- 01. Bốn Chặng Đường Tỉnh Thức
- 02. Hồng Danh
- 03. Luận Vãng Sinh
- 04. Ý Nghĩa Trai Đàn Bạt Độ
- 05. Tương Quan Giữa Thiền Và Mật
- 06. Các Đề Mục Nguyên Thủy
- 07. Thân Hành Niệm
- 08. Ba Thời Chuyển Pháp
- 09. Câu Chuyện Dòng Sông
- 10. Ý Nghĩa Quy Y Qua Ba Chặng Đường Tu Tập
- 11. Phương Pháp Học Phật
- 12. Tiến Trình Chết & Trung Ấm
- 13. Trung Ấm Tái Sinh
- 14. Kêu Dài Một Tiếng Lạnh Hư Không
- 15. Cách Chữa Tim Tại Mỹ
Thích Nữ Trí Hải
Nhà Xuất Bản Tôn Giáo Hà Nội 2003
CÁCH
CHỮA TIM TẠI MỸ HIỆN NAY
(Theo
tác
phẩm Lật Ngược Bệnh Tim của tiến sĩ Ornish)
Đây
là
một phương pháp đã được kiểm chứng khoa học qua 14
năm nghiên cứu lâm sàng của nhiều tiến sĩ y khoa toàn cầu
và lần đầu tiên được tiến sĩ Ornish chuyên khoa bệnh tim
hệ thống hóa thành một trong những sách bán chạy nhất tại
Mỹ vào năm 1991, nhan đề “Chương trình lật ngược bệnh
tim” (Program for Reversing Heart desease). Bác sĩ đã thử nghiệm
một chương trình thay đổi toàn diện lối sống trên những
nhóm bệnh nhân có vấn đề tim trầm trọng như thừa cholesterol,
cao huyết áp, tức ngực, nghẽn động mạch vành hạn chế
lưu lượng máu vào tim gây nên chứng kích ngất v.v.. Chỉ
sau một thời gian ngắn, hầu hết bệnh nhân đều thấy tiến
bộ khả quan, mà không cần đến phẫu thuật và có thể giảm
hoặc ngưng hẳn việc dùng những thuốc hạ huyết áp hay cholesterol,
những y dược nguy hại nếu dùng lâu dài.
Chương
trình
thay đổi lối sống bao gồm nhiều phạm vi, vì những
cuộc thử nghiệm cho thấy bệnh có nhiều nguyên nhân khác
không kém quan trọng như sau.
1.
Cách ăn uống: dùng nhiều chất béo và kích thích như thịt
mỡ, dầu
Ô
liu, phó mát, trứng, v.v.
2.
Thuốc
lá, rượu, các thức uống có cocaine, caféine.
3.
Sự
luyện tập quá độ.
4.
Cách
đối phó những căng thẳng.
5.
Sống
cô lập.
Ta
hãy
lần lượt bàn đến những mục trên theo các khảo sát
của tiến sĩ Ornish, để thấy chương trình chữa trị này
rất phù hợp với lối sống của một phật tử. Nói cách
khác, người phật tử quy y giữ năm giới không những sẽ
tránh được bệnh tim mà còn tránh được nhiều bệnh tật,
và sống một cuộc đời
cao
thượng
tốt đẹp.
1.
Chế độ ăn uống.
Hiện
nay
ở Mỹ theo thống kê, có bốn mươi triệu người đau bệnh
tim mạch, 100 triệu người cao huyết áp, 80 triệu người có
mức cholesterol cao, và hàng năm có trên một triệu rưỡi người
được đưa đến bệnh viện cấp cứu vì những cơn suy tim.
Một trong những nguyên nhân gây bệnh là, họ ăn qưá nhiều
chất béo bổ. Những chất này tạo ra chứng thừa cholesterol,
lượng cholesterol này dần dần chất chứa làm tắc nghẽn
những động mạch vành khiến cho lưu lượng máu vào tim giảm
sút gây nên chứng đau ngực, kích ngất, v.v.. Bác sĩ Robert
Wissler nhà bệnh lý học (pathologist) nổi tiếng ở đại học
Chicago đã đem thức ăn thường xuyên của bệnh nhân trong
bệnh viện để cho những con khỉ ăn thì thấy sau một thời
gian, chúng đều bị chứng tắc nghẽn động mạch vành.
2.
Chất kích thích:
Nguyên
nhân
thứ hai gây bệnh là thuốc lá và những chất kích thích
như cocaine, cafeine. Cocaine được xem là chất kích thích mạnh
nhất gây nên những chứng co thắt động mạch, máu đông
cục. Một số lực sĩ có hạng của thế giới chết trẻ
vì sử dụng cocaine. Cafeine cũng có tác dụng tương tự nhưng
nhẹ hơn.
