Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

04. Pháp của Ðại đức Sàrìputta

10 Tháng Giêng 201200:00(Xem: 5669)
04. Pháp của Ðại đức Sàrìputta

Cuộc đời tôn giả Xá Lợi Phất

Tác giả: Nyanaponika Thera - Dịch giả: Nguyễn Điều

PHẦN THỨ TƯ

PHÁP CỦA ÐẠI ÐỨC SÀRÌPUTTA

Những Kinh đã được Ðại đức Sàrìputta thuyết ra bao gồm nhiều đề tài khác nhau có liên hệ với đời sống phạm hạnh. Nó diễn tả từ những tư thức đơn giản đến những điểm sâu xa trong giáo lý và sự thực hành thiền định của nhà Phật. Một bảng kê khai những bài pháp ấy với sự trình bày tổng quát về mỗi đề tài sẽ được đưa ra dưới đây. Vị trí sắp xếp của chúng trong Kinh tạng không chỉ rõ một hệ thống đạo sử nào để người Phật tử có thể định được thời gian tính của nó.

Tuy nhiên, cũng có một số ít nội dung các cuốn Kinh nói về những biến cố đặc biệt đã xảy ra và được ghi nhận trong thời gian Ðức Phật còn sanh tiền và đang lãnh đạo Giáo hội.

PHÁP CỦA ÐẠI ÐỨC SÀRÌPUTTA TRONG MAJJHIMANIK€YA GỒM CÓ:

PHÁP SỐ 3: NHỮNG KẺ THỪA HƯỞNG PHÁP BẢO (DHAMMA DAµYAµDA)

Sau khi Ðức Phật đã thuyết về “Kẻ thừa hưởng Pháp bảo và loại người đáng thừa hưởng của cải trên đời”, Ngài bèn vào tư thất an nghỉ. Ðại đức Sàrìputta liền tiếp tục giảng giải cho chư Tỳ-kheo về đề tài “Làm thế nào để kềm chế lấy mình và tại sao không kềm chế được?”.

Sau thời pháp là lúc Ðức Bổn Sư nhập định, họ bèn theo cách đó để luyện tập cho tư tưởng mình trở nên thuần thụcthanh tịnh hầu loại trừ những điều phóng tâm lẫn chán nản. Kết quả là tâm họ đã trở nên trong sángưa thích pháp cô tịch. Lý do, Ngài đã nói rõ sự nguy hiểm của mười sáu Tùy phiền não trong tâm và chỉ cho Tăng chúng biết được con đường Trung đạo, con đường có thể tận diệt tất cả các pháp xấu xa. Hay nói cách khác đó là Bát Chánh đạo.

PHÁP SỐ 5: SỰ CHẤM DỨT TỘI LỖI

Trong số bốn hạng người:

Kẻ gây tội và biết rằng đó là tội.

Kẻ có tội mà thành tâm ăn năn quyết lòng chừa bỏ.

Kẻ không làm tội và ghê sợ tội lỗi.

Và kẻ không tội lỗi mà luôn luôn tinh tấn tiêu diệt những nguồn gốc gây ra tội lỗi.

Nếu phạm tội mà biết rằng đó là tội hoặc khi mình dễ duôi phạm nhằm tội lỗi rồi sau đó tự ăn năn, vẫn còn có thể giác ngộ, hơn là làm tội mà không biết tội hay có tội mà không ý thức được nó.

Ðại đức Sàrìputta đã giảng giải rõ ràng tại sao Phật giáo lại phân tích như vậy. Trong bài pháp này, Ngài còn chỉ rõ tầm quan trọng trong việc tự kiểm soát lấy tư tưởng và làm sao tạo cho nó sự phát triển.

PHÁP SỐ 9: SAMMAµDITïTïHI SUTTA

Nói về Chánh kiến (Sammàditïtïhi) xin xem cuốn “Chánh Kiến Trong Ðạo Phật”.

PHÁP SỐ 28: MAHAµ HATTHIPAµDA PAMA SUTTA

Ðó là bài pháp khá sâu sắc, nói về “Sự so sánh những bước chân voi” (Hatthipàda) đã được nhắc đến trong đoạn trước.

PHÁP SỐ 45: MAHAµ DEVALLA SUTTA

Bài pháp thuộc loại thâm thúy này nhắc lại sự Minh giảng của Ðại đức Sàrìputta trước một số câu hỏi do Ðại đức Mahà Kotthika đặt ra. Ðại đức ấy cũng là một trong những người đã đạt được Tuệ phân biệt.

Trưởng lão Sàrìputta đã tạo cho cuộc đối đáp trở nên vô cùng tuyệt diệu với những câu hỏi sáng sủa và những đoạn trả lời thâm thúy, sâu xa đã làm cho thính giả lẫn người luận đạo chấp nhận một cách thích thú mọi khía cạnh trong chiều sâu của trí tuệ. (Dĩ nhiên là bắt đầu bằng Chánh kiếnkết thúc bằng Chánh định.)

PHÁP SỐ 69: GULISSAµNI SUTTA

Ðây là bài pháp thuyết cho ông Gulissàni nói về phương diện trông nom cũng như thực hành Pháp bảo của các Tăng sĩ trú ngụ trong rừng. Ðại đức Mahà Moggallàna (Mục-kiền-liên) đã đặt nhiều câu hỏi để bàn luận. Ðức Trưởng lão còn xác nhận rằng “Không phải riêng những Sa-môn ẩn tu trong rừng mà ngay cả các Tăng sĩ ngụ trong những vùng phụ cận thành phố cũng phải thực hành cùng một phận sự mà Pháp bảo đã dạy rõ”.

PHÁP SỐ 79: DHAµNANJAµNI SUTTA

Ðại đức Sàrìputta giảng giải cho ông Bà-la-môn Dhànanõjàni nhiều phận sự khác nhau của một người Cư sĩ, là không phải chỉ lo sám hối những ý nghĩ hay hành động sai lầm. Cũng không phải cứ lo làm sao tránh khỏi những hậu quả đau khổ của những tội lỗi đã tạo từ trước sẽ đem đến trong tương lai.

Khi chưa lâm chung, còn nằm trên giường bệnh được nghe bài pháp ấy, ông đã tỉnh ngộ trút hết những phiền toái trong tâm, rồi một lòng tin nơi Ðại đức Sàrìputta, niệm tưởng đến ân đức của những bậc Phạm hạnh. (Như đã nói ở đoạn trước, trang 102).

PHÁP SỐ 114: ASEVITABBA SUTTA

Pháp nói về điều nên thực hành hay chẳng nên thực hành (Sevitabba: Nên. Asevitabba: Chẳng nên).

