- 01. Bốn Chặng Đường Tỉnh Thức
- 02. Hồng Danh
- 03. Luận Vãng Sinh
- 04. Ý Nghĩa Trai Đàn Bạt Độ
- 05. Tương Quan Giữa Thiền Và Mật
- 06. Các Đề Mục Nguyên Thủy
- 07. Thân Hành Niệm
- 08. Ba Thời Chuyển Pháp
- 09. Câu Chuyện Dòng Sông
- 10. Ý Nghĩa Quy Y Qua Ba Chặng Đường Tu Tập
- 11. Phương Pháp Học Phật
- 12. Tiến Trình Chết & Trung Ấm
- 13. Trung Ấm Tái Sinh
- 14. Kêu Dài Một Tiếng Lạnh Hư Không
- 15. Cách Chữa Tim Tại Mỹ
Thích Nữ Trí Hải
Nhà Xuất Bản Tôn Giáo Hà Nội 2003
TRUNG ẤM TÁI SINH
Kính lễ Tam Bảo. Kính lễ các luận sư Jamyang Khyentse Rinpoche, Dilgo Khyentse Rinpoche và Sogyal Rinpoche đã giải thích giáo lý trung ấm.
Trước
hết
nhắc lại có sáu trung ấm hay bạt đô: trung ấm trong
mộng, trung ấm trong đại định, trung ấm tự nhiên của đời
sống; trung ấm đau đớn của cái chết; trung ấm pháp tính
(thời gian của Ánh sáng căn bản xuất hiện ngay sau khi chết);
và trung ấm tái sinh. Sở dĩ có trung ấm là vì tâm vô minh
bất giác: bất giác lúc sống, bất giác lúc chết, bất giác
lúc gặp ánh sáng chân lý, bất giác lúc tìm tái sinh.
Để
hiểu
bạt đô tái sinh, có lẽ nên nói thêm về tính chất
của tâm.
Tâm
ta
bình thường cũng như vào lúc chết, có hai khía cạnh: tương
đối và tuyệt đối. Khía cạnh tương đối là cái tâm so
đo tính toán, dong ruỗi theo đối tượng 5 giác quan. Nó không
ngừng thay đổi luôn luôn dao động giữa những cảm xúc đối
kháng như yêu và ghét, v.v.. nên thường mờ tối. Khía cạnh
tuyệt đối của tâm là không có thái độ chọn lựa nói
trên, nên thường sáng suốt với tia sáng nội tại. Lúc sống,
bị thân xác chướng ngại, bị ám bởi những phiền não liên
hệ đến thân xác, nên dù một vị tu cao cũng khó mà hằng
sống với “bản lai diện mục” hay bản chất tuyệt đối
ấy của tâm, gọi là ánh sáng nội tại. Ngược lại, người
phàm phu cực ác dù cả đời không biết đến nó, ánh sáng
ấy vẫn xuất hiện trước họ, ngay khi tắt thở. Vì ánh
sáng ấy là tinh chất của tứ đại, của tất cả mọi sự
khi phân tích đến cùng. Sự xuất hiện rực rỡ của Ánh
sáng nội tại (còn gọi là Phật tính hay pháp tính) là bình
đẳng nơi người cực thiện cũng như cực ác Nhưng sự nhận
ra và giải thích ánh sáng ấy thì hoàn toàn khác nhau, và chính
điều này đem lại giải thoát hay rơi vào bạt đô tái sinh.
Một bậc thầy về Dzogchen nhờ công phu tu tập, khi chết sẽ
hòa nhập tâm mình vào ánh sáng ấy và đạt giải thoát. Ngược
lại, phàm phu thì sợ hãi trước ánh sáng ấy và theo thói
quen, tìm cách ẩn nấp vào những ánh sáng mờ đục của lục
đạo, và tạo nên trung ấm tái sinh. Những khuynh hướng tập
quán lâu đời vẫn tiềm ẩn sau hậu trường gọi là “nền
tảng của tâm phàm tình” để chờ cơ hội nhóm họp trở
lại, chỉ tạm thời giải tán khi ánh sáng căn bản ló dạng.
Các
bậc
thầy về pháp môn Dzogchen nhờ đã quen làm chủ thân
tâm, nên có thể an trú rất lâu trong trạng thái hỷ lạc
của trung ấm pháp tính khi họ đã chết trên phương diện
lâm sàng.