3.
Vận động.
Nơi
những
người bị xơ cứng động mạch, thì vận động thể
thao thực sự làm tăng trưởng nguy cơ bị máu đóng cục hoặc
động mạch co thắt trong thời gian tập luyện. Đấy là lý
do một số lực sĩ tử nạn trong lúc thi đấu. Sự luyện
tập mạnh bạo có thể đưa đến cái chết đột ngột nơi
những người ăn nhiều chất béo, hút thuốc lá, tính tình
nóng nảy và dùng nhiều chất kích thích. Ngược lại, sự
tập luyện vừa phải và điều độ thì rất lợi lạc cho
sức khỏe.
4.
Đối phó :
Cách
đối
phó những căng thẳng cũng là một yếu tố gây bệnh.
Người ta đã xét nghiệm thấy rằng không những thức ăn
làm tăng cholesterol mà cả những căng thẳng và cách ta đối
phó với chúng cũng có thể làm tăng cholesterol trong máu. Năm
trăm người đua xe hơi tại Indianapolis được thử máu trước
và sau khi đua thì thấy lượng cholesterol tăng sau cuộc đua.
Ở Mỹ, những nhân viên thuế vụ hàng năm cứ vào ngày 15
tháng Tư thì lại tăng cholesterol, và những sinh viên y khoa
vào kỳ thi cũng vậy.
Do
thế,
sự chữa trị những triệu chứng vật lý của căn bệnh
mà không kể đến những nguyên nhân căn để sâu xa thì chỉ
làm lắng dịu cơn bệnh một thời gian, rồi bệnh vẫn tái
phát. Người ta chỉ đổi bệnh này sang chứng khác mà thôi.
Tiến sĩ Ornish viết: “Thật khó đo đạc vai trò của sự
căng thẳng cảm xúc trên cơ tim, cho nên tầm quan trọng của
nó thường không được ghi nhận. Y khoa hiện đại căn cứ
trên khoa học, và những nhà khoa học có khuynh hướng chỉ
tin vào những gì có thể đo lường và quan sát, mặc dù những
gì đo lường được chưa chắc đã là những gì quan trọng
nhất. Cholesterol và huyết áp có thể đo dễ dàng, và có rất
nhiều loại thuốc hạ cholesterol và huyết áp. Điều này làm
cho y sĩ chữa trị lẫn các công ty dược phẩm dều có lợi.
Y sĩ chỉ có việc cho toa mua thuốc, khỏi cần giải thích
dông dài về những độc tố trong mọi loại thuốc để khuyên
bệnh nhân tự chữa bằng cách thay đổi lối sống.
Tại
Mỹ
hàng năm tài khoản dùng vào việc chữa bệnh tim là 78
tỉ Mỹ kim, lớn hơn bất cứ khoản chi cho bệnh nào khác.
Tiến sĩ y khoa Dean Ornish viết: “Nếu tôi làm một phẫu thuật
bắc cầu, công ty bảo hiểm của bệnh nhân sẽ trả ít nhất
ba mươi ngàn Mỹ kim. Nếu tôi làm một phẫu thuật angioplasty
(cho một quả bóng nhỏ vào động mạch tim bị nghẽn, rồi
bơm lên để khai thông lưu lượng máu), công ty bảo hiểm
trả ít nhất 7.500 Mỹ kim. Nếu tôi dùng cũng thời gian ấy
để dạy cho một bệnh nhân cách ăn uống và những kỹ thuật
để đối phó những căng thẳng, công ty bảo hiểm chỉ trả
không hơn một trăm rưỡi Mỹ kim. Nếu tôi dùng cũng thời
gian ấy để dạy cho một người chưa bệnh làm sao để giữ
gìn sức khỏe, tránh bệnh tật, thì tôi không được xu nào.
Bởi vậy, ta không ngạc nhiên khi các bác sĩ dành nhiều thì
giờ cho công việc nào được thù lao hậu hĩ, nhất là vì
ngay ở trường y, chúng tôi cũng không được học gì nhiều
về dinh dưỡng hay học cách điều động bệnh nhân thay đổi
lối sống. Chúng tôi không được học những cách đối phó
với căng thẳng trong chính cuộc đời mình, hoặc cách dạy
cho bệnh nhân những kỹ thuật xử lý những căng thẳng thần
kinh nơi họ. Bởi thế những bác sĩ y khoa chúng tôi thường
hành nghề theo cách mình đã được huấn luyện, và theo cách
chúng tôi được trả tiền để làm”.