Ðại đức Sàrìputta nghiên cứu kỹ lưỡng những lời dạy tóm tắt của Ðức Phật về các pháp nên thực hành, nên nuôi nấng hay phát triển. Và những pháp nào không nên thực hành như thế. Pháp này được trình bày một cách có liên hệ với những hành động, lời nóiý nghĩ của con người luôn luôn bị ảnh hưởng bởi những đối cảnh của Lục căn.

PHÁP SỐ 143: ANAµTHAPINÞDßIKA SUTTA

Pháp thuyết cho ông bá hộ Cấp-cô-độc (AnàthapinÝdÝika): Ðại đức Sàrìputta đã đến bên giường bệnh để giảng giải cho ông bá hộ Cấp-cô-độc nghe về sự gìn giữ tâm hồn, không cho dính mắc vào những âu lo cố hữu.

Ngài hướng dẫn bệnh nhân lần lượt từ căn thức một và dạy ông theo lối kiểm soát: “Này người thợ sanh diệt. Ta không còn âu lo ở con mắt, không còn âu lo ở lỗ tai, không còn âu lo ở cái lưỡi, không còn âu lo ở lỗ mũi, không còn âu lo ở làn da xúc cảm nữa. Vì ngươi đã không bao giờ ngừng nghỉ việc tạo ra xác thân ô uế này. Nó đã chứa trong đó sáu cái nguy hiểm mà giờ đây ta đã biết rồi. Chúng đã được sáu đối tượng là hình sắc, âm thanh, mùi thơm, vị ngọt và sự xúc tiếp vừa lòng nuôi nấng. Sáu sự cấu hợp ấy đã tạo ra sáu cảm nhận đầy vô thường, đầy phiền não”.

Ông cứ tiếp tục quán xét như vậy, ghi nhớ theo thứ tự từ Lục thức, Lục nhập (hay còn gọi là Lục thọ), rồi đến những biến thức trong thiền tâm. Những hình thức gồm sự tan rã từ một thế giới này sanh ra một thế giới khác. Và tất cả các cảnh giới cũng thế. Nghĩa là thoát ly khỏi những màng lưới ràng buộc của Danh và Sắc.

Tóm lại, chỉ có phép quán xét để an tịnh thì mới nên thực hành cho thuần thục, thấm nhuần bởi khi một người sắp chết, sự bắt đầu cho một kiếp sống tiếp theo chính là ở chỗ tâm trí an trụ, các thức sẽ duyên theo đó mà tiến sanh.

PHÁP CỦA ÐẠI ÐỨC S€R…PUTTA

TRONG D…GHA NIK€YA

PHÁP SỐ 28: SAMPASAµ DANIYA SUTTA

Ân đức trọn lành là nguồn phát sanh niềm tin tưởng. Ðại đức Sàrìputta đã ca ngợi một cách hùng hồn ân đức của chư Phật trước sự hiện diện của Ðức Bổn Sư, khi đó Ngài đang thuyết về những phẩm tính vô song (Anuttariya) của những bậc Toàn giác. Ðó là sự phát biểu đúng lúc để nói lên lòng tin tưởng tuyệt đối của Ðại đức Sàrìputta đối với Ðức Phật. Ðây có thể xem như một sự bổ túc cho bài pháp được Ðức Phật mệnh danh là “Tiếng gầm con sư tử” (Sìhanada) của Ðại đức Sàrìputta. Nội dung của nó hoàn toàn trùng hợp với phần đầu của một đoạn giảng giải về giáo lý giải thoát đã được ghi trong Kinh Mahà Parinibbàna.

PHÁP SỐ 33: SANGI½TI SUTTA

Ðây là một bài pháp do Ðại đức Sàriputta nghe Ðức Phật thuyết rồi lập lại một cách thuộc lòng trong Kinh Sang­ti Sutta.

PHÁP SỐ 39:

Một bài pháp gồm 10 chi, cắt nghĩa rộng rãi, đã được nói một cách tóm tắt ở đoạn trước (Pháp này nằm trong Kinh Dasutara Sutta).

TRONG ANGUTTARA NIK€YA

Những số La mã sau đây là số đánh trên các cuốn sách (Nipàta) và những “số thường” là số những bài Kinh. Sự phân chia các Kinh phần trong Anguttara Nikàya chỉ danh số như vậy.

II. 37. SAMACITTA SUTTA

Pháp này nói về sự Nhập lưu (kể từ Tu-đà-hoàn trở lên). Và các Thánh chỉ tái sanh lại một lần mà thôi. Pháp ấy còn nêu rõ điều kiện tái sanh của chư Thánh A-na-hàm nữa.

III. 21

Pháp phân biệt những đấng Cao thượng (Aniya Puggala). Thân biệt chứng là hậu quả của Chánh kiến hoàn toàn (Ditthipatto) và được giải thoát là nhờ Ðức tin vững chắc (Saddhà Vimutto).

IV. 79

Ðại đức Sàrìputta bạch hỏi Ðức Phật tại sao lòng can đảm của một số người lại bị chướng ngại pháp đánh bại. Có một số người khác nhờ lòng can đảm ấy đã chiến thắng được chướng ngại pháp, và những thành quả đôi khi còn vượt khỏi sự mong muốn của họ. Ðức Phật trả lời rằng: “Sức mạnh chính trong lòng can đảm là có tâm đại lượng”. Nếu thiếu đức tánh đó thì lòng can đảm không thể bền bỉ để vượt qua mọi ác pháp. Ðó là điều mà chư Phật đã chỉ rõ và hằng được các hàng Ðạo sĩ hay Bà-la-môn thực hành từ lâu.

IV. 156

Pháp này nói về bốn điều Thái quá và bốn Trực giác tánh. Bốn điều Thái quá thì làm nguyên nhân của sự biến mất những trạng thái tinh thần lành mạnh. Còn bốn Trực giác tánh thì khiến cho hành giả biết được cách chắc chắn là họ sắp mất thiện tâm. Ðức Thế Tôn gọi bốn điều Thái quá là pháp Hư hỏng và bốn Trực giác tánh là nền tảng của Trí tuệ. Vậy bốn điều Thái quá ấy là gì?

– Là tham quá độ. Oán giận quá độ. Dối trá quá độ. Ngu dốt (hay Vô minh) quá độ. Người mắc phải bốn điều thái quá ấy rồi thì khó đạt đến quả Giác ngộ.

Ngược lại nếu một người có bốn Trực giác tính thì khi những ác pháp như tham, sân, si, dối trá phát sanh họ lập tức cảnh giác không để cho chúng lộng hành thái quá. Rồi từ đó họ tinh tấn giũa mòn chúng lần lần để trở lại làm chủ được lý trí và phát triển trí tuệ. Họ chắc chắn sẽ chứng quả Giải thoát.

IV. 167

Nói về sự không dễ duôi, không lười biếng và hạnh tinh tấn. Ðó là những pháp phát triển vững chắc trên con đường giải thoát.