Một
y
sĩ đã tường thuật cái chết của Karmapa, một bậc thầy
mật tông tại một bệnh viện lớn ở Chicago, Hoa kỳ vào
năm 1981 như sau:
“Họ
đưa
tôi vào phòng ba mươi sáu tiếng đồng hồ sau khi ngài
chết. Tôi sờ vùng bên phải, trên trái tim ngài, và thấy
nó nóng hơn các chỗ khác. Đấy là một điều mà y học không
thể giải thích được”. (Trích dẫn Tạng Thư Sống Chết)
Thời
gian
đó chính là lúc mà ngài an trú trong ánh sáng căn bản
của tự tính tâm khi nó xuất hiện.
Nhưng
phần
đông chúng ta do nghiệp lực thúc đẩy lại trốn chạy
ánh sáng ấy và bị cuốn hút vào ánh sáng dịu của lục
đạo đồng thời chiếu đến ta. Giai đoạn cuối của bạt
đô pháp tính này là “hiện diện tự nhiên”. Nếu ở giai
đoạn này ta vẫn chưa nhận ra được mọi sự diễn ra không
ngoài tâm ta biến hiện, thì ta sẽ kinh hoàng trước những
hiện tượng ánh sáng và âm thanh ấy. Bản năng muốn có một
thân xác, cùng với những tập quán của nghiệp hay thói quen
cũ của ta bắt đầu tụ lại dưới dạng một thân ý sinh,
và đấy là khởi đầu của giai đoạn trung gian hay bạt đô
kế tiếp: bạt đô tái sinh.
Danh
từ
sipa trong sipa bạt đô, dịch là “Trung ấm tái sinh”
cũng có nghĩa là “khả năng” và “hiện hữư”. Trong trung
ấm này, vì tâm thức không còn bị giới hạn và ngăn che
bởi cái thân vật lý bình thường, nên nó có khả năng vô
biên cho việc tái sinh trong các cõi.
Khía
cạnh
nổi bật của bạt đô tái sinh là, ở đây tâm đóng
vai trò quan trọng, trong khi ở giai đoạn bạt đô pháp tính,
thì mọi sự diễn ra trong phạm vi Tính giác Rigpa, cốt lõi
của tâm. Bởi thế trong bạt đô pháp tính, chúng ta có một
thân bằng ánh sáng, còn trong bạt đô tái sinh chúng ta có
một thân do ý sinh.
Trong
bạt
đô tái sinh, tâm có được ánh sáng vô biên và sự di
động không giới hạn, nhưng hướng di chuyển của nó hoàn
toàn được định đoạt bởi những khuynh hướng tập quán
cũ của ta. Vì vậy nó đưực gọi là bạt đô tái sinh. Kalu
Rinpoche nói: “Đó là hậu quả hoàn toàn thụ động, mù quáng
của những nghiệp đời trước, chúng ta hoàn toàn bị nghiệp
thức lôi kéo”.
Từ
trạng
thái thanh tịnh nhất của tâm là Ánh Sáng Căn Bản,
qua ánh sáng và năng lượng của nó, tức là những tướng
hiện ra trong bạt đô pháp tính, bây giờ tâm trải qua một
biểu hiện thô hơn: thân ý sinh. Giai đoạn này gọi là trung
ấm hay bạt đô tái sinh. Những gì xảy ra ở giai đoạn này
là một tiến trình tan rã ngược lại: những ngọn gió lại
xuất hiện, cùng với chúng là những trạng thái tư tường
liên hệ đến ngu si tham dục và giận dữ. Rồi, vì ký ức
về “thân nghiệp sinh” trong quá khứ của chúng ta đang còn
mới mẻ, chúng ta mang một “thân ý sinh”.
THÂN
Ý SINH
Thân
ý
sinh của chúng ta trong bạt đô tái sinh mang một số đặc
tính. Nó có đủ tất cả giác quan, vô cùng nhẹ, sáng suốt
và di động, và sự nhạy bén của nó cũng được nói là
gấp bảy lần trong đời sống thực. Nó có một số thần
thông lặt vặt không được ý thức kiểm soát, nhưng đem
lại cho thân ý sinh khả năng đọc được tâm người.