“Chúng
tôi
những y sĩ cũng không làm những tấm gương tốt cho lắm:
Ngoài việc chúng tôi tập tảng lờ những nhu cầu cảm xúc
của bệnh nhân, không bao giờ lắng nghe họ, chúng tôi lại
còn được huấn luyện để tách rời đời sống cảm xúc
của mình ra khỏi nghề nghiệp”. Trong các nhóm nghề nghiệp
tại Mỹ, thống kê cho biết giới y khoa bác sĩ có tỉ số
cao nhất hàng năm về nghiện ngập và ly dị, và trung bình
y khoa bác sĩ chết sớm hơn các ngành nghề khác mười năm.
Hàng năm, riêng giới bác sĩ y khoa đã có một số lượng
bác sĩ tự sát bằng số lượng một khóa tốt nghiệp y khoa
tại một trường đại học lớn. Và đấy là chỉ mới kể
những vụ tự sát mà người ta có thể biết và thống kê.
Bởi thế thực cũng không lạ gì khi nhiều bác sĩ không tin
rằng sự lo lắng buồn sầu căng thẳng có thể góp phần
sinh bệnh.
Căng
thẳng
có hai: cảm xúc tâm lý (khi gặp nguy) và vật lý (do
thời tiết thay đổi hay do vận động). Khi gặp căng thẳng,
cơ thể dối phó theo hai cách. Trước hết, có những liên
hệ trực tiếp giữa tim và não. Cách thứ nhất là hệ thần
kinh giao cảm ở não bộ chuyền đến tim những tín hiệu làm
cho tim đập nhanh hơn, mạnh hơn, khiến những động mạch
vành co thắt lại. Thứ hai là não bộ khiến cho những bộ
phận khác như các tuyến thượng thận (adrenal glands) tiết
ra những kích thích tố như adrenaline và cortisol, những chất
này đi qủa các mạch máu để đến tim. Hậu quả những tín
hiệu từ những kích thích tố này là:
Những cơ bắp co thắt lại, làm cho cơ thể mạnh thêm, sẵn sàng để chiến đấu hay thoát hiểm.
Các nội tạng tăng tốc độ làm việc dể biến đổi và tái tạo các chất, khiến cho cơ thể có thêm năng lực để đánh hoặc chạy. Lưu lượng máu dồn về tim nhiều hơn.
Hơi thở gấp, muốn cung cấp dưỡng khí nhiều hơn để đánh hoặc chạy.
Hệ thống tiêu hóa đóng cửa, để dồn tất cả năng lực và máu về những cơ bắp đang sẵn sàng để chiến đấu hoặc chạy thoát hiểm.
Tai và mắt gia tăng khả năng nghe, thấy để dễ tự vệ .
Muốn bảo vệ bụng dưới khỏi bị tổn thương, cơ thể tự nhiên tuôn ra phân, tiểu, để đỡ gánh nặng trong khi chiến đấu hoặc thoát nguy.
Những động mạch ở tay chân đều co lại, để lỡ có bị thương thì cũng ít mất máu. (Do đó tay chân thường bị lạnh mỗi khi ta sợ gặp nguy.)
Máu
khởi sự đông nhanh hơn, để nếu có bị thương cũng không
mất nhiều máu.
Những
cơ
chế nói trên đã giúp cho cơ thể sống sót sau những tai
biến rõ rệt, những căng thẳng quyết liệt và đoản kỳ.
Nhưng sự căng thẳng cảm xúc của con người hiện nay có
tính cách kinh niên thầm lặng. Con người mỗi ngày bị nhiều
cơn căng thẳng, họ phải phản ứng lại những căng thẳng
ấy theo cơ chế nói trên, song khi căng thẳng qua đi, họ không
thể trở lại bình thường cho đến khi gặp căng thẳng mới.
Đấy là nguyên do bệnh tim phát triển trong đời sống hiện
nay, nhất là tại các nước tân tiến.
5.
Lối sống cô lập chỉ biết có mình:
Bệnh
tim
dễ dàng phát triển tại các nước giàu có cũng chính
vì yếu tố càng giàu, người ta càng cô độc và cố chấp
bản ngã.
Tiến
sĩ
Y Khoa Meyer Friedman và Ray Rosenman mô tả một hội chứng
họ gọi là “lối hành xử loại A” mà họ cho là nguyên
nhân gây bệnh tim. Đấy là kiểu cư xử của người hay thù
hận, cố chấp bản ngã, nóng nảy, luôn luôn vội vàng. Những
người thuộc hạng này thường bị ám ảnh phải đạt đến
những mục tiêu mơ hồ và rất cần được người khác công
nhận, nôn nóng tiến thủ. Họ có khuynh hướng làm một lúc
nhiều công việc như vừa nói chuyện vừa di chuyển thật
nhanh, v.v. Lúc đầu, những cuộc khảo sát cho thấy lối hành
xử thuộc loại A có quan hệ đến bệnh tim; nhưng về sau
những khảo cứu rốt ráo hơn đã không làm nổi bật được
mối tương quan ấy.