IX. 171

Ðại đức Sàrìputta phân tích về một lời dạy tóm tắt của Ðức Phật bao gồm cả những trạng thái Chấp ngã (Attabhàva) và đặt một câu hỏi bổ túc. Ðức Phật đã giảng giải rành câu hỏi đó và được Ðại đức Sàrìputta tái thuyết lại trong Kinh Samacitta Sutta.

IX. 172

Ðại đức Sàrìputta nói rõ về sự ngài đã đạt đến bốn Tuệ phân biệt (Patisambhidànõàna) hai tuần lễ sau khi ngài được xuất gia (nghĩa là cùng lúc ngài đắc quả A-la-hán). Ngài công bố như vậy cốt để Ðức Phật xác nhận.

Phần Pháp luận với ngài Mahà Kotthika về những giới hạn của hai pháp có thể cắt nghĩa được là pháp Ngoại trần và pháp Nội thức (Phassayatana). Sâu xa hơn nữa là nói về thế gianđặc tính phân tán và sau khi phân tán, hình thức của cõi người sẽ biến thể ra sao. Theo đó, Ngũ trần dù nằm trong trạng thái vi tế... (Tiểu thế giới) hay trong khung cảnh hoàn vũ (Ðại thế giới) đều luôn luôn vô thường. Khi Ngũ trần vô thường thì Ngũ căn cũng không thể nào vững bền được. Kết quả, Lục thức, nhất là Ý thức là những cái hoàn toàn giả tạo. Ðại đức Sàrìputta nhắc lại lời Phật dạy: “Ai có Chánh kiến thì nhận thức được như thế và sẽ chắc chắn giải thoát”.

IV. 175

Nói về sự cần thiết trong việc kiểm soát được cả hai cảm thức: Cảm thức ngoại cảnh và cảm thức nội tâm. Ðồng thời với khả năng suy luận một cách hợp lý (Vijjàcarana) sẽ giúp cho hành giả chấm dứt được một số tà ý hay phiền não.

IV. 179

Pháp đề cập về những động lực hỗ trợ để đạt đến Niết-bàn, và những chướng ngại cản trở sự tiến tới mục tiêu ấy.

V. 165

Nói về năm nguyên nhân tại sao người đời thường chất vấn một vị Sa-môn với một ý nghĩ khinh thường rằng: “Nếu ông ấy trả lời câu hỏi một cách đúng đắn thì tốt, bằng không ta sẽ dạy lại cho ông ta cách giải đáp”. Ðây chính là một ý định tội lỗi do vô minh ngã mạn gây ra. Ác tánh đó chỉ có ở hạng người phàm tục chứ không bao giờ phát sanh trong tâm một vị Thánh hay Bồ-tát.

V. 167

Pháp nói về phương pháp để thanh lọc các hàng Tăng lữ trong Giáo hội.

VI. 14, 15

Nói về hai nguyên nhân hằng gây ra hậu quả trong giờ phút lâm chungtrạng thái tâm tánh êm dịu hay bứt rứt. Ý nói cái chết diễn ra một cách bình thản hay đau khổ.

VII. 41

Ðại đức Sàrìputta giảng rằng một Sa-môn khi đã có những sức mạnh siêu phàm. Nếu vị ấy vui mừng tán dương sức mạnh đó vững chắc như tảng đá, tinh túy như một chất nước lấy ra từ những đóa hoa, có sức thiêu đốt như lửa, bàng bạc mọi nơi như không khí. Hoặc giả Sa-môn ấy, cứ xem thường nó, coi như không có gì cả thì năng lực siêu phàm ấy vẫn có thể hỗ trợ hành giả một cách hữu hiệu như nhau.

VII. 66

Nói về cử chỉ tôn kính lễ bái, Ðại đức Sàrìputta thuyết: “Những hành vi này có thể giúp cho người Phật tử quen đi một số động tác phạm hạnh. Nhất là thói quen ấy lại hướng về đức Phật, đức Pháp và đức Tăng. Ngoài ra; cũng có thể hướng về tư tưởng độ thế hay mong muốn lợi tha (Patisanthàra)”.

IX. 6

Nói về phương pháp tìm hiểu tánh tình dân chúng của một địa phương xuyên qua y phục, vật thực, chỗ ở, làng xóm, thành thị hay xứ sở v.v... Một Sa-môn trước khi truyền bá giáo lý giải thoát vào một vùng mới cần phải hiểu rõ như thế. Nghĩa là sứ giả của Như Lai khi ở trong một quốc độ nào phải thấy quốc độ ấy thích hợp với mình.

IX. 11

Một tiếng “Gầm sư tử” thứ hai của Ðại đức Sàrìputta được trình bày, trước sự chứng minh của Ðức Phật ngay khi có một Tỳ-kheo cáo oan về Ngài. Khi ấy Ðại đức Sàrìputta chỉ mỉm cười, rồi công bố cho mọi người biết những pháp giải thoát khỏi sự oán giận là hai đặc tính không cố chấp trong bản ngã và tâm chẳng bao giờ muốn làm hại kẻ khác của một số đại Sa-môn.

IX. 13

Ðây là bài luận đạo của ngài với Ðại đức Mahà Kotthika về mục đích của đời sống Thánh Tăng.

IX. 14

Ðại đức Sàrìputta chất vấn Ðại đức Sàmiddhi về những yếu pháp giải thoát, rồi cống hiến thêm một số chứng minh của mình để bổ túc.

IX. 16

Một đoạn trình bày về tính ngay thẳng tự nhiên của Ðại đức Sàrìputta dù cho đối với những kẻ đối lập cũng vậy. Ngài đã cải chính một câu nói của Ðề-bà-đạt-đa (Devadatta)... Vì ngài cho rằng câu nói ấy có thể bị vị Tỳ-kheo đến thuật lại với ngài thêm bớt. Sau đó đức Trưởng lão đã thuyết cho vị Tỳ-kheo ấy nghe về một tư tưởng vững chắc đã được phát triển đầy đủ. Tư tưởng ấy không thể bị lung lay bởi bất cứ ác ý nào hết.

IX. 84

Ðề cập về Niết-bàn (Nibbàna), một cứu cánh được diễn tả bằng những từ ngữ như Vô sanh, Bất diệt, Tịnh lạc, Chẳng cấu hợp, Không điều kiện v.v... Tất cả đều vượt khỏi cảm thức của con người.

X. 7

Ðại đức Sàrìputta mô tả về những trạng thức thiền định của ngài. Cuối cùng bài mô tả ấy ngài đã nói rõ điểm hội tụ của những trạng thái ấy là Niết-bàn, là sự chấm dứt sanh diệt.

X. 65

Bài pháp có tựa “Tái sanh là một nỗi khổ và không tái sanh là một hạnh phúc”.

X. 66

Nghe được giáo lý của Ðức Phật, làm được lời Phật dạyhạnh phúc. Không thỏa thích trong việc nghe giáo lý và không thỏa thích trong sự thực hành Phật giáo là một điều bất hạnhthoái hóa.