Lúc
đầu
thân ý sinh có hình dạng giống thân thể trong đời
vừa qua, nhưng không có khuyết điểm, và đang ở độ tuổi
thanh xuân. Dù khi sống ta có bị què quặt hay ốm đau liệt
giường, thì trong bạt đô tái sinh ta vẫn có được một
thân ý sinh toàn hảo. Điểm này dễ hiểu, vì thân ý sinh
là do chính tâm ta tưởng ra, do ước mong tiếp tục sống trở
lại. Người già ưa nhớ lại những kỷ niệm hồi niên thiếu,
có thể nói đây là một tiền vị của tái sinh luân hồi.
Một
trong
những giáo điển cổ của Dzogchen cho chúng ta biết thân
ý sinh cỡ bằng một đứa bé từ tám đến mười tuổi. Kẻ
viết bài này cũng được nghe nhiều người chưa từng biết
đến Tử thư Tây tạng, kể rằng họ thấy người thân đã
chết trở về trong ngày cúng thất thất trai tuần, và ngạc
nhiên vì người ấy biến thành nhỏ bé.
Do
năng
lực của tư duy khái niệm, gọi là “gió nghiệp”,
thân ý sinh không thể ở yên dù chỉ trong chốc lát. Nó không
ngừng di động, và có thể đi
khắp
nơi
không bị trở ngại. Vì thân ý sinh không có cơ sở vật
lý, nên có thể đi xuyên qua tường hay vách núi.
Thân
ý
sinh có thể thấy suốt những vật thể có ba chiều, nhưng
vì thiếu tinh chất vật lý của cha mẹ, nó chỉ thấy một
ánh sáng mờ ảo ở đằng trước. Khi mang thân ý sinh, ta có
thể thấy những chúng sinh khác trong cõi trung ấm, nhưng người
sống không thể thấy chúng ta, ngoại trừ những người có
thần thông nhờ thiền định. Bởi thế chúng ta có thể gặp
và nói chuyện vài giây phút thoáng qua với nhiều kẻ đang
du hành trong thế giới bạt dô (trung ấm), nghĩa là những
kẻ chết trước chúng ta.
Do
sự
có mặt của năm uẩn đang thành hình, nên thân ý sinh
đối với chúng ta dường như chắc thực, và chúng ta vẫn
còn cảm thấy những cơn đói
cồn
cào.
Giáo lý trung ấm dạy rằng thân ý sinh này sống bằng
mùi hương và rút dưỡng chất từ những đồ cúng được
đem đốt, nhưng nó cũng có thể hưởng được những đồ
cúng đặc biệt nhân danh nó.
Trong
trạng
thái này, hoạt động tâm ý rất nhanh: tư tưởng liên
tục trôi qua nhanh, và thân ý sinh có thể làm một lúc nhiều
công việc. Tâm tiếp tục duy trì những mẫu mực, thói quen
lúc sống, nhất là thói quen bám víu những kinh nghiệm, và
thói quen tin rằng mọi sự tuyệt đối là thực có.
NHỮNG
KINH NGHIỆM CỦA CÕI TRUNG ẤM
Suốt
trong
những tuần đầu trong cõi trung ấm (bạt đô), chúng
ta có cảm tưởng rằng mình là một người đàn ông hay một
phụ nữ, hệt như trong đời vừa qua. Chúng ta không nhận
ra rằng mình đã chết. Chúng ta trở về nhà để gặp bà
con và những người thân yêu. Ta cố nói với họ, sờ vai
họ. Nhưng họ không trả lời, cũng không tỏ ra họ biết
có ta ở đấy. Dù cố gắng bao nhiêu, ta cũng không cách nào
làm cho họ chú ý đến ta được. Ta bất lực đứng nhìn
họ khóc, hay ngồi thẫn thờ với cõi lòng tan nát vì cái
chết của ta. Ta lại còn cố một cách vô hiệu để sử dụng
những đồ đạc của ta khi trước. Chỗ ta ngồi nơi bàn ăn
không còn dành cho ta nữa, và người ta đang làm những chuẩn
bị để thanh toán của cải của ta. Ta cảm thấy tức tối,
bị thương tổn, hằn học, “như một con cá quằn quại trên
đất nóng”. Tử thư nói :
Nếu
hết
sức quyến luyến cái thân xác của mình, thậm chí ta
lại còn cố nhập vào nó hay lảng vảng bên nó. Có những
trường hợp quá khích là thân ý sinh lai vãng gần tài sản
hay xác của họ hàng tuần, hàng năm mà vẫn chưa có thể
nghĩ rằng mình đã chết. Chỉ khi họ thấy mình không có
bóng in trên mặt đất, không in dấu chân bước, cũng không
phản chiếu trong gương, họ mới vỡ lẽ.