Những
bằng
chứng mới đây cho thấy tại sao trong những người
có lối hành xử loại A có người bệnh người không. Bác
sĩ Larry Scherwitz ở đại học California, Redford Williams ở đại
học Duke và những người khác chứng minh rằng vài yếu tố
trong lối hành xử loại A có liên quan đến bệnh tim, trong
khi những yếu tố khác thì không. Đặc biệt, những yếu
tố độc hại nhất của bệnh tim là chấp ngã, hận thù và
bi quan yếm thế.
Bác
sĩ
Scherwitz, BS Lynda Powell và những người khác khám phá rằng
người bệnh nào thường sử dụng những đại từ “tôi”
“của tôi” “cho tôi” ... trong cuộc đàm thoại thông thường,
thực sự báo trước một cơn suy tim sẽ tái diễn. Một người
càng dùng nhiều tiếng ấy bao nhiêu thì dễ chết vì bệnh
tim bấy nhiêu.
Trong
một
khảo cứu khác, bác sĩ Scherwitz phân tích những cuộc.
phỏng vấn được thu băng của 13 ngàn người trải qua chín
năm nghiên cứu, và khám phá ra rằng những người tự nói
về mình nhiều thì về sau phát triển bệnh tim thường xuyên
hơn những người khác. Nơi những người cuối cùng phải
chết vì cơn suy tim lại càng có mức độ chấp ngã lớn hơn
nhiều.
Tại
sao
sự thể lại ra như vậy? Dĩ nhiên, việc dùng những đại
từ nói trên “tôi, nhờ tôi, của tôi, cho tôi...” tự nó
không có gì tai hại. Nhưng khổ nỗi
là
lời
nói của chúng ta phản ảnh nhân sinh quan của ta. Khi ta
cảm thấy bị cô lập với mọi người, thì ta tập trung nhiều
hơn vào chính mình – “Tôi cần điều này, tôi muốn điều
nọ”.
Những
khảo
sát ấy đưa chúng ta tiến thêm một bước quan trọng
đúng hướng, nhưng nó còn nêu lên những vấn đề căn để
hơn, đó là: Tại sao chúng ta chấp ngã? Tại sao ta bi quan yếm
thế? Tại sao ta thù hằn? Có chăng một nguyên nhân căn
để hơn cho những cảm xúc ấy, những cảm xúc đã đưa đến
bệnh tim và các chứng bệnh khác?
Tôi
tin
là có, tiến sĩ Ornish khẳng định. “Nhờ sống mỗi lần
một tháng với bệnh nhân trong hai cuộc khảo sát trước,
và bốn năm sống gần gũi các bệnh nhân một cách thường
xuyên trong cuộc khảo sát thứ ba, tôi đã có được nhiều
cơ hội đặc biệt để tìm hiểu. Chúng tôi sống tập thể
biệt lập trong một tuần để những người tham dự học
những điều căn bản trong chương trình chữa bệnh. Rồi sau
đó mỗi tuần chúng tôi lại họp hai lần, mỗi lần bốn
tiếng, trong đó có một tiếng với BS Jim Billings, tiến sĩ
y khoa về môn tâm lý học lâm sàng, BS Shirley Brown, Mary Dale
Scheller cán sự xã hội, và tôi. Giờ này được gọi là “sự
nâng đỡ của tập thể”
Bởi
thế
chúng tôi khởi sự biết nhau khá rõ, và tôi luôn luôn
được học hỏi. Lúc đầu tôi chỉ xem những nhóm nâng đỡ
này như một cách để điều động bệnh nhân duy trì những
khía cạnh khác của chương trình mà tôi xem là quan trọng
hơn, như chế độ ăn chay, luyện cách xử lý những căng thẳng,
bỏ hút thuốc lá, vân vân. Dần dà, tôi bắt đầu nhận ra
rằng chính sự nâng đỡ của tập thể này là một trong những
lối chữa bệnh có hiệu lực hơn cả, vì nó đánh vào cái
mà tôi khởi sự tin là nguyên nhân căn để khiến ta cảm
thấy căng thẳng, khiến ta bị những chứng bệnh như đau
tim: nguyên nhân ấy chính là mặc cảm bị cô lập.