X. 67. 68

Những nguyên nhân làm hăng hái hay thối chí trong việc phát triển thiện tánh.

X. 90

Nói về mười sức mạnh để giải thoát những ác pháp ngấm ngầm trong tâm mà một vị A-la-hán lúc còn phàm đã nhờ nó mà đạt tới Thánh quả. Mười sức mạnh này chỉ hiển hiện khi hành giả đã vững chắc trong Thiền định, nhất là trong Minh sát tuệ. Ðại đức Sàrìputta phân tích rõ: Sự thanh lọc nội tâm không phải chỉ mang lại sự yên ổn, mà còn đạt được trạng thái trong sáng nữa.

PHÁP CỦA ÐẠI ÐỨC S€R…PUTTA TRONG SAMßYUTTA NIK€YA

NINÀDA SAMßYUTTA

No 24

Ðại đức Sàrìputta chỉ dẫn phương pháp thoát khỏi vòng luân hồi bằng cách nói rõ trong sự sanh tử ấy khổ não không phải chỉ phát sanh đơn phương từ nội tâm của một chúng sanh, mà nó hằng phát sanh song song từ tâm của một chúng sanh khác hay từ ngoại cảnh, ở đây ám chỉ sự ảnh hưởng tâm tánh giữa người này với người kia và những khoái lạc Ngũ trần.

No 25

Bài pháp này cũng đồng nội dung với số 24, nhưng có thêm hai chi tiết là sự vui và sự khổ (Sukha-Dukkha).

No 31

Nói về những điều kiện để kéo dài kiếp sinh tồn. (Ý đề cập về những thể chất và vật thực).

No 32

Kàlàra Sutta: Khi được Ðức Phật chất vấn, Ðại đức Sàrìputta đã bạch rằng: Tuệ phân biệt đã giúp ngài hiểu rõ sự đắc quả A-la-hán và cũng nhờ đó ngài nhận thấy nguyên nhân của sự sanh đã bị tận diệt. Hành động trong hiện tại của một vị A-la-hán (hay Phật) sẽ không có quả trong tương lai.

Ðại đức Sàrìputta còn nói “Tận diệt tức là sanh vĩnh cửu” (Kh­nà Jàti). Sau đó, ngài tiếp tục đáp những câu hỏi sâu xa hơn của Ðức Phật về nguyên nhân và khởi đầu của sự SANH, rồi đến sự TRƯỞNG THÀNH cùng những trạng thức phát triển phụ thuộc khác dự phần vào việc lập thành những cảm nghĩ.

Ðức Trưởng lão đã tiết lộ: Chính tuệ thấy rõ mọi vật đều vô thường một cách chắc chắn, không nghi ngờ đã giúp ngài ghê sợ các khoái lạc từ Ngũ trần (Nandi).

KHANDHA SAMßYUTTA

No 1

Ðại đức Sàrìputta cắt nghĩa tỉ mỉ về lời nói sau đây của Ðức Phật: “Ta không thể cản được sự đau đớn của xác thân, nhưng ta có thể sửa trị nổi những đau khổ của linh hồn”.

No 2

Bài pháp nói về sự huấn luyện của Ðại đức Sàrìputta cho những Tỳ-kheo sắp đi hành đạo tại những vùng biên giới xa xôi. Vì những Tỳ-kheo này sẽ phải đối phó với nhiều câu hỏi do những kẻ ngoại đạo chất vấn. Cuối thời pháp ngài đã tóm lược: Làm thế nào để tẩy trừ được tất cả các tánh tham, sân, si trong Ngũ uẩn, đó chính là đề tài mà quý vị có thể giảng cho bất cứ ai nghe về giáo pháp của chư Phật.

No 122, 123

Nói về tầm quan trọng của sự hiểu biết rằng “Ngũ uẩn chỉ là một khối giả tạo”. Nếu một người đang trau giồi giới hạnhý thức được như vậy thìthể đạt tới Thánh lưu. Còn một bậc đã nhập Thánh lưu rồi mà lấy Vô thường, Khổ não, Vô ngã làm đề mục thì từ bậc Thánh thấp họ sẽ tiến lên bậc Thánh cao hơn. Riêng một vị A-la-hán mà có thói quen quán tưởng thường xuyên như vậy thì vị A-la-hán ấy có thể đạt được trí tuệ viên giác.

No 126

Bài pháp nói về sự ngu muội và sự hiểu biết khi một người may mắn gặp được Pháp bảo của Ðức Phật.

SAµRÌPUTTA SAMßYUTTA

No 1-9

Ðây là một loạt chín bài pháp đã được Ðại đức Sàrìputta thuyết về sự phát triển đầy đủ trong chín phẩm trật thiền định, nghĩa là từ Sơ thiền đến trạng thái chấm dứt mọi ý nghĩ, mọi cảm thức, Ngài còn bổ túc thêm: Trong khi tiến hóa như vậy, hành giả phải coi chừng sự xuất hiện của Ngã mạn. Vì theo tâm ý phàm tình, khi một người đạt được bất cứ một phẩm hạnh gì, kẻ ấy thường cho là quan trọng, và do đó cái TA lại được “Bổ Dưỡng”.

No 10

Một lần nọ, gần thành Ràjagaha (Vương Xá). Sau khi đi khất thực, Ðại đức Sàrìputta đã ngọ thực gần một trường thành. Lúc ấy có một nữ đạo sĩ tên là Sucimukh­ tới gần ngài và hỏi:

– Thưa ngài! Trong khi thọ thực ngài có bắt buộc phải quay mặt về một hướng hay một số hướng nào cố định như những đạo sĩ (dĩ nhiên ngoài Phật giáo) hay không?

Ðại đức Sàrìputta vui vẻ trả lời:

Bần Tăng không hướng vào bất cứ một hướng nào nhất định hết. Tất cả phương hướng đối với bần Tăng đều như nhau. Một Sa-môn khi đã kiếm được vật thực bằng một cách chơn chánh rồi thì trước khi thọ hưởng chỉ nghĩ đến cha mẹ hoặc Thầy Tổ. Nếu biết những bậc ân nhân ấy ở phương nào thì Sa-môn có thể hướng về phương ấy để cúng dường. Nhưng hành động đó không phải là một ngưỡng vọng phương hướng, mà chỉ đơn giản là một phạm hạnh tri ân.

Nữ đạo sĩ Sucimukh­ nghe những lời lẽ chơn chánh ấy và nhìn thấy phong độ an tịnh của Ðại đức Sàrìputta đã kinh cảm một cách sâu xa. Sau đó, bà liền đi từ đường này sang đường khác, phố nọ đến phố kia mà truyền rao lên rằng: “Những tu sĩ phái Sakya (Thích Ca) nuôi mạng rất chơn chánh. Họ dùng những vật thực mà không ai có thể chê trách được. Xin quý vị hảo tâm hãy cúng dường cho họ”.