Và
nỗi
kinh hoàng khi nhận ra mình đã chết, làm cho họ ngất
xỉu. Trong cõi trung ấm tái sinh, ta sống lại tất cả những
kinh nghiệm của đời vừa qua, ôn lại những kỷ niệm đã
từ lâu phai mờ trong ký ức, và thăm lại những nơi chốn
cũ, “dù chỉ là nơi ta chỉ có khạc nhổ trên đấy một
lần”. Cứ bảy ngày một lần, ta lại bị bắt buộc phải
sống trở lại cái kinh nghiệm chết, với tất cả nỗi đau
khổ của nó. Và nên nhớ, mọi sự được tái diễn với
một ý thức mãnh liệt gấp bảy lần lúc sống. Và trong giai
đoạn thoáng qua của trung ấm tái sinh, mọi nghiệp ác của
các đời trước trở lại, một cách cường liệt làm cho
tâm ta rối bời.
Cứ
thế
ta một mình lang thang không ngừng qua thế giới trung ấm,
kinh hoảng như trong một cơn ác mộng. Và cũng hệt như trong
mộng, ta tin rằng mình có một cái thân vật lý, và mình thực
sự hiện hữu. Tuy thế tất cả những kinh nghiệm của bạt
đô này chi do tâm biến ra, do nghiệp và những tập quán cũ
của ta tái diễn.
Những
ngọn
gió của tứ đại trở về, và ta nghe những âm thanh
to lớn của đất nước gió lửa: tiếng núi lở, tiếng nước
gầm, tiếng hỏa diệm sơn bốc cháy, tiếng giông tố bão
bùng. Khi ta hoảng hốt cố chạy thoát những thứ này, thì
trong bóng tối mờ ảo trước mặt ta mở ra ba hố thẳm trắng,
đỏ, đen, sâu kinh khủng. Tử thư nói đây là tâm giận dữ,
tham dục và ngu si của ta biến ra. Ta bị tấn công bởi những
ngọn thác đổ, mưa đá bằng máu mủ; bị ám ảnh bởi những
âm thanh la hét của quỷ không đầu; bị săn duổi bởi những
yêu quái và thú dữ chuyên ăn thịt.
Bị
ngốn
ngấu bởi nỗi hoảng sợ, bị thổi giạt qua lại như
những nhị hoa bay trước gió, ta lang thang vô vọng qua cõi
trung ấm. Bị cơn đói khát dày vò, ta tìm nơi trú chỗ này
chỗ khác. Nhận thức của tâm ta thay đổi từng chặp, lúc
vui lúc buồn. Bỗng tâm ta đâm ra khao khát có một xác thân
vật lý, nhưng lại không thể tìm được, làm cho ta lại rơi
vào đau khổ. Toàn thể khung cảnh ấy đều do nghiệp ta un
đúc, cũng như thế giới ác mộng do vọng tường chúng ta
tạo nên. Nếu bình thường lúc sống, ta có hành động tích
cực, thì kinh nghiệm và nhận thức chúng ta trong cõi trung
ấm sẽ là hạnh phúc và an lạc; nếu đời ta tác hại và
làm người khác dau khổ, thì kinh nghiệm trong cõi trung ấm
của ta sẽ đầy đau đớn buồn sầu. Bởi thế Tử thư nói
rằng những người đánh cá, đồ tể, thợ săn đều bị
tấn công bởi những hình ảnh ghê rợn của những nạn nhân
của họ trước kia.
ĐỘ
DÀI CỦA TRUNG ẤM TÁI SINH
Toàn
thể
trung ấm tái sinh kéo dài trung bình bốn mươi chín ngày,
và ít nhất là một tuần. Nhưng cũng còn tùy, giống như hiện
tại có người sống tới trăm tuổi, trong khi kẻ khác chết
non. Một số lại còn bị kẹt trong thế giới trung gian để
thành ma quỷ. Dudjom Rinpoche thường giải thích rằng suốt
trong hai mươi mốt ngày đầu của thời gian trung ấm, bạn
vẫn còn có một ấn tượng mạnh về đời sống vừa qua,
bởi thế đây là giai đoạn quan trọng nhất để người sống
giúp đỡ người chết. Sau đó đời sống tương lai của bạn
dần dần thành hình, và trở thành ảnh hưởng chính.