Tóm
lại,
bất cứ gì gây ra cảm giác cô độc đều đưa đến
căng thẳng, và thường đưa đến những chứng bệnh như đau
tim. Ngược lại, bất cứ gì đưa đến tình thân ái chân
thực, đến cảm giác mình có tương quan với mọi người,
thì đều có thể chữa lành trong ý nghĩa sâu xa nhất của
danh từ ấy, nghĩa là ráp lại, làm cho nguyên lành. Khả năng
thương yêu từ lâu đã được xem là chìa khóa của sức khỏe
cảm xúc; bây giờ tôi còn tin rằng nó có quan hệ mật thiết
đến sức khỏe của trái tim ta.
Có
hai
kỹ thuật tổng quát để tạo sự thân tình: theo chiều
ngang, là phát triển những tương quan giữa mình với người
khác; và theo chiều dọc, là phát triển những tương quan giữa
mình với những phần cao thượng hơn của chính mình.
Sự
thân
tình theo chiều ngang được thực hiện nhờ tham gia các
nhóm nâng đỡ, phát triển khả năng truyền thông, học sự
tha thứ, phát triển cảm giác tin cậy, thực hành hạnh vị
tha, v.v.. ,
Còn
cầu
nguyện và thiền quán là hai cách để có được quan
hệ thân tình theo chiều dọc. Gia nhập câu lạc bộ, nhà thờ,
giáo đường Hồi giáo v.v. giúp giảm nguy cơ chết sớm và
che chở người ta khỏi bệnh tim, ngay cả ở những người
cao huyết áp. Trong thời gian chín năm khảo sát, những bệnh
nhân giảm quan hệ xã hội đã cho thấy dễ chết vì bệnh
tim nhiều hơn.
Trong
một
khảo sát của bác sĩ Jay Kaplan, những con khỉ bị cắt
đứt liên lạc với đồng loại đã phát triển bệnh nghẽn
động mạch vành gấp hai lần những con khỉ không bị căng
thẳng, mặc dù mức cholesterol và huyết áp của chúng giống
nhau.
Tại
đại
học Houston, tiến sĩ Robert Nerem nghiên cứu một bầy
thỏ có di truyền tính giống nhau, chúng được cho ăn thật
nhiều chất béo. Những nhà nghiên cứu chờ đợi tất cả
chúng đều bị nghẽn động mạch nhưng sau một thời gian,
họ không thể hiểu tại sao những con thỏ ở chuồng trên
lại bị nghẽn nhiều hơn những con ở dưới. Hóa ra rằng,
chuyên viên cho thỏ ăn vốn là một người thấp, mỗi khi
đem thức ăn vào cô thường chơi với những con thỏ ở các
chuồng dưới thấp vì cô có thể với tới được trong khi
những con thỏ ở các chuồng phía trên cao mà cô điều dưỡng
không với tới thì bị bỏ rơi, cô lập. Các nhà khoa học
lặp lại cuộc khảo sát và thấy rằng những con thỏ thường
xuyên được vuốt ve, được nói chuyện với, đã chứng tỏ
giảm được trên 60 phần trăm chứng xơ cứng động mạch
so với những con thỏ không được lưu ý, trong khi chúng có
di truyền tính tương tự, được cho ăn giống nhau, lượng
cholesterol của chúng giống nhau, nhịp tim đập và huyết áp
giống nhau.
Tiến
sĩ
Ornish đi tìm ngọn nguồn bệnh tim bằng một loạt những
câu hỏi:
–
Cái gì đầu tiên làm phát sinh bệnh tim? Đó là cách phản
ứng của người ta trước những căng thẳng, như giận dữ,
thù hiềm, oán hận. Đó là tình
trạng
ôm
khư khư một mối hận như được nói trong kinh Pháp cú:
“Nó đánh tôi, mắng tôi–Nó cướp tôi hại tôi– Ai ôm
hiềm hận ấy–Hận thù không thể nguôi”.
–
Vì sao có phản ứng “hận thù khôn nguôi” đó? Vì quá đặt
nặng bản ngã, xem cái tôi vô cùng quan trọng.