(Nghệ thuật giảng đạo của Ðại đức Sàrìputta trong bài này, theo D­gha Nikàya 31, cũng có khả năng cảm hóa như phương pháp của Ðức Phật trong Kinh S­gàlavàda).

SAµLAYAµTANA SAMßYUTTA

Nội dung bài pháp này có thể tóm lược như sau: “Chính dục vọng trong những đắm say trần cảnh (Lục trần) đã tạo nên vòng sanh tử luân hồi, chứ không phải do nơi Lục căn và đối tượng của chúng là Lục trần”.

JAMBUKHAµDAKA SAMßYUTTA

Kinh gồm phần giải đáp đến một số câu hỏi của người cháu Ðại đức Sàrìputta tên là Jambukhà Daka. Ông ấy là đạo sĩ thuộc phái Paribbàjaka. Nội dung có thể chia ra làm hai phần:

No 1

Giảng giải về đặc tính giải thoát tuyệt đối của Niết-bàn.

No 2

Phương pháp để chứng đạt được phẩm A-la-hán, trình độ Thánh tâm đã tẩy trừ hết tham lam, sân hận, và si mê.

No 3-16

Ðại đức Sàrìputta trả lời những câu hỏi về “Những kẻ truyền bá chơn lý. Mục đích của đời sống thanh tịnh và các Ðấng đã tìm được nơi an nghỉ vĩnh cửu”. Nổi bật nhất là ngài đã làm cho thính giả chú ý và ghê tởm những cảm não và si mê, những xấu xa nhơ bẩn mà bản tâm con người bị phủ kín. Rồi ngài nói đến các pháp mà người đời khó làm được trong giáo lý của Ðức Phật.

INDRIYA SAMßYUTTA

No 44

một lần được Ðức Phật gạn hỏi, Ðại đức Sàrìputta đã bạch rằng: “Chính nhờ sự không trông cậy vào đấng Siêu thoát và từ kinh nghiệm của bản thân, Ðại đức bỗng hiểu được năm sức mạnh của tâm linh (Ngũ lực). Nghĩa là nhìn thấy con đường dẫn đến chỗ bất tử”.

No 48, 50

Phần pháp này đề cập trọn vẹn về Ngũ lực (Pãnca Bala) và trình bày rất chi tiết do Ðại đức Sàrìputta. Một chỗ khác trong Kinh còn gọi “Ấy là con đường trí tuệ”.

SOTAµPATTI SAMßYUTTA

No 55

Pháp nói về bốn yếu tố cần thiết để nhập Thánh lưu (Sotàpattiyamga).

