không hợp gu của mình. Đây là thái
độ nóng nảy của người muốn chóng có kết quả, xem phương
pháp tu của Phật dạy thật quá lâu lắc không thiết thực,
rồi đi theo những thầy tà bạn ác để mau đắc thần thông.
Khi biết mình bị lừa thì đã quá muộn.
4.
Thờ chìa khóa
Một
thái
độ thứ tư là người nghe pháp xem như một bùa chú
linh nghiệm, cất kỹ để hộ thân thay vì xem Pháp như những
chỉ giáo để sống trên
đời.
Chẳng
khác nào kẻ đang bị giam giữ, được cái chìa khóa
để mở cửa nhà giam, nhưng lại lầm cho đó là bùa chú để
hộ thân, bèn suốt ngày săm soi, đặt lên bàn thờ, lâm râm
tụng niệm “Nam mô chìa khóa, nam mô chìa khóa...” Nhờ lòng
tin tưởng ấy, người tù cũng cảm thấy đỡ khổ khá nhiều
nhưng sao bì được với việc sử dụng chìa khóa để mở
cửa nhà tù mà ung dung bước ra.
III.
VĂN TU TU
Biết
pháp
còn phải biết cách vận dụng pháp thì mới thực sự
có lợi ích, cũng như có chìa khóa còn phải biết cách mở.
Chúng ta học Pháp là học chân lý Phật dạy, nhưng còn phải
biết những phương pháp để thực hành chân lý ấy tùy từng
giai đoạn và nơi chốn. Trong sự học Pháp, Phật đã dạy
ba phương pháp học là VĂN, TƯ và TU.
VĂN
là nghe giảng, đọc sách, thảo luận với bạn đạo để
hiểu cho thấu đáo và rộng rãi lời Phật dạy. Nhưng nghe
không cũng chưa đủ. Có người đi nghe giảng suốt đời,
thuộc lòng Phật pháp và đọc tụng những kinh điển cao siêu
nhưng vẫn chứng nào tật ấy, chẳng có gì tiến bộ trong
đời sống hàng ngày, lại còn mắc thêm chứng kiêu mạn cho
ta đây kinh gì cũng biết. Đấy là hạng Phật tử làm sưu
tập chìa khóa mà không sử dụng, chất chìa khóa đầy nhà
thì chỉ thêm choán chỗ.
TƯ
là suy nghĩ cân nhắc đắn đo về những pháp mình đã nghe,
đi sâu vào Pháp bằng tâm ý của mình chứ không chỉ bằng
lỗ tai và cái miệng. Có tư duy thiền định mới thấm được
những lợi ích sâu xa của Pháp ngoài các lợi ích nhỏ nhoi
như cứu bệnh, tăng thêm tài lộc, thăng quan tiến chức...
Có một nhóm quân nhân Phật tử thường họp nhau thảo luận
Phật pháp mỗi tuần một đề tài. Hôm ấy đề tài là “Tại
sao anh tin Phật?”. Rất nhiều ý kiến được đưa ra, đa
số thuộc về những linh ứng mà bản thân đương sự đã
được hưởng mỗi khi gặp gian nguy trong đời, đại loại
như, “Tôi tin Phật vì một dạo gia đình chạy giặc nửa
đêm đến một khúc sông lớn, giặc đuổi sau lưng; cả gia
đình thành tâm niệm Bồ tát Quan âm thì bỗng xuất hiện
một chiếc thuyền trên đó có ông già mặc áo trắng râu
bạc ghé vào bờ đưa tất cả qua sông. Vừa lên bờ nhìn
xuống toan tìm ông già để trả tiền thì không thấy gì nữa,
cả thuyền và người đều biến mất...”