–
Vì sao có thái độ xem mình là quan trọng (hay nói theo danh
từ Phật là “chấp ngã”)? Vì người ta tưởng mình tách
biệt với mọi người, mọi sự vật khác với “ta”. Tư
tưởng này phát sinh một vòng lẩn quẩn như sau:
Khi
tách
biệt với mọi người, ta tập trung vào bản ngã, tự
cô lập. Tự cô lập đưa đến mặc cảm bị bỏ rơi. Mặc
cảm bị bỏ rơi sinh ra cảm giác cô đơn. Cảm giác cô đơn
sinh ra đau khổ, bi quan yếm thế. Bi quan yếm thế đưa đến
một trong hai loại phản ứng đều dễ sinh bệnh: hoặc bị
căng thẳng kinh niên vì luôn luôn sợ hãi, nghi ky, đề phòng,
nghĩ tất cả đều có thể hại mình (tình trạng những người
đã từng ở tù hoặc bị tập trung cải tạo); hai là sống
bất cẩn (một kiểu tự tử chậm) bằng nhiều cách, như
làm việc quá sức, uống rượu, chích á phiện, hút thuốc
lá... Những thứ này tạm thời làm lắng dịu cơn đau khổ,
nhưng sau đó cảm giác cô độc lại càng tăng, làm cho người
ta rơi vào một vòng lẩn quẩn.
Mặc
cảm
cô độc còn phát sinh do lòng tự ái đặt sai chỗ. Khi
ta đặt giá trị con người của mình vào hậu quả một sự
cố nào đó (như đoạt giải vô địch bóng cầu quốc tế),
vào lối hành xử của một người nào đó (như được họ
hoan nghênh), thì ta đã cho sự cố ấy hay con người ấy cái
quyền năng trên cuộc đời mình, có thể đem lại hạnh phúc
hay đau khổ cho mình, và cuối cùng có thể làm cho mình sống
hoặc chết. Trong cuộc khảo sát của tiến sĩ Ornish, đã xảy
ra một bi kịch chứng minh điều này. Sam là một bệnh nhân
tham gia chương trình thay đổi lối sống, sau mười tháng anh
đã tiến bộ rất khả quan về nhiều phương diện vật ìý.
Nhưng trong những cuộc thảo luận nhóm hàng tuần để tạo
tình thân thiết giữa con người dể đánh tan cảm giác cô
lập, anh ta không bao giờ phát biểu và thường tránh tham dự,
tránh tiếp xúc. Anh lại là người háo thắng, luôn luôn vượt
chỉ tiêu những cuộc luyện tập mà chương trình đề ra,
để chứng tỏ bệnh mình đã bình phục. Một lần, sau một
trận đấu đua thuyền với những chiếc thuyền trên máy vi
tính, anh tuyên bố thắng cuộc và chết liền sau đó vì một
cơn kích ngất. Khi giải phẫu tử thi anh, bác sĩ tìm thấy
một cục máu đông trong một động mạch vành, và một động
mạch vành khác của anh bị co lại, phát sinh chứng nội xuất
huyết. Cảm xúc căng thẳng của anh lại do phản ứng của
anh trước trò chơi điện tử mà anh xem như trận đấu một
mất một còn; và rủi thay, sự tình đã xảy ra đúng như
vậy đối với Sam. Sau đó bác sĩ lại biết thêm, sở dĩ
Sam tránh tiếp xúc mọi người là vì anh có một bí ẩn muốn
giấu kín. Anh đã tuyên bố khi mới tham gia chương trình rằng
anh là một cầu thủ quốc tế, trong khi kỳ thực anh chưa
từng tham gia trận đấu nào. Anh không muốn mọi người khám
phá điều bí mật đó.
Sam
đã
sai hai lần: tự đặt cho mình một giá trị tưởng tượng
(cầu thủ quốc tế); và tưởng rằng mọi người chỉ công
nhận anh nếu anh là cầu thủ quốc tế.
Tóm
lại,
căng thẳng không chỉ do việc ta làm mà còn do cách phản
ứng của ta trước công việc ấy. Cách phản ứng của ta
lại tùy thuộc thái độ sống của ta. Nếu ta xem mình là
một cái gì biệt lập với xã hội thay vì là một phần từ
của xã hội, thì chúng ta dễ cảm thấy bị căng thẳng kinh
niên. Sự căng thẳng thường xuyên này lại có thể đưa đến
bệnh tim vừa do hậu quả trực tiếp của nó trên quả tim,
vừa do những mẫu mực sống tự hủy của người ta phát
sinh từ mặc cảm bị cô lập. Như vậy, bất cứ gì giúp
con người vượt qua mặc cảm cô đơn đều có thể chữa
lành bệnh.
Sự
thay
đổi toàn diện lối sống mà tiến sĩ Ornish đề ra bao
gồm những điểm như sau:
1.
Ăn chay hoàn toàn. .
2.
Tuyệt
đối tránh thuốc lá, rượu, café, á phiện.
3.
Tập
thể dục đều đặn theo các thế thể dục yoga hay dưỡng
sinh.
4. Giúp đỡ mọi người và dược sự nâng đỡ của tập thể. Sư mở lòng ra với mọi người, thương yêu kẻ khác là một cách để chữa lành trái tim và tâm hồn. Sự cầu nguyện cũng cho thấy mối tương quan giữa những con người đồng thời đại, bất kể theo tôn giáo nào.