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 1258)
Vào lúc 11 giờ ngày 01/01/2024, tại chùa Kiều Đàm số 1129 S Newhope Street, thành phố Santa Ana, miền Nam California, Đạo tràng Khánh Anh cùng chùa Kiều Đàm đã tổ chức Lễ Khánh tuế lần thứ 97 Trưởng lão Hòa thượng Thích Thắng Hoan.
(Xem: 1542)
Hòa Thượng THÍCH TUỆ SỸ (1945-2023)
(Xem: 2150)
Mỗi khi có dịp gặp và ngồi nói chuyện về tỉnh Khánh Hòa, Quách Tấn đều nhắc cho tôi biết là, Khánh Hòa có 2 người tiếng tăm đã vượt biên giớiHòa thượng Thích Quảng ĐứcBác sĩ Yersin.
(Xem: 5892)
Nam Mô Từ Lâm Tế Chánh Tông, Tứ Thập Ngũ Thế, Hiền Như Tịnh Thất Trụ Trì, Pháp danh Tâm Hỷ, tự Thanh Diệu Pháp Ni Sư Chơn linh.
(Xem: 3688)
Ni Trưởng Thích Nữ Như Tuấn vừa viên tịch tại Chùa Phổ Hiền, Strasbourg, Pháp Quốc
(Xem: 4928)
Daisetsu Teitaro Suzuki sinh ngày 11 tháng 11 năm 1870 và mất ngày 12 tháng 7 năm 1966 tại thành phố Kamakura, Nhật Bản
(Xem: 4650)
Trưởng Lão Hòa Thượng Thích Thắng Hoan - Chánh văn phòng Hội Đồng Giáo Phẩm GHPGVNTN Hoa Kỳ
(Xem: 6876)
Được tổ chức tại Chùa Phật Đà, San Diego, California, vào lúc 10:00am ngày 27/9/2020.
(Xem: 18329)
Nam Mô Từ Lâm Tế Chánh Tôn, tứ thập tam thế, Húy Thượng Tâm Hạ Nhẫn, Tự Hành Từ, Hiệu Chí Tín Giác Linh Trưởng Lão Hòa Thượng Liên đài chứng giám
(Xem: 3914)
Là bậc Cao tăng xuất chúng, bằng trực giác mẫn tuệ, sư Đạo Sinh tự nghiệm ra một lý lẽ rất cao siêu và công khai thuyết giảng rằng ai ai cũng có Phật tính
(Xem: 3001)
Mắt không phải là xiềng xích của sắc (cái được thấy), sắc cũng không phải là xiềng xích của mắt. Bất cứ tham và luyến nào khởi lên dựa vào hai thứ đó
(Xem: 5708)
Do niên cao lạp trưởng đã thu thần viên tịch vào lúc 02h56 phút ngày 16 tháng 4 nhuận năm Canh Tý - nhằm ngày 7 tháng 6 năm 2020 tại Thiền Viện Vạn Hạnh. Trụ thế: 84 năm, 47 hạ lạp.
(Xem: 11307)
Các tác phẩm của Thầy phần lớn được dịch từ Hán tạng, gồm giới kinh và các nguồn văn học Phật giáo Đại thừa với tư tưởng uyên thâm về triết họctâm lý học.
(Xem: 9258)
Thầy Tuệ Sỹ Là Viên Ngọc Quý Của Phật Giáo và Của Việt Nam - Nguyễn Hiền Đức
(Xem: 2639)
Bài của Olaf Beuchling - đăng trên tạp chí "BUDDHISMUS Aktuell“ (Phật Giáo Ngày Nay) số 2/2020, phát hành tháng Tư, Năm, Sáu – từ trang 44 - 49 Việt dịch: Đạo Hữu THỊ CHƠN Ngô Ngọc Diệp
(Xem: 6870)
Đại Lão HT Thích Quảng Độ viên tịch lúc 21 giờ 30 ngày 22 tháng 2 năm 2020, thượng thọ 93 tuổi, 73 hạ lạp
(Xem: 3271)
Dịch theo bản Anh dịch “The Enlightenment of Chiyono” của Anne Dutton, từ các trang 173-179 của sách “Zen Sourcebook: Traditional Documents from China, Korea, and Japan
(Xem: 5992)
Giới đàn là một nghi lễ để truyền trao giới pháp cho các giới tử là những người xuất gia theo đạo Phật. Để thành tựu được một giới đàn, phải có đủ 3 yếu tố: Tam sư, thất chứng và giới tử.
(Xem: 4029)
Nhận thấy nhu cầu tìm hiểu những nhân vật, con người, đã và đang đóng góp công sức cho Phật giáo Việt Nam ngày nay...
(Xem: 5578)
Ôn thường canh cánh về Mẹ bên lòng khi còn sanh tiền. Trước khi “chết” Ôn về quê thăm Mẹ, lạy tình thương của Mẹ từ thuở ấu thơ.
(Xem: 18446)
“Rốt cuộc, tôi không biết gì, không có ý định gì cả, nên cuộc đời tôi ‘không vẫn hoàn không’, không có gì đáng nhớ, đáng nói… ‘Không vẫn hoàn không’ là Phật cho, tôi mới được như vậy.”
(Xem: 6430)
Đức Trưởng Lão Hòa Thượng Thích Trí Quang (1923-2019) vừa viên tịch
(Xem: 5879)
Trưởng Lão HT Thích Chơn Thành sinh ngày mùng 9 tháng 8 năm 1934, tại Xã Xuân Thọ, Quận Sông Cầu, Tỉnh Phú Yên, Việt Nam.
(Xem: 3553)
Bài Thuyết Trình: Hành TrạngSự Nghiệp của Trưởng Lão Hòa Thượng THÍCH ĐÔN HẬU Chánh Thư Ký Xử Lý Viện Tăng Thống GHPGVNTN nhân ngày Khánh Thành Chùa Đôn Hậu tại Na Uy
(Xem: 2535)
Vị thứ hai trong dòng những tái sinh Jamyang Khyentse là Đức Jamyang Khyentse Chokyi Lodro, người vĩ đại đến mức thật khó để tôi thậm chí thốt lên danh hiệu của Ngài
(Xem: 13784)
Kính Mừng Thọ 70 tuổi HT Thích Như Điển tổng hợp những bài viết cho Hoà Thượng Phương Trượng
(Xem: 5406)
Chương trình tang lễ của HT Thích Quảng Thanh được tổ chức tại Chùa Bảo Quang từ ngày 14 đến 17/6/2019
(Xem: 2748)
Hòa Thượng Thích Thiện Định là vị Tổ khai sơn chùa Pháp Hoa tại Marseille, Pháp Quốc.
(Xem: 4022)
Ngài thế danh là Diệp Quang Tiền, Pháp danh Tâm Khai, tự Thiện Giác (Đồng sư với Hòa thượng Thiện Châu ở bên Pháp), hiệu Trí Ấn Nhật Liên
(Xem: 4572)
Chúng ta nói chuyện thế kỷ 13, đó là một thời nước lớn phía Bắc không thôi kinh ngạc khi nghĩ tới nước nhỏ Đại Việt phía Nam, cả về quân sự và Phật pháp.
(Xem: 3960)
Tây Tạng xưa nay là xứ huyền bí. Đó là vùng đất thường được gọi là mái nhà của thế giới, nơi sản sinh ra nhiều bậc thánh giả siêu việt, mà ngài Lạt Ma tái sinh Zong Rinpoche là một trong những hình ảnh tiêu biểu.
(Xem: 2667)
GS Tenzin nói, những kinh nghiệm đó cho anh thực hiện nhiệm vụ thông dịch khá là tuyệt vời. Đối với một người thông dịch nào không quen thuộc với Đức Đạt Lai Lạt Ma, công việc như thế sẽ rất là khó.
(Xem: 4411)
Hòa Thượng Thích Như Điển - Chân Dung Một Nhà Văn
(Xem: 3362)
Sư cô Thích Nữ Chủng Hạnh sanh ngày 12 tháng 8 năm 1933. Do tuổi cao sức yếu, đã thâu thần thuận tịch vào ngày 07 tháng 11 năm 2018. Trụ thế: 86 năm, Hạ lạp: 07 năm.