Thực
cũng
khá hấp dẫn, người nghe có người cảm động có kẻ
không tin. Nhưng có một lời phát biểu làm cho mọi người
phá lên cười là của một Phật tử: “Tôi tin Phật vì ngài
bảo đừng tin Ngài”. Đấy là một người thực sự có suy
tư về Pháp và thấm nhuần được những lợi ích sâu xa của
Pháp. Phật dạy đừng vội tin lời Ngài, mà nghe xong phải
suy nghĩ cho chín chắn coi đúng không cái đã. Có những Pháp
không đúng trong lúc này mà lại đúng vào lúc khác, nên người
học cần phải có sự sáng suốt nhận định theo hai chiều:
khế lý và khế cơ. Pháp mình nghe được phải đúng chân
lý đã đành nhưng còn trình độ của mình nên thực hành
như thế nào cũng cần xét đến. Ví dụ với người đang
hành nghề đồ tể hay đánh cá khi nghe giới “không được
sát sinh”, thì cần trước hết tìm xem điều ấy có đúng
không. Khi đã thấy là đúng, nhưng mình chưa bỏ được thì
nên thực hành theo từng giai đoạn, như đầu tiên làm “diệu
hạnh” nghĩa là kiêng sát sinh vào những ngày vía Phật, ngày
rằm, vân vân rồi từ từ giảm việc sát sinh khi không phải
vì mưu sinh mà vì muốn làm giàu. Và cuối cùng, có thể đổi
sang nghề khác. Đó là cách tu tuần tự. Tất cả các giới
pháp khác cũng vậy, phải xét trình độ mình có thể theo
Pháp đến mức nào, và cố thực hành dù ở mức thấp nhất.
Như thế là biết cách xoay xở để sử dụng cái chìa khóa
Phật pháp để dần dần thoát vòng nghiệp chướng. Trong kinh
Bách Dụ, Phật có kể chuyện một người khát nước gần
chết nhưng khi gặp một con sông thì lại không chịu uống,
bảo rằng nước nhiều quá làm sao tôi uống cho hết được,
và cuối cùng phải chết khát bên dòng sông. Đấy là thái
độ người nghe Pháp thật nhiều mà không thực hành, vì cứ
nghĩ Pháp Phật quá sâu rộng cao xa mà mình quá kém cỏi.
Một
khía
cạnh thứ ba của việc học Pháp là TU TUỆ, nghĩa
là áp dựng Pháp vào đời sống hàng ngày sau khi chọn lựa
những gì thích hợp cho trình độ mình. Đôi khi thầy dạy
một điều rất cao mình phải biết là mình chưa đạt tới
trình độ ấy, chưa áp dụng được, nhưng đừng vội phủ
nhận vì một thời gian sau, nếu tinh tiến tu hành sẽ có lúc
mình đạt đến chỗ ấy. Ngày xưa ở Tây Tạng có một ông
vua rất hâm mộ Phật pháp, mời một pháp sư nổi tiếng về
kinh đô giảng cho cả triều đình. Pháp sư này tu Bát nhã
đã chứng Tính không nên giảng toàn về Không, tứ đại ngũ
uẩn giai không, phàm thánh giai không, sinh tử niết bàn cũng
giai không, tội phúc cũng giai không... Vị vua nghe Pháp sư giảng
xong rất thích thú nhưng đồng thời cũng thấy thật nguy hiểm
để cho ông này sống, vì ông nói quá hay, nếu để ông giảng
cái Không ấy cho thần dân thì không còn ai tu hành gì nữa...
Và vua cũng muốn thí nghiệm coi pháp sư có thực chứng Tứ
đại giai không không hay chỉ nói nơi lỗ miệng. Bèn đem pháp
sư ra xử trảm.
Pháp
sư
quả đã thực chứng tính không nên trước cái chết ông
không biến sắc. Sau đó vua thỉnh một vị thầy khác về
kinh đô giảng Pháp, vị này lúc đầu nói về nhân quả nghiệp
báo, làm lành gặp lành làm ác gặp dữ, bởi thế cần phải
làm lành lánh dữ, nếu muốn gặp lành không muốn gặp dữ.