5.
Thiền định và quán tường để tiếp xúc với phần cao siêu
sâu xa của bản ngã. Sự quán tưởng thân thể lành mạnh
giúp rất nhiều cho sự chữa lành thực sự, như kinh Pháp
cú nói: “Ý dẫn đầu, ý tạo tác tất cả” .Sự cô lập
của con người – nguyên nhân gây bệnh – xảy ra ở ba phương
diện: cô lập với chính mình, với người khác và với một
năng lực cao siêu bất kể đó là Phật, Chúa, hay sinh thái
vũ trụ. Một thử nghiệm của tiến sĩ Ornish cho thấy khi
con bệnh bắt liên lạc được với phần thâm sâu nhất của
chính mình thì có thể chữa lành bệnh. Tiến sĩ Ornish viết:
“Khi
chúng
ta khởi sự có can đảm nhìn vào những khía cạnh đáng
sợ trong chính ta, thì có thể xảy đến những điều kỳ
diệu”.
Sau
đây
là một ví dụ: John Cardozo một bệnh nhân tham dự chương
trình chữa trị, lần đầu tiên cố làm pháp quán tưởng
thụ động trước một nhóm chúng tôi. Sau đây là cuộc nói
chuyện giữa bác sĩ Ornish và bệnh nhân trong tư thế tập
trung quán tưởng, gần như bị thôi miên:
– Bác sĩ: Được. Hãy nhắm mắt lại và đưa tâm bạn đến nơi cổ họng. Nếu cảm xúc ấy phát ra tiếng được, thì đó là tiếng gì? Có tiếng gì muốn thoát ra không?
– John: Nó giống như tiếng sấm.
– BS: Bạn có thể phát lại tiếng ấy không?
– John: Tôi có thể mô tả. Đó là một tiếng sấm vang dội rất thâm trầm.
– BS: Hãy ở lại với cảm giác ấy. Hãy để cho nó tràn ngập trong bạn. [ngừng một lát] Bạn nghe gì?
– John: Tôi nghe một tiếng reng.
– BS: Có lớn không?
– John: Lớn.
– BS: Bây giờ, hãy ở lại với tiếng ấy một lát. [ngừng] Bây giờ, cái gì xảy đến?
– John: Nó đang tràn ngập người tôi..
– BS: Hãy để toàn thân bạn tràn ngập âm thanh ấy. Hãy cho tôi biết có hình ảnh nào xuất hiện trong tâm bạn hay không, hay nó vẫn là một âm thanh.
– John: Nó là một âm thanh ngân nga.
– BS: Bạn nghe nó từ đâu? Bạn cảm thấy nó đến từ đâu?
– John: Tôi cảm thấy nó ở đây (chỉ vào bụng dưới) và đây (chỉ vào cổ họng).
– BS: Được. Bây giờ cái gì xảy ra?
– John: âm thanh dưới bụng đang đi lên tới lồng ngực tôi và nối liền lại.
– BS: Nó giống như thế nào?
– John: Như một cái đai.
– BS: Được. Cứ ở lại với cảm giác ấy một phút. (ngừng). Bây giờ bạn cảm thấy thế nào?
– John: Chặt cứng.
– BS: Được. Bạn có thể quán tưửng trái tim bạn bây giờ ra sao không?
– John: Nó rất nhỏ và bị vây kín.
– BS: Vây kín trong cái đai ấy?
– John: Vâng.
– BS: Và chính cái đai phát ra âm thanh?
– John: Phải.
– BS: Nó giống gì?
– John: Giống bê tông.
– BS: Xin bạn hãy mô tả nó càng chi tiết càng hay, dùng nhiều cảm quan càng tốt.
– John: Nó hình tròn, như một bức tường chắn ngang rất chắc chắn bằng đá hoa cương.
– BS: Không cần nói lớn, hãy hỏi thầm bức tường ấy hay cái đai ấy hay bất cứ tên gì bạn muốn gọi, hãy hỏi xem nó có tên gì hay không, hay có tiếng nói gì không, hay nó có thể tự giới thiệu cho bạn biết nó là cái gì, bằng một cách nào đó. Nó sẽ phát ngôn lặng lẽ mà rõ ràng, hoặc nó sẽ không nói gì cả.
– John: Nó nói nó là một cái tủ két.
– BS: Được.
– John: Bây giờ nó đang nói tên của nó là tủ két.
– BS: Hãy hỏi tủ két ấy, nó làm nhiệm vụ gì, có mục đích gì.