Chúng
ta
phải mang thân trung ấm cho đến khi nào nghiệp ta bắt liên
lạc được với cha mẹ tương lai. Nhưng có hai trường hợp
đặc biệt không trải qua giai đoạn trung ấm, mà đi ngay vào
một tái sinh mới do tính cách cường liệt của nghiệp lực.
Trường hợp đầu tiên là những người đã sống một đời
vô cùng lợi lạc và tích cực, đã tu luyện tâm đến trình
độ năng lực tu chứng đưa họ trực tiếp vào một tái sinh
tốt đẹp. Trường hợp thứ hai là những người đã sống
một đời tiêu cực tác hại, họ đọa rất nhanh xuống tái
sinh kế tiếp, bất cứ ở đâu.
NĂNG
LỰC CỦA TÂM
Vì
trong
cảnh giới trung ấm, tâm ta rất nhẹ nhàng linh động
và bén nhạy, nên bất cứ tư tưởng nào khởi lên, tốt hay
xấu, đều có ảnh hường và năng lực ghê gớm. Vì không
có một cơ thể vật lý làm nền tảng, nên những ý tường
trở thành thực tại. Hãy tưởng tượng sự buồn bã giận
dữ khốc liệt mà ta có thể cảm thấy khi trông thấy người
sống làm đám tang cho ta quá sơ sài, hay bà con tham lam đang
tranh giành những vật sở hữu của ta, hay bạn bè mà ta rất
yêu mến, và ta tưởng cũng rất yêu mến ta, bây giờ đang
nói về ta một cách khinh miệt, thương tổn, hỗn hào. Một
tình huống như vậy có thể rất nguy hiểm, vì phản ứng
bạo hành của ta có thể đưa ta thẳng đến một tái sinh
bất hạnh.
Như
vậy,
năng lực mãnh liệt của tâm là vấn đề then chốt
trong trung ấm tái sinh. Trong giai đoạn này, ta hoàn toàn bị
làm mồi cho những thói quen, và khuynh hướng cố hữu mà ta
đã dung dưỡng, để chúng tăng trường và thống trị đời
ta. Nếu bạn không kiểm soát những khuynh hướng ấy ngay bây
giờ trong khi sống, ngăn chúng xâm chiếm tâm bạn, thì trong
trung ấm tái sinh, bạn sẽ thành nạn nhân tội nghiệp của
chúng, bị mãnh lực của chúng đưa đẩy. Một sự giận dữ
nhỏ nhặt trong trạng thái trung ấm cũng có thể có một ảnh
hưởng tai hại; bởi thế mà theo truyền thống, người đọc
tử thư cho bạn lúc sắp chết phải là người mà bạn có
quan hệ tốt đẹp; nếu không, nội một việc nghe âm thanh
tiếng nói của y cũng đủ làm cho bạn nổi tam bành, và điều
này sẽ có những hậu quả vô cùng khốc hại.
Giáo
lý
mô tả tính chất sống sít của cái tâm ở trong trạng
thái trung ấm là, nó giống như một thỏi sắt nung đỏ sẵn
sàng uốn bất cứ kiểu nào. Cũng thế, một tư tưởng tích
cực duy nhất trong trạng thái trung ấm có thể trực tiêp
dẫn đến giác ngộ, một phản ứng xấu cũng đủ làm bạn
chìm vào đau khổ lâu dài. Tử Thư cảnh cáo chúng ta một
cách mạnh mẽ như sau:
“Đến
đây
là ngã rẽ đôi đường lên xuống; đây là lúc mà chỉ
cần lướt vào sự lười biếng một chút, ngươi cũng đủ
chịu khổ triền miên, đây là lúc mà chỉ cần tập trung
một chút, ngươi cũng sẽ hưởng được hạnh phúc lâu bền.
Hãy chú tâm không tán loạn, hãy nỗ lực kéo dài hậu quả
thiện nghiệp!”