Ai cũng muốn lành thế mà lại làm ác, không ai muốn gặp
dữ thế mà ít ai chịu làm điều lành, vì mâu thuẫn như
thế nên thế gian này đầy những rối ren đau khổ. Muốn
làm lành lánh dữ cần phải có trí tuệ phân biệt cho đúng
cái gì thực là lành, cái gì thực là dữ. ông vua nghe pháp
này rất lấy làm hài lòng, bèn hỏi: “Thế thì tính không
có phải là Phật pháp hay không? Hay đó là chủ thuyết tà
ngụy?”. Vị pháp sư này tâu: “Tâu bệ hạ, tính không mới
là cốt tủy của Phật pháp. Sau khi đã thuần thục trong việc
bỏ ác làm lành, vua phải an trú tâm vắng lặng không vướng
bận quả báo, thì mới là điều lành tối thượng. Nếu còn
vướng một điều lành nào thì cũng chưa thực sự giải thoát,
vì sẽ ham hưởng quả báo ở cõi trời, nghĩa là vẫn còn
quanh quẩn trong tam giới”. Sau một thời gian tu tập vua mới
thấm ý nghĩa Tính không này, và vô cùng ân hận vì đã lỡ
giết mất một bậc minh sư.
Đấy
là
tai hại của việc nghe pháp mà không tư duy tu tập và vội
vàng kết luận về pháp mình đã nghe, không suy xét trình độ
bản thân mình.
IV.
KẾT LUẬN
Khi
nghe
Pháp tối thượng về Tính không, ta nên cẩn thận suy
xét lời giảng sư nói, rồi chiêm nghiệm coi mình tu hành đã
đến trình độ đó hay chưa. Nếu chưa, thì khoan làm theo nhưng
phải thấy được đấy là pháp tối thượng để không mất
hướng mục tiêu giải thoát. Vì Pháp chung quy chỉ là ĐƯỜNG
LỐI GIẢI THOÁT. Giải thoát là hết chấp trước. Nhưng có
nhiều cách chấp. Khi còn phàm phu ta chấp vào ăn mặc ở,
vào sắc thanh hương vị xúc, nên khởi sự ta phải tu hạnh
từ bỏ, thiểu dục tri túc, nghĩa là tu GIỚI. Đó là chặng
đầu của giải thoát. Khi giới hạnh thanh tịnh, cảm thấy
tâm yên ổn không có gì ân hận, tâm được định tĩnh, mới
thấy rõ cái gì là thiện cần làm cái gì là ác cần tránh.
Đó là chặng gíữa của con đường giải thoát. Nhưng còn
vướng bận về thiện ác, còn ôm giữ quả báo nghĩa là còn
ngã chấp thì cũng chưa thực sự giải thoát, nên cần phải
buông xả, đạt đến VÔ NIỆM VÔ TRÚ VÔ TƯỚNG như lời
dạy của tổ Huệ năng thì mới là giải thoát thực sự,
tức là khai mở tri kiến Phật để thấy được Tính không:
Nghe như vậy, có người khởi lên ý nghĩ “tôi cần phải buông xả” thì lại là một sự trói buộc khác. Cho nên, cứ theo nguyên tắc là tất cả ác nên tránh, tất cả lành nên làm, rồi tùy khả năng mà làm lành lánh dữ nhưng trong tâm không nghĩ đến quả báo. Khi nào đúng thời tiết nhân duyên, thì giải thoát tự đến, như cứ chăm sóc cây cối thì đúng kỳ sẽ có hoa trái, chứ không phải muốn mà được Nhưng việc tu tâm có hơi khác ở chỗ, ta có thể thấy được tiền vị của Niết bàn, trong khi tu nhân ta đã thấy được cái quả lấp ló. Muốn thực nghiệm, hãy buông bỏ mọi mong cầu, ngay cả mong cầu giải thoát, không nghĩ thiện không nghĩ ác, để tâm hoàn toàn vắng lặng mà vẫn tỉnh táo. Trạng thái VÔ NIỆM ấy là tin tức về bản lai diện mục, về niết bàn. Nhưng một niệm sau đó muốn kéo dài giây phút ấy ra tức là đã lọt vào tam đồ lục đạo.