– John: Che chở tôi.
– BS: Che chở bạn khỏi cái gì?
– John: Khỏi bị lố bịch.
– BS: Rồi. Hãy nhận chân điều ấy và cám ơn tủ két đã che chở bạn khỏi bị lố bịch. [ngưng]. Bây giờ nó có nói gì để đáp lại khi bạn cám ơn nó không?
– John: Nó không nói, nhưng nó hài lòng.
– BS: Hãy hỏi xem nó cờn che chở bạn khỏi cái gì nữa?
– John: Không.
– BS: Khi bạn nói “lố bịch”, hình ảnh gì khởi lên trong bạn?
– John: Bị cười nhạo lúc tôi còn bé.
– BS: Hình ảnh nào nổi bật nhất đang hiện ra, giai đoạn nào bạn cảm thấy bị lố bịch?
– John: Tôi thường cảm thấy vậy luôn.
– BS: Bạn có thể nghĩ đến một ví dụ nào đó hiện lên trong trí, khi bạn nghe hai tiếng “lố bịch”?
– John: Vâng, đó là vào năm tôi chừng 11 tuổi tôi bị người ta cười vì ném banh tuyết không giống nhừ một đứa con trai ném, mà giống con gái.
– BS: Hãy hình dung cảnh tượng ấy một cách chi tiết. Điều ấy làm bạn có cảm tưởng như thế nào?
– John : Như thể là tôi muốn trái đất nẻ ra nuốt tôi xuống và tôi sẽ biến mất trên đời.
– BS: Hãy ở lại với cảm giác đó, dù nó khó chịu thật. Bây giờ bạn thấy ra sao?
– John: Như thể tôi đang nấp sau tủ két, nó che chở tôi.
– BS: Hãy cám ơn nó đã che chở cho bạn khi bạn cần che chở. Nhưng hãy hỏi xem nó có thể trở thành trong suốt, mở ra, để bạn không còn ngăn cách với trái tim của bạn hay không?
– John: Nó nói "được".
– BS: Vậy bây giờ bạn thấy gì? Sau lưng nó có những gì?
– John: Rất nhiều gương mặt.
– BS: Bạn có nhận ra người nào không?
– John: Có. Mọi người trong nhóm tối nay.
– BS: Bạn có thấy trái tim bạn ở đâu không?
– John: Tôi không thấy rõ lắm.
– BS: Vậy bạn thấy gì?
– John: Tôi vẫn thấy nó bị một bức tường vây kín.
– BS: Hãy hỏi bức tường đang vây kín tim bạn, mục đích nó là gì?
– John: Gần như nó đang giữ một cái gì cho khỏi tuôn ra, hơn là sợ một cái gì ở ngoài vào.
– BS: Được. Hãy hỏi bức tường, nó đang giữ cái gì trong ấy?
– John: [ngưng] Nước mắt. Sợ bị lố bịch.
– BS: Hỏi bức tường có thể mở ra, để cho nước mắt bạn tuôn ra không? Nó có thể đóng lại nếu việc ấy quá đau đớn. Rồi cám ơn nó lần nữa vì đã che chở bạn.
– John: Được. [Anh ta khởi sự khóc rưng rức. Một lát sau, anh mỉm cười.]
– BS: John, Bây giờ bạn cảm thấy thế nào?
– John: Dễ chịu hơn nhiều lắm, và an ổn hơn.
– BS: Hãy thưởng thức niềm vui ấy trong chốc lát Bây giờ, bạn còn nghe tiếng sấm không?
– John: Không.
– BS: Còn có cảm giác tắt nghẽn ở cổ họng không?
– John: Không.
– BS: Bây giờ, hãy mở mắt ra. Bạn còn muốn nói gì nữa không?
– John: Tim tôi cảm thấy được cởi mở hơn nhiều.
– BS: Tôi đoán rằng nếu bạn chịu khó tự hỏi lòng mình nhiều lần, bạn sẽ khám phá nhiều hơn nữa. Thật cần rất nhiều can đảm để làm điều bạn đã làm trước một nhóm người. Đấy là điều khó làm nhất, và cũng chữa lành một cách sâu xa nhất.
Để kết luận, ta có thể nói phương pháp bác sĩ Ornish dùng để chữa tim rất gần với cách luyện tâm trong đạo Phật. Nó không những giúp chữa lành trái tim vật lý mà còn chữa lành tâm bệnh chấp ngã trầm trọng nơi con người. Ảnh hưởng của nó thật sâu xa, bằng chứng là hiện nay có rất nhiều người Mỹ trẻ tuổi ăn chay, hành thiền, bỏ thuốc lá và các thứ nghiện ngập khác./.