Tử
thư
cố khơi dậy bất cứ một liên hệ nào với sự tu tập
mà người chết có thể có, và khuyến khích từ bỏ bám víu
người, của, từ bỏ sự khát khao có một thân xác, đừng
buông trôi theo giận dữ hay tham dục, đào luyện sự tử tế
hơn là thù hằn, đừng nghĩ đến việc ác. Tử thư nhắc
nhở người chết không cần phải sợ hãi: Một mặt, cho người
chết biết những hình dạng ghê rợn trong cõi trung ấm chỉ
là do tâm họ chiếu ra, thực chất vốn trống rỗng; mặc
khác, nhắc người chết rằng bây giờ họ chỉ có cái thân
ý sinh do tập quán cũ, bởi thế cũng là trống rỗng. “Bởi
thế cái trống rỗng không thể làm hại cái trống rỗng”.
Bản
chất
bấp bênh chóng qua của giai đoạn trung ấm có thể là
nguồn suối cho nhiều cơ hội giải thoát, và tính bén nhạy
của tâm trong trung ấm này có thể hóa ra lợi lạc cho chúng
ta. Chúng ta chỉ cần nhớ đến những lời giảng dạy; ta
chỉ cần có một tư tưởng tích cực khởi lên trong tâm ta.
Nếu ta nhớ được một giáo lý nào gợi cho ta tự tính tâm,
nếu ta có dù chỉ một khuynh hướng tu tập, hay một liên
hệ sâu xa với sự tu hành, ta cũng đủ nhờ vậy mà giải
thoát.
Trong
trung
ấm tái sinh, các cõi Phật không hiện ra một cách tự
nhiên như trong trung ấm pháp tính. Tuy nhiên, chỉ cần nhớ
đến chư Phật, bạn cũng có thể đi thẳng đến các cõi
Phật bằng năng lực tâm mình, và tiến đến giải thoát.
Nếu bạn có thể niệm danh hiệu một vị Phật, vị ấy liền
hiện ra trước bạn. Nhưng nên nhớ, mặc dù các khả năng
là vô giới hạn, chúng ta vẫn phải có sự tự chủ tâm ý
trong trung ấm này, và điều này vô cùng khó khăn, vì tâm
ta ở giai đoạn này hết sức bén nhạy, phân tán và bất
an.
Bởi
thế
trong trung ấm này, bất cứ khi nào bạn có thể tỉnh
giác dù chỉ trong thoáng chốc, thì bạn hãy lập tức nhớ
lại sự tu tập, nhớ thầy hay vị Phật mà bạn thờ, và
tha thiết triệu thỉnh ngài. Nhờ năng lực ân sủng của bậc
thầy hay vị Phật, tâm bạn sẽ được giải thoát, tan hòa
vào không gian của tâm giác ngộ. Sự cầu nguyện trong đời
dường như ít hiệu quả, nhưng trong cõi trung ấm lại có
hiệu quả mãnh liệt vô cùng.
Tuy
nhiên
sự mô tả trên đây về trung ấm chứng tỏ thực rất
khó mà tập trung tâm ở giai đoạn này, nếu ta không thực
tập từ trước. Hãy nhớ những lúc gặp ác mộng, ta cảm
thấy bất lực như thế nào, thì trong cảnh giới trung ấm
cũng khó tập trung tâm ý như vậy, nếu không nói là khó hơn.
Đấy là lý do Tử thư luôn nhắc đi nhắc lại một lời “đừng
xao lãng”. Và Tử thư nhấn mạnh:
Đến đây là ngõ rẽ giữa Phật và hữu tình...
TÁI
SINH
Vì
trong
trung ấm tái sinh, thời gian tái sinh càng gần, nên ta
càng thêm khao khát một thân xác làm chỗ nương, và ta đi
tìm một người nào có thể sử dụng để được tái sinh
vào đó. Những dấu hiệu bắt đầu hiện ra, báo cho ta biết
cái cảnh giới ta có thể tái sinh vào. Những ánh sáng đủ
màu chiếu từ sáu nẻo luân hồi, và ta cảm thấy bị thu
hút vào một cõi này hay khác, tùy theo cảm xúc tiêu cực nào
mạnh nhất trong tâm ta. Một khi ta đã bị lôi cuốn đến
đây thì thật vô phương trở lui.
Giáo
lý
về trung ấm dạy rằng, vào điểm ấy có nguy cơ lớn
là, do lòng nôn nóng thèm khát tái sinh, ta có thể xông tới
bất cứ nơi nào, dù ở đấy không có vẻ gì an ninh bảo
đảm. Sự giận dữ khởi lên sẽ đưa giai đoạn trung ấm
đến một kết thúc, vì ta sẽ bị đẩy vào cõi dữ bằng
chính năng lực cảm xúc của mình. Và như thế, ta có thể
thấy tái sinh tương lai của ta được trực tiếp định đoạt
bởi tham, sân, và si. Hãy tưởng tượng ta đang chạy về phía
một chỗ nấp, chỉ để tránh thoát kinh nghiệm đau khổ của
trung ấm. Rồi vì sợ phải từ bỏ tất cả, ta đâm ra ràng
buộc với một cuộc đời mới, bất kể ở đâu miễn là
được tái sinh. Khi ấy ta có thể đâm ra thác loạn, lầm
lẫn tái sinh tốt với xấu, xấu với tốt. Ta có thể nghe
tiếng gọi của những người thân yêu hoặc giọng ca hấp
dẫn, rồi chạy theo chúng, để cuối cùng bị dẫn dụ xuống
những cõi thấp kém.
Bởi
vậy,
phải cẩn thận đừng mù quáng đi vào những cõi vô
phúc ấy. Điều kỳ diệu là, ngay lúc ý thức được cái
gì đang xảy đến, thì ta có thể bắt đầu tác động, và
điều ấy ảnh hường đến số phận của ta.
Bị
đẩy
tới bởi ngọn gió nghiệp, thân ý sinh đi dến một
nơi ở đấy cha mẹ đang giao hợp, bị kéo vào trong cảm xúc
ấy; và do nghiệp quá khứ, nó tự
nhiên
cảm
thấy rất thương hoặc rất ghét. Sự quyến luyến người
mẹ, và thù ghét ganh tị với người cha sẽ đưa đến hậu
quả là nó sinh thành con trai, ngược lại là gái. Nhưng nếu
nó ngã quy trước những cảm xúc rất mạnh, thì nó có thể
sinh vào một cảnh giới hèn hạ.
Có
cách
nào ta có thể làm bây giờ, để tránh bị tái sinh hoặc
hướng dẫn sự tái sinh kế tiếp của ta không? Giáo lý về
trung ấm đưa ra hai chỉ dẫn đặc biệt: phương pháp ngăn
ngừa tái sinh, nếu không ngăn được, thì chọn một tái sinh
tốt. Đầu tiên là những chỉ dẫn để đóng cửa ngõ đi
vào một đời sống khác:
Phương
pháp
tốt nhất là từ bỏ những cảm xúc như tham dục, giận
dữ, ganh tị, và nhận chân rằng không một trạng thái trung
ấm nào có thực chất tối hậu.
Nếu
bạn
có thể nhận chân điều ấy, rồi để tâm an trú vào
bản chất chân không của nó, thì chính điều này sẽ ngăn
ngừa tái sinh. Tử thư Tây tạng báo cho chúng ta biết:
“Than
ôi
Cha và mẹ, cơn bão lớn, luồng gió xoáy sấm sét, những
cảnh tượng kinh hoàng và tất cả những gì hiện ra đấy,
bản chất đều huyễn ảo. Dù có hiện tướng gì đi nữa,
thì cũng không thực. Mọi chất liệu đều giả dối, trống
rỗng. Chúng như ảo ảnh, không trường tồn. Tham ái mà làm
chi? Sợ hãi mà làm chi? Như vậy là xem cái không thành cái
có...”
Tử
thư
lại khuyến cáo tiếp:
“Tất
cả
đều do tâm biến ra, và tâm ấy vốn là chân không, vô
sinh, không bị chướng ngại. Khi nghĩ vậy, hãy để tâm ngươi
tự nhiên trong bản chất của nó, như nước đổ vào nước,
cứ như nó là, thong thả, phóng khoáng và thư dãn. Khi để
nó an trú tự nhiên và thong thả, ngươi có thể bảo đảm
ngõ vào mọi tái sinh sẽ bị đóng lại”.
Phương
pháp
hay nhất kế tiếp để ngăn ngừa tái sinh là nhìn những
người có thể làm cha mẹ bạn như là Phật, hay thần hộ
mạng Yidam của bạn, và ít nhất, bạn hãy cố phát sinh một
cảm giác từ bỏ, không bị lôi kéo vào cảm xúc tham dục,
và nghĩ đến những cõi Phật thanh tịnh. Điều này sẽ ngăn
ngừa tái sinh và khiến bạn gặp được một trong những cõi
Phật.
Nếu
bạn
không thể an trú tâm đủ vững vàng để làm như vậy
thì còn có những phương pháp chọn lựa một tái sinh, liên
hệ đến những điểm mốc và những tướng các cảnh giới
khác nhau. Nếu bạn nhất định phải tái sinh, hay cố ý muốn
tái sinh để theo đuổi con đường tu tập và làm lợi ích
người khác, thì bạn không nên đi vào cõi nào khác cõi người
ta. Chỉ có ở đấy các điều kiện mới thuận lợi cho sự
tiến tu đạo nghiệp. Giáo lý về trung ấm cho biết, nếu
bạn sắp sửa sinh vào một hoàn cảnh tốt trong cõi người,
thì bạn sẽ cảm thấy mình đang đi vào một ngôi nhà sang
trọng đẹp đẽ, hay một đô thị, hay ở giữa một đám
đông.
Ngoài
những
cách ấy ra, thông thường chúng ta không có lựa chọn
nào. Chúng ta bị lôi kéo về chỗ thọ sinh của ta “như con
chim bị sa lưới, như
cỏ
khô
bắt lửa, hay súc vật sa đấm lầy”. Tử thư nói: “Này
hỡi thiện nam nữ, dù người không muốn đi người cũng không
có năng lực tự chủ; ngươi bị bắt buộc phải đi”.
Tuy
nhiên,
như giáo lý luôn luôn nhắc ta, vẫn còn có hy vọng;
bây giờ là lúc nên cầu nguyện. Nhờ tha thiết mong mỏi và
tập trung mãnh liệt, ngay trong lúc này, bạn vẫn còn có thể
tái sinh vào cõi Phật hoặc bạn có thể phát nguyện sâu xa
tái sinh vào một gia đình loài người ở đấy bạn có thể
gặp đường lối tu tập và tiếp tục tiến đến giải thoát.
Nếu bạn có một nghiệp nặng buộc bạn rơi vào một cảnh
giới đặc biệt nào, thì có thể bạn hết phương chọn lựa,
tuy nhiên, lời nguyện quá khứ và sự mong cầu của bạn có
thể giúp bạn chuyển số phận dể tái sinh vào một đời
sống mà một ngày nào đó sẽ đưa bạn đến giải thoát.
Ngay
cả
khi bạn đã nhập thai, cũng có thể cầu nguyện cho điều
này xảy ra. Bạn có thể quán tưởng mình như một chúng sinh
giác ngộ, như thần Kim Cương tát đỏa (Vajrasattva)–theo lời
các bậc thầy thuộc truyền thống nói–và làm cho cái thai
cung mà bạn đang vào biến thành một môi trường thiêng liêng,
“một cung trời” ở đấy bạn tiếp tục tu luyện.
Tôi sẽ tập trung nhất tâm thiền quán,
Và cố kéo dài những hậu quả của nghiệp tốt,
Cố mà đóng cái cửa ngõ tái sinh.
Đây là lúc cần tinh tấn và nhận thức thuần tịnh;
Hãy từ bỏ cảm xúc tiêu cực, và quán tưởng bậc đạo sư.
Cuối cùng, chính sự thúc giục của tự tâm muốn trú trong một cõi nào đó, đã buộc ta tiến về tái sinh, và chính khuynh hướng chấp thủ của tâm ta đã thể hiện thành thân tái sinh. Đây là giai đoạn kế tiếp trong tiến trình xuất hiện.
Nếu bạn thành công trong việc hướng tâm về một tái sinh thân người, thì tức là bạn đã di trọn chu kỳ. Bạn sẽ được sinh vào trung ấm tự nhiên của đời này, tức là giai đoạn nhập thai. Điều này kết thúc trung ấm tái sinh, khi tâm bạn một lần nữa kinh quá rất nhanh những tướng trạng của giai đoạn tan rã, và sự xuất hiện của ánh sáng căn bản. Rồi kinh nghiệm tối đen của sự “thành tựu” lại khởi lên, và đồng thời liên lạc với bào thai mới bắt đầu.
Như vậy đời sống khởi đầu cũng như kết thúc bằng Ánh sáng căn bản.