(Xem: 4741)
A Dục, Asoka (Sanskrit). Khi đức Phật Thích ra đời, Vua A Dục là một đứa trẻ, trong lúc đang chơi đức Phật đi ngang qua, đứa trẻ đem cát mà coi như cơm cúng dường cho Phật...
(Xem: 7695)
Chương trình tang lễ được tổ chức từ ngày 23 đến 25 tháng 10 năm 2018 tại Chùa Diệu Quang, 3602 W 5th St, Santa Ana, CA 92703. Tel: (714)554-9588
(Xem: 3468)
Sư bà Nguyên Thanhthế danh Lê Thị Quan, sanh năm1944, tại Quy Nhơn, là con gái thứ ba trong năm người con của ông Lê Đức Khánh và bà Trần Thị Quýt, làng Phú Nhơn, xã Cát Trinh, khuyện Phù cát, tỉnh Bình Định.
(Xem: 3812)
Chương Trình Lễ Tang sẽ được tổ chức lúc 5 giờ chiều Thứ Bảy ngày 4 tháng 8 năm 2018 và Chủ Nhật ngày 5 tháng 8 năm 2018, tại Đạo Tràng Nhân Quả, 10801 Trask Ave, Garden Grove, CA 92843
(Xem: 3479)
Hòa Thượng Thích Thiện Hữu thế danh Nguyễn Hữu Nghĩa thượng Như hạ Lễ tự Viên Nhơn, hiệu Thiện Hữu sinh năm Giáp Thân (1944) tại xã Nhơn Khánh, quận An Nhơn, tỉnh Bình Định.
(Xem: 7699)
Thay mặt chư tôn đức Tăng, Ni và quý Cư Sĩ Hội Đồng Điều Hành GHPGVNTNHK nhất tâm nguyện cầu Giác Linh Sư Bà Tân Viên Tịch Cao Đăng Phật Quốc.
(Xem: 12707)
Lễ Nhập Quan: Vào lúc 10 giờ sáng Thứ Sáu, ngày 12 tháng 1 năm 2018 tại Peek Funeral Home, 7801 Bolsa Ave., Westminster, CA 92683
(Xem: 16303)
Đức Trưởng lão Hòa Thượng thượng ĐỨC hạ CHƠN Viện chủ Tu Viện Quảng hương Già Lam, Sài Gòn vừa viên tịch lúc 03g40′ ngày 27/11/2017
(Xem: 4576)
Khó hình dung rằng một phụ nữ Anh đang phụ trách về kế toán trong một công ty quản trị quỹ đầu tư đa quốc bỗng nhiên trở thành một vị ni sư theo truyền thống Tây Tạng
(Xem: 52807)
HT Thích Đức Niệm - Trụ trì Chùa Ưu Đàm, Tp. Marina, California viên tịch lúc 11:30AM ngày 20/10/2017...
(Xem: 8712)
Hòa Thượng Phương trượng Chùa Thiền Tôn, húy Tắc An hiệu Lãng Thiện đời thứ 23 dòng thiền - Thiên Thai Giáo Quán Tông
(Xem: 16163)
Trưởng Lão Hòa Thượng Thích Minh Tuyền (1938-2017) Khai Sơn Chùa Phật Giáo Việt Nam tại Nhật Bản
(Xem: 4093)
Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất Âu Châu được tồn vinh đó là nhờ công đức sáng lập của Thầy.
(Xem: 3826)
Chỉ cần, đối cảnh vô tâm, hay cứ để mặc cho các pháp được thấy như là được thấy, được nghe như là được nghe… Và đó là Thiền Tông: không một pháp nào để làm.
(Xem: 8717)
Kỷ Yếu Tri ÂnTán Dương Công Đức của Trưởng Lão Hòa Thượng Thích Như Huệ... TT Thích Nguyên Tạng
(Xem: 4048)
Ngay từ hồi còn trẻ cụ Chu Văn An (1292-1370) đã nổi tiếng là một người cương trực, giữ tiết tháo, không cầu danh lợi, chỉ ở nhà đọc sách.
(Xem: 12747)
Sư Bà đã viên tịch ngày 15/1/2017. Lễ Nhập Kim Quan vào lúc 9am, Chủ Nhật, 22/01/2017; Lễ Trà Tỳ vào lúc 3pm, Thứ Hai, 23/01/2017
(Xem: 12612)
Tuệ Sĩ – Người ẩn mình dưới lòng hố thẳm hun hút, Tuệ Sĩ – Trên đỉnh Trường Sơn chót vót sương mù, mây trắng.
(Xem: 17301)
Chúng con/tôi vừa nhận được tin: Thượng Tọa THÍCH ĐỨC TRÍ Trụ trì Chùa Tam Bảo Tulsa, Oklahoma vừa viên tịch...
(Xem: 7253)
Vào tháng 4 năm 1998, tôi trở về nhà ở Dharamsala, Ấn Độ, sau hành trình giảng dạy dài và khoản thời gian miệt mài viết lách tại Mông Cổ và phương Tây.
(Xem: 5937)
Đại lão HT Thích Thiện Bình đã thu thần viên tịch 17-11-2016 (18-10-Bính Thân), tại chùa Long Sơn TP Nha Trang, tỉnh Khánh Hòa), thọ 84 tuổi.
(Xem: 7297)
Xuất gia năm 1960, thọ Sadi giới ngày 17-11 năm Quý Mão (1963) tại Tổ đình Tường Vân, thọ cụ túc giới năm 1964 tại giới đàn Quảng Đức
(Xem: 8451)
Đức Vua Bhumibol Adulyadej, vị hoàng đế ở trên ngai vàng lâu nhất thế giới, vừa băng hà tại bệnh viện ở thủ đô Bangkok ngày 13-10-2016.
(Xem: 5372)
Tiểu sử của một lama vĩ đại được gọi là “namtar” (rnam-thar), một tiểu sử mang tính cách giải thoát, vì nó tạo nguồn cảm hứng cho người nghe...
(Xem: 6748)
Hòa Thượng Thích Thiện Hoa con nhà gia giáo thuộc hạng trung lưu, trong gia quyến ai nấy đều theo đạo Phật.
(Xem: 8792)
Trong cuộc phỏng vấn năm 1999, Richard Gere nói về những năm tháng tu tập của mình, sự cống hiến của anh cho Lão sư của mình là Ngài Đạt La Lạt Ma.
(Xem: 5463)
Chu Văn An (1292-1370) hiệu là Tiều Ẩn, tên chữ là Linh Triệt, tên thụy là Văn Trinh. Tên thật của Chu Văn An vốn là...
(Xem: 6505)
Theo các nhà nghiên cứu về lịch sử Phật giáo, người Nga đã biết đến đạo Phật nhờ tiếp xúc với các lân quốc vùng châu Á như Mông Cổ, Tây Tạng...
(Xem: 4730)
Thupten Jinpa là một cựu tăng sĩ, hoàn tục để lập gia đình, trở thành một tác giả, và trong 30 năm qua, là người thông dịch chính về tiếng Anh cho Đức Đạt Lai Lạt Ma.
(Xem: 14219)
Lễ nhập Kim Quan lúc: 04 giờ chiều ngày Thứ Bảy: 25/6/2016; Lễ cung tống Kim Quan trà tỳ lúc: 08 giờ sáng ngày Thứ Năm: 30/06/2016
(Xem: 5642)
Bồ Tát Thích Quảng Đức tự thiêu tại ngã tư Phan Đình Phùng Lê Văn Duyệt, toàn thân Ngài bất động điềm nhiên trong tư thế thiền định...
(Xem: 5789)
Bài thuyết trình cho Khóa An Cư Kiết Hạ tại Niệm Phật Đường Fremont, SanJose, từ ngày 13-23 tháng 6 năm 2016
(Xem: 9981)
Kỷ Yếu Tri ÂnTán Dương Công Đức của Trưởng Lão Hòa Thượng Thích Huyền Tôn
(Xem: 8815)
Đức Trưởng Lão HT Thích Như Huệ Chứng minh Đạo sư GHPGVNTN Úc Đại Lợi - Tân Tây Lan
(Xem: 7275)
Trong số mấy chục vị Thánh Tử Đạo ấy có Sư Cô Thích Nữ Diệu Định ở Quảng Nam-Đà Nẵng...
(Xem: 35225)
Lễ nhập kim quan lúc: 09:00am, ngày 12/3/2016. Lễ di quan lúc 10:00am ngày 15/3/2016
(Xem: 5548)
Đại Lễ Tri Ân nhị vị Hòa Thượng Trưởng Lão của Giáo HộiTrưởng Lão Tăng Giáo Trưởng HT Thích Huyền Tôn và Trưởng Lão Chứng Minh Đạo Sư HT Thích Như Huệ.
(Xem: 10705)
Kỷ Yếu Tưởng Niệm HT Thích Hạnh Tuấn (1956-2015) Chùa Trúc Lâm Chicago, USA ấn hành 2015
(Xem: 13182)
Kể từ khi tổ Minh Hải–Pháp Bảo khai tông lập giáo, tính đến nay dòng thiền Lâm Tế Chúc Thánh đã trải qua 300 năm lịch sử với 12 đời truyền thừa...
(Xem: 7697)
Dẫu là một ông vua, cai trị một đế chế rộng lớn, quyền uy sinh sát trong tay, nhưng kỳ thực A Dục Vương vẫn là một đệ tử Phật, một tín đồ thuần thành của Phật Giáo.
(Xem: 17895)
HT Thích Tâm Thọ, Thành viên Giáo hội Phật giáo Việt Nam trên thế giới, Viện Chủ Chùa Giác Hoàng, Thủ đô Hoa Thịnh Đốn, Hoa Kỳ
(Xem: 6652)
Thiền sư BẠCH ẨN HUỆ HẠC (Hakuin Ekaku), thế danh Iwajiro (Nham Thứ Lang, nghĩa là cậu bé đá), quê tại Hara, tỉnh Suruga, thị trấn Numazu, hạt Shizuoka, Nhật Bản.
(Xem: 19974)
HT Thích Hạnh Tuấn, Trú Trì Chùa Trúc Lâm, Chicago, đã viên tịch; Lễ Nhập Liệm vào ngày thứ 4, 4/11/2015; Lễ Trà Tỳ vào ngày Chủ Nhật, 8/11/2015
(Xem: 13547)
Cả Đức Thích Ca Mâu Ni Phật và Guru Rinpoche đều tiên tri sự ra đời và thành tựu tâm linh của Tông Khách Ba.
(Xem: 16323)
Long Thọ (Nagarjuna, Klu-grub), cùng với Vô Trước (Asanga, Thogs-med), là hai đại hành giả tiên phong của truyền thống Đại thừa.
(Xem: 27148)
Lễ nhập quan sẽ được cử hành vào lúc 14 giờ ngày 25 tháng 08 năm 2015 (nhằm ngày 12/07/Ất mùi)
(Xem: 29034)
Trưởng lão Hòa Thượng vừa thâu thần viên tịch tại Tổ đình Từ Quang, thành phố Montreal, Canada, lúc 10g15 thứ Năm, ngày 20-8-2015, trụ thế 95 tuổi đời, 74 Hạ Lạp
(Xem: 10924)
Kỷ Yếu Tưởng Niệm Hòa Thượng Thích Minh Tâm (1940-2013)
(Xem: 7661)
Pháp danh của ông là Buddhadasa có nghĩa là người tỳ kheo hầu hạ Đức Phật, thế nhưng người dân Thái thì lại gọi ông là Ajhan Buddhadasa.
(Xem: 7110)
Ngài Tịch Thiên (Shantideva) là một trong những vị luận sư lỗi lạc nhất của thời kỳ sau trong quá trình phát triển tông phái Đại thừa
(Xem: 10222)
Ngài Huyền Trang theo truyện Tây Du không gọi là Huyền Trang mà kêu là Tam tạng thỉnh kinh hay Đường Tăng. Trong sách nói đủ là Tam tạng Pháp sư Huyền Trang.
(Xem: 10257)
Tranh vẽ Chân Dung HT Tuệ Sỹ của nhiều tác giả
(Xem: 8106)
Có một người đã cắt bỏ được sợi dây ràng buộc của gia đình để sống theo tăng đoàn của đức Phậtcống hiến trọn cuộc sống của mình cho công cuộc hoằng dương Phật pháp, đó là Tôn Giả Phú Lâu Na.
(Xem: 8149)
Huệ Viễn đại sư họ Cổ, nguyên quán xứ Lâu Phiền ở Nhạn Môn thuộc tỉnh Sơn Tây. Ngài sanh tại Thạch Triệu, năm Giáp Ngọ, vào niên hiệu Diên Hy đời vua Thành Đế nhà Tấn.
(Xem: 6914)
Đức Đại lão Hòa thượng Thích Trí Thủ (1909 - 1984), Đệ nhất Chủ tịch Hội đồng Trị sự GHPGVN là bậc cao tăng có những cống hiến to lớn đối với Đạo pháp và Dân tộc
(Xem: 10076)
Đức Đệ Nhị Tăng Thống Giáo Hội Phật Việt Nam Thống Nhất, Cố Đại Lão Hòa Thượng Thích Giác Nhiên, viên tịch năm kỷ Mùi.
(Xem: 20957)
Hòa Thượng Thích Tuệ Chiếu, thế danh Lưu Đức Thụy, Pháp danh Thiện-Uẩn, Pháp hiệu Hồng Liên, pháp tự Tuệ Chiếu thuộc Thiền Phái Lâm Tế đời thứ 40.
(Xem: 24288)
Phật giáo Bắc tông nói chung, Thiền tông nói riêng đều lấy giác ngộ làm mục đích tiến tu. Dù là tu sĩ xuất gia hay cư sĩ tại gia trong khi tu hành được đôi phần giác ngộ đều được mọi người quí kính.
(Xem: 15350)
Quyển Ngữ Lục này là tập hợp từ những lời thị chúng của Thiền Sư Duy Lực trong những kỳ thiền thất tại Việt Nam kể từ năm 1983 cho đến những năm tháng cuối đời.
(Xem: 8250)
Từng nghe, lòng dạ kiên trinh, ý chí vững bền, khí tiết đặc biệt đâu phải hoàn toàn do bẩm tính tự nhiên mà phải dốc lòng kính ngưỡng, noi theo những bậc có đức hạnh cao vời.
(Xem: 18880)
Vào lúc 15 giờ ngày 14/12/2014, tại An Tường tự viện, Oakland, California, Hoa Kỳ, các tự viện đã phối hợp cùng Môn đồ pháp quyến tổ chức Lễ truy niệm và phát tang HT húy thượng Đồng hạ Đạt, tự Thông Đạt, hiệu Thanh An, Viện chủ An Tường tự viện
(Xem: 16734)
Những ngữ cú của Sư được chép rải rác trong trứ tác của các nhà, nhưng chưa được gom tập. Cho nên vào niên hiệu Nguyên Văn, thiền sư Huyền Khế biên tập và đặt tên là Động Sơn Lục, tàng bản tại Bạch Hoa Lâm.
(Xem: 10966)
Ngài Long Thọ (Nagarjuna) thường được tôn xưng là “đức Phật thứ hai” bởi các truyền thống Phật Giáo Đại Thừa tại Tây Tạng và Đông Á.
(Xem: 7369)
SB Diệu Không thế danh là Hồ Thị Hạnh, húy là thượng Trừng hạ Hảo, hiệu là Nhất Điểm Thanh. Sư Bà sinh năm 1905, con gái Út của Cụ Hồ Đắc Trung và Cụ Châu Thị Lương, làng an Truyền, huyện Phú Vang tỉnh Thừa Thiên.
(Xem: 7955)
Hòa Thượng thế danh là Nguyễn Văn Kính, sanh ngày 17 tháng 11 năm Tân Mão, nhằm ngày 17 tháng 12 năm 1891, tại làng Dưỡng Mong Thượng, tổng Phú Mỹ, huyện Phú Vang, tỉnh Thừa Thiên.
(Xem: 14361)
Trì Châu Nam Tuyền Phổ Nguyện Thiền Sư quê ở Tân Trịnh, Trịnh Châu, họ Vương, theo Đại Hoè Sơn, Đại Huệ thiền sư xuất gia, đến Tung Nhạc thọ giới cụ túc.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant