Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

01. Ý nghĩa những ngày Tết truyền thống với Xuân dân tộc

15 Tháng Giêng 201200:00(Xem: 12337)
01. Ý nghĩa những ngày Tết truyền thống với Xuân dân tộc

TÔN GIÁO VÀ DÂN TỘC
Tuệ Minh Đạo Nguyễn Đức Can

CHƯƠNG III

Ý NGHĨA NHỮNG NGÀY TẾT TRUYỀN THỐNG VỚI XUÂN DÂN TỘC

Nhân dịp mọi người dân Việt ở quê nhà cũng như hải ngoại đang nhộn nhịp chuẩn bị đón xuân, tôi viết lại những kỷ niệm đã qua của những ngày Tết truyền thống trong năm với mùa xuân dân tộc, hầu góp phần lưu lại tập quán cổ truyền của quê nhà cho thế hệ trẻ Việt Nam đang sống lưu vong nơi hải ngoại cũng như ở trong nước.

Đối với dân tộc Việt Nam, hương vị mùa xuân được coi như là một truyền thống văn hóa của tổ tiên ta để lại từ thời lập quốc và cứ mỗi năm lại bồi đắp thêm những ý đẹp, lời thơ cho thật trang nghiêm long trọng với một niềm vui vô tận, để truyền bá lại cho hậu thế noi theo.
 
1.- TẾT NGUYÊN ĐÁN VỚI XUÂN DÂN TỘC:

Hàng năm dân tộc Việt Nam có một cái TẾT gọi là TẾT Nguyên Đán, vào ngày cuối năm âm lịch, đây là những ngày lễ long trọng nhất của nhân dân Việt Nam, kéo dài từ ngày 30 tháng chạp âm lịch đến hết ngày 3 tháng giêng, có nơi ăn tết đến ngày 7 tháng giêng.

Tết Nguyên Đán là những ngày hội lớn, đánh dấu sự trở lại của một chu kỳ thời gian một năm trọn. Ngôn từ về mùa xuân và Tết hết sức phong phú, mùa xuân và Tết đồng nghĩa với thanh bình, hy vọng, sum họp, ước mơ, tin tưởng, thương yêu, vui vẻ, trẻ trung, tình tứ: Sắc xuân, tình xuân, ý xuân, tuổi xuân...

Tết cũng có thể coi là ngày lễ sinh nhật chung. Sinh nhật của thiên nhiên, đất nước và dân tộc. Trước đây ta tính tuổi theo Tết chứ không theo ngày sinh chính thức... Đến Tết mỗi người thêm một tuổi... Chữ Tết là do chữ Tiết đọc chệch ra. Ví dụ như thời tiết, tiết nhật, tiết chế, tiết lệnh, tiết hạnh...

Tết Nguyên Đán (Nguyên là đầu, Đán là sớm mai. Nguyên Đán có nghĩa là buổi sớm mai đầu năm). Trước đây, Tết Nguyên Đán ở nước ta có 7 ngày. Người xưa quan niệm rằng 7 ngày Tết, trời cho đất sinh ra mọi vật để nuôi sống con người, ngày thứ nhất, trời đất sinh ra gà, ngày thứ hai sinh ra chó, ngày thứ ba sinh ra dê, ngày thứ tư sinh ra heo (lợn), ngày thứ năm sinh ra trâu, ngày thứ sáu sinh ra ngựa, và ngày thứ bẩy sinh ra lúa. Sau này vì công việc bận rộn, dân ta chỉ ăn Tết có 3 ngày.

Ngày 30 mươi Tết là ngày bận rộn nhất. Mọi nhà đều dọn dẹp, sắm sửa cho chu tất trước khi đón gia tiên, ông bà về ăn Tết. Ngày trước, chiều 30 Tết, người ta dựng cây nêu trước cửa nhà.

Cú kêu ba tiếng cú kêu,
Kêu mau đến Tết, dựng nêu ăn chè.

Trưa 30 Tết, cúng mặn rất thịnh soạn, trên bàn thờ trang hoàng rất trang nghiêm, để đón Ông Bà, gia tiên, đây là sự tỏ lòng biết ơn của con cháu đối với Ông Bà, Cha Mẹ đã khuất. Ngày 1 TẾT tất cả mọi gia đình đều ăn chay, đi Chùa lễ Phật, hái lộc cầu may, xin xăm cầu tài, Ngày 3 cúng mặn gia tiên ở nhà, để tiễn đưa Ông Bà, Gia Tiên nội ngoại.

Đặc biệt đêm 30 TẾT, ngày cuối cùng của năm âm lịch, hầu hết tất cả các gia đình đều thức suốt đêm, để đón giao thừa vào đúng 12 giờ đêm, trong nhà cúng gia tiên, ngoài sân cúng giao thừa đón xuân, với những tiếng pháo nổ ran để mừng năm mới.

Để chuẩn bị đón xuân, từ thành thị đến thôn quê mọi gia đình đều sửa soạn nhà cửa, sơn phết quét vôi, ngoài sân được các chủ nhà vẽ các cung, tên bằng vôi bột trăùng xóa, mũi tên đều hướng ra ngoài ngõ (cổng), được truyền tụng rằng đó là cung tên bắn các ma quỷ không cho xâm nhập vào nhà, để xua đuổi những cái rủi ro, xui xẻo của năm đã qua hầu đón nhận một mùa xuân mới với niềm hy vọng cho tương lai thật tốt đẹp.

Để chuẩn bị cho những ngày TẾT, đón xuân mới, trẻ, già, trai gái lo sắm sửa lễ vật, sửa soạn bàn thờ gia tiên, để rước ông bà về thờ cúng những ngày đầu xuân hầu tỏ lòng biết ơn đến các vị sinh thànhcầu xin gia tiên nội ngoại phù hộ độ trì cho năm mới được vạn sự an lành, hạnh phúc, làm ăn phát đạt, cho nên dân gian có truyền lại lời thơ, ý đẹp như sau:

Tết đến nhộn nhịp thành quê
Trẻ già, trai gái hướng về hân hoan

Cửa nhà đã được sửa sang

Bàn thờ bông trái trầm nhang thơm lừng

Mứt kẹo, bánh tét, bánh chưng

Cỗ bàn phẩm vật chúc mừng lẫn nhau

Mọi người khoẻ mạnh sống lâu

Bán buôn tài lộc sang giầu vẻ vang

Đầu năm ta đón xuân sang

Giao thừa cúng lễ rộn ràng niềm vui.

Ý nghĩa mùa xuân đến với nhân dân ta thật là vô tận, ngoài Bắc thì trồng nêu, cây đào, bánh chưng, bánh nòng, mứt kẹo... Trong Nam cành mai, bánh tét, dưa hấu, kẹo mứt... Nhà nhà, người người đều nhộn nhịp đón Xuân với vẻ đẹp niềm vui, hương sắc mùa xuân tỏa ngát bốn phương trời.

Quê tôi một năm có 4 mùa: Xuân, Hạ, Thu, Đông mỗi mùa có 3 tháng. Mùa Xuân tháng giêng, hai, ba. Tục ngữ quê tôi có truyền rằng:

Tháng giêng là tháng ăn chơi
Tháng hai cờ bạc, tháng ba hội hè...

Mùa Xuân là mùa đẹp nhất, khí hậu ôn hoà, mát mẻ. Không mưa, không nắng bầu trời trong sáng, cây trái xanh tươi, bông hoa nở rộ để cùng tô điểm thêm hương sắc của một mùa xuân cho nên Ông Nguyễn Công Trứ đã tận hưởng thú vui xuân thể hiện các câu thơ lục bát như sau:

Chơi xuân kẻo hết xuân đi
Xuân tàn hoa rụng còn gì vui xuân...

Cùng một ý niệm vui xuân chị em Thúy Kiều đã đua nhau chưng diện son phấn, áo quần, xe ngựa vui xuân trẩy hội, đã được thi hào Nguyễn Du diễn tả như sau:

Gần xa nô nức yến oanh
Chị em sắm sửa bộ hành chơi xuân

Dập dìu tài tử giai nhân

Ngựa xe như nước, áo quần như nêm.

Dân tộc Việt Nam vui Xuân, đón Xuân bằng ăn tết ở nhà, lên Chùa Lễ Phật và hái lộc cầu may đã thể hiện hai câu thơ sau:

Tháng giêng ăn tết ở nhà
Lên Chùa lễ Phật toàn gia an lành.

Mỗi độ Xuân về lúc còn thơ ấu, tôi lại có dịp đi xông nhà, chúc tết, lễ gia tiên ở nhà thờ họ và đi Chùa lễ Phật, cái vui của thời thơ ấu thật là hồn nhiên, không lo, không nghĩ, không phiền đến ai. Nay thì tuổi đã trên thất thập ngũ cổ lai hy, vương vấn trần ai nặng một lòng. Tôi cố gắng quên đi, để nhớ lại những kỷ niệm ngày xuân của tuổi ấu thơ, trong thời thanh bình nơi quê tôi, hầu tạo cho sự thanh thản cho tâm hồn trong những ngày xuân dân tộc.

Tôi còn nhớ, nhớ mãi không bao giờ quên những ngày “Trẩy Hội Mùa Xuân” có rất nhiều hội hè, đình đám. Các nơi đua nhau tổ chức vui xuân với những trò chơi có tính chất thể dục, thể thao và mở mang trí tuệ như: Đánh đu, Cầu thùm, leo giây nhẩy bao bố, đấu vật, múa lân, Đá cầu, Đá gà, Đua ghe, thả diều, Võ thuật, đấu cờ tướng (cờ người)

A.- CỜ NGƯỜI:

Cờ người đây là người thật, được tuyển chọn 16 nam và 16 nữ, tuổi từ 16 đến 20, được ăn mặc theo đúng các quân cờ, có nhiều mầu sắc như Tướng, Sĩ, Tượng, Xe, Pháo, Mã và Tốt. Mỗi người đều cầm một cây cờ bằng gỗ, sơn son, thiếp vàng trông rất trang nghiêmlịch sự, 2 người đấu cờ là 2 ông giỏi nhất sau khi đã được tuyển chọn sơ kết, chung kết, mới được thi đấu.

Người trọng tài là một danh thủ đã từng đoạt giải quán quân ở các năm trước, sau khi giàn quân theo vị trí trên bàn cờ đã được vẽ (kẽ) trên sân rộng trước cửa đình làng. Trọng tàinhiệm vụ khởi xướng, 3 hồi chiêng trống vang dội chấm dứt, lúc đó bên nào đã bốc thăm được đi trước bắt đầu xướng. Thí dụ:

Chốt 3 tấn 1, Pháo 2 bình 4, mã 1 tấn 2, xe 1 bình 1... Trong cờ tướng có muôn hình vạn trạng của các thế cờ, biến hóa như rồng bay phượng múa. Sau đây là một thế cờ tuyệt hảo “ĐẠI XA MÔ trong bách cuộc tượng kỳ gọi đây là thế cờ “Đả Mã Tháo Điền”. Nhưng trong Trúc Hương Trai và nhiều tài liệu khác đều cho là “Đại Xa Mã” như xa 2 tấn 4, mã 3 tấn 4, xa 3 tấn 1, mã 4 tấn 5... mỗi lần hô như vậy người cầm quân cờ có nhiệm vụ di chuyển cùng với quân cờ đến chỗ quy định theo tiếng hô của ông đấu cờ, cứ như thế tiếp tục cho đến khi một bên bị thua.

Không bên nào được nghỉ quá 1 phút tuỳ theo giao ước. Nếu chậm quá thời gian quy định thì trống bỏi (trống con) lại đánh bong bong bên tai thúc dục người đấu cờ, đây là môn chơi đấu trí, tổ chức rất công phu và thu hút nhiều người xem nhất.

B.- TRẨY HỘI CHÙA HƯƠNG:

Mùa Xuân còn là mùa trẩy hội, đi hành hương ở các nơi xa xăm như đi “Trẩy hội Chùa Hương”. Chùa Hương là một “Đệ nhất danh lam thắng cảnh”, thơ mộng tuyệt vời, sơn thủy hữu tình. Từ làng tôi dến Chùa Hương Tích khoảng cách độ 80 mile, (trên 100 cây số) có thể đi bằng đường bộ hoặc đường thủy, các cụ làng tôi thường hay tổ chức đi đường thủy bằng những chiếc thuyền (ghe) nho nhỏ. 

Mỗi chiếc chở được 15 đến 20 người. Một đoàn thuyền khoảng 10 đến 15 cái mang theo đủ các phẩm vật với những giàn trống, chiêng, nhạc cổ truyềnmọi người ăn mặc rất sang trọng, loè loẹt. Đoàn thuyền với những mái chèo hai bên đua nhau chạy dọc theo sông cái từ phủ Kinh Môn lên Chí Linh ngược lên sông Hồng Hà qua Hà Nội đến sông Hương tới Chùa - vừa đi vừa kèn trống, hò hát vang dội khắp con sông thật là nhộn nhịp và vui thú biết bao.

Đến Chùa Hương tất cả các du khách từ bốn phương đổ về gặp nhau trong một trái tim. Cảnh sơn núi hữu tình, nên thơ. Trai gái trẻ già dập dìu dắt nhau lên Chùa lễ Phật thật là “Bầu Trời Cảnh Bụt” bao la với từng đòan thiện nam, tín nữ từ khắp nơi đổ về hành hương chiêm bái mà như thơ Tản Đà, đã diễn tả:

Chùa Hương trời điểm lại trời tô
Một bức tranh tình trải mấy thu

Xuân lại Xuân đi bao dấu vết

Ai về ai nhớ vẫn thơm tho.

Phong cảnh Chùa Hương thật hữu tình, thơ mộng nhớ đến Bến Đục, Suối Yên, với giòng nước chảy nhẹ nhàng trên sông, in bóng những dẫy núi chập chờn tô điểm cảnh thiên nhiên. “Trẩy Hội Chùa Hương”, không những đến lễ Phật cầu may, xin xăm cầu tài, mà còn là nơi trai tài gái sắc có dịp gặp nhau trao đổi tâm tình, ôn lại cảnh cũ người xưa, chúc nhau trăm tuổi bạc đầu râu, hạnh phúc trăm năm đến với nhau.

Ai ai cũng hái lộc cầu may, xin xăm cầu tài, xem tướng, xem bói để biết thời vận hên xui, tương lai may rủi đến với mình. Mọi người đều hân hoan với niềm hy vọng tràn đầy:

Du Xuân lễ Phật đầu năm
Lên Chùa Lễ Phật xin xăm cầu tài

Nguyện cầu Phật Tổ Như Lai

Phù hộ thân quyến trong ngoài bình an.

Và tôi cũng luôn luôn nhớ đến quê tôi, mỗi độ xuân về:

Quê tôi có gió bốn mùa

Có trăng giữa tháng, có Chùa quanh năm

Chuông kêu, gió sớm, trăng rằm

Chỉ thanh đạm thế, âm thầm thế thôi

Lâu ngày tôi bỏ quê tôi

Bỏ trăng, bỏ gió, chao ôi, bỏ Chùa

Đem thân đi với giang hồ

Trên đường phẳng lặng, bến đò lênh đênh.

 
C.- MÚA LÂN - MÚA RỒNG:

Theo một số tư liệu có tính khảo cứu, người ta cho rằng múa lân ra đời rất sớm, có thể nói là từ lúc mà người nguyên thủy có tục lệ thờ cúng vật tổ. Căn cứ vào hình thù quái dị của chiếc đầu lân thì có thểù là một hình tượng nghệ thuật được thêu dệt lên từ trí tưởng tượng của người xưa. Đầu lân được sơn vẽ đủ các mầu: xanh, đỏ, tím, vàng, đen... cái sừng nhô lên như sừng con tê giác ở phía gáy nó. Cái mũi rất to nhô lên. Khắp trên trán, trên má, người ta đính những chiếc gương nhỏ...

Người mang đầu lân là một nhân vật chính, kèm theo là người cầm đuôi, để rồi cả hai tùy theo nhịp trống, thanh la mà uốn lượn, khi lồng lên, khi giương oai, khi thu mình để nghỉ... Hàm dưới của lân có rất nhiều râu và râu dài. Cái miệng lúc nào cũng hớp hớp theo nhịp trống...

Đặc biệt trong múa lân có một nhân vật rất kỳ lạ, gọi là ông Địa, mặt to, tai lớn, bụng phệ, cười rất vui, một tay dương cao cây gậy trên có quả cầu, một tay phe phẩy chiếc quạt giấy. Có người cho rằng ông Địa là một nhân vật biểu hiện của niềm lạc quan, yêu đời, vui vẻ. Có người lại cho rằng ông Địa phản ảnh ước mơ của người xưa muốn thông qua vật tổ của mình để chinh phục thiên nhiên.

Trong dịp Tết Nguyên ĐánTết Trung Thu thường có tổ chức múa lân “Tùng xoèng, tùng xoèng...” đội múa lân đi đến đâu, phố phường, làng xóm nhộn nhịp đến đó, trẻ em, người lớn đổ ra xem, thật là nhộn nhịp trong những ngày vui xuân.

Bây giờ ở các thành phố vào những ngày Tết, hay Trung Thu, cả những ngày khai trương cửa hàng cũng mời các đội múa lân đến múa, các hiệu buôn tùy theo khả năng mà treo giải lớn, nhỏ, có chủ hiệu treo giải cực to để lấy tiếng và quảng cáo. Thường lân đến múa nơi nào thì nơi đó có đốt pháo, hoặc do chính đội lân mang pháo đến đốt.

Múa Rồng là điệu múa của một số nước phương Đông, nhưng ở Việt Nam điệu múa này có bản sắc riêng. Người Hoa ở nước ta rất thích múa Rồng. Hình con rồng Việt Nam thân dài, uyển chuyển uốn khúc như thân rắn, nhưng có nguồn gốc từ hình cá sấu. Việt Nam là xứ sở nông nghiệp, trồng lúa nước lâu đời, nên rất thích rồng vì nó là biểu tượng của vị thần làm ra nước, sấm chớp, để lúa má tốt tươi, vạn vật sinh sôi, nẩy nở. Vì vậy múa rồng rất phổ biến trong dân gian.

Hình con rồng ta thường thấy trong các đội múa ngày nay mang dáng dấp con rồng truyền thống, là con rồng của thời Lý, Trần (1009-1400). Thân của những con rồng này dài, mềm mại, có vây, vẩy, dọc lưng đến đuôi có hàng gai. Hình rồng được làm bằng vải mầu vàng, vẩy, vẽõ bằng mầu đen, mắt cũng màu đen. Thường có 8 người đội hình rồng: Một người đội đầu, sáu người đội thân và một người đội đuôi. Những người này múa theo nhịp trống dân gian.

D.- THẢ DIỀU:

Chơi thả diều là một thú tao nhã và có rất nhiều người thích thú, say mê và còn thi đua làm diều. Diều người ta chế ra nhiều loại: Diều sáo, diều cánh phản, diều chuồn chuồn... theo sử liệu diều có từ lâu đời. Nhưng có tài liệu nói nguồn gốc chơi diều ở Trung Quốc và một số nước Tây phương.

Ngoài Bắc có câu ca dao:
Cầm dây cho chắc,

Lúc lắc cho đều,

Để bố đâm diều,

Kiếm gạo con ăn.

Còn thi sĩ Tản Đà thì không quên được cánh diều: 
 
Nước gợn sông Đà con cá nhẩy,
Mây trùm non Tản cái diều bay,

Con diều thật là một giống chim thuộc bộ cắt, họ Ưng chuyên ăn thịt. Ở nước ta có khoảng 20 loài của họ Ưng. Từ diều trắng, diều lửa, diều hâu, đến kên kên... Diều, ta thường thấy mầu hung, cánh đen, bụng đỏ nhạt, mắt rất tinh, chân đầy móng sắc, các con thú nhỏ như chim, chuột, gà con, vịt con, đều là mồi ngon của diều. Diều bay lượn rất đẹp và có tốc độ cao, từ 70 đến 80 cây số giờ.

Trong dịp Hội đình làng tháng ba năm 1998 tôi có về thăm quê và dự “Đại Hội Truyền Thống Đình Làng”. Trong dịp này tôi cũng vui chơi với một số các cụ và dân làng đi thả diều đây là một dịp tôi hồi tưởng lại cái thú vui xuân của thời kỳ thơ ấu. Nghề chơi diều có sức lôi cuốn ghê gớm và cũng lắm công phu. Ở Pháp có liên đoàn chơi diều gồm 6 hiệp hội với khoảng 600 thành viên.

Trên đây tôi chỉ tưởng nhớ lại một số trò chơi tao nhã và thú vị theo sở thích của tôi lúc còn thiếu thời sống trong cảnh thanh bình, thịnh vượng xưa kia ở tại quê nhà, ngoài các trò chơi trên còn nhiều môn chơi khác như: Đánh đu, leo cầu thùm, đấu vật, các cụ thì tổ tôm, tài bàn, xóc đĩa, chắn cạ... đấu võ. Võ nghệ cũng rất quan trọng đối với nhân dân ta. Từ ngàn xưa, dân tộc Việt Nam ta vốn có truyền thống Thượng võ. Võ được xếp ngang hàng với Văn Chương.

Theo truyền thống từ ngàn xưa của thời thanh bình nơi quê tôi, quả thực vô cùng thích thú với tuổi thanh xuân. Một năm các cụ trong dân gian có tám cái Tết, tôi xin ghi lại đây để truyền bá lại cho các thế hệ mai sau biết về truyền thống văn hóa của dân tộc mình. Dù ngày nay người Việt Nam sống ở bất cứ thời gian hay không gian nào cũng cần phải biết đến truyền thống nòi giống của dân gian từ bao đời để lại.

Tết Nguyên Đán là tết khởi đầu của một năm. Ý nghĩa tôi đã dẫn giải nêu trên, bây giờ xin quí độc giả hãy cùng tôi điểm sơ lược về ý nghĩamục đích của các ngày Tết tiếp theo trong năm:
 
2.- TẾT HÀN THỰC:

Tết Hàn Thực (Hàn Thực nghĩa là ăn đồ lạnh) được tổ chức vào ngày 3 tháng 3 âm lịch mỗi năm. Trong dịp này người ta nấu bánh trôi, bánh chay để cúng gia tiên. Ta du nhập tục lệ này của người Trung Hoa. Người Tầu tổ chức Tết Hàn Thực để kỷ niệm vị công thần tên là Giới Tử Thôi (thường gọi tắt là Giới Tử) thuộc nhà Tần đời Xuân Thu bị chết thiêu.

3.- TẾT THANH MINH:

Tết Thanh Minh được tổ chức vào tháng 3 âm lịch hàng năm. Thanh Minh nghĩa là tiết trời mát mẻ trong sáng, không mưa, không nắng. Trong dịp này người ta đi tảo mộ, tức là thăm mộ thân nhân, nhổ sạch cỏ hoang, đắp lại mộ Ông Bà gia tiên nội ngoại, thân bằng quyến thuộc đã quá vãng. Thắp nhang bày hoa quả cúng mộ. Sau khi tảo mộ, người ta về nhà làm cỗ cúng gia tiên. Trong những tài liệu nói về phong tục Việt, người ta không đề rõ ngày nào là ngày thanh minh. Nguyễn Du cũng chỉ nói:

Thanh Minh trong tiết tháng ba 
Lễ là tảo mộ, hội là Đạp Thanh
(Kiều câu 43-44).

Thanh Minh vừa là ngày Tết và vừa là ngày lễ hội vui như ngày Tết. Chính vì thế người ta mới coi ngày Thanh Minh như ngày Tết. Tuy nhiên theo lịch ta, nhà làm lịch đã tuỳ theo thời tiết để ấn định ngày nào là ngày Thanh Minh. Mỗi năm có ngày Thanh Minh khác nhau.

4.- TẾT ĐOAN NGỌ:
(VÀO NGÀY 5 THÁNG 5 ÂM LICH)

Tết Đoan Ngọ hay Đoan Dương mà người ta còn gọi Tết giết sâu bọ, được tổ chức vào ngày 5 tháng 5 ta. Trước ngày Tết này độ 3 ngày người ta làm rượu nếp để cúng và ăn vào sáng ngày 5 Tết. Đây là món ăn tiêu biểu cho ngày Tết Đoan Ngọ của Việt Nam ta để “Giết sâu bọ”. Ngoài ra dân ta còn nấu bánh đa kê và mua các trái cây như mận, xoài, dưa hấu, chanh... để cúng gia tiên và cho các trẻ con và người lớn ăn để “giết sâu bọ”. Sáng ngày 5 mọi người đi hái lá cây như lá cối xay, và lá vối đem phơi khô nấu nước uống để trừ bệnh hoạn. Trong dịp này nhiều người còn mua bùa đeo vào cổ cho trẻ con để trừ tà ma nữa.

5.- TẾT TRUNG NGUYÊN

Tết Trung Nguyên được tổ chức vào ngày 15 tháng 7 ta. Tết này còn được gọi là Tết rằm tháng bảy, “Lễ Vu Lan - Mùa Báo Hiếu”, ngày nhớ ơn sinh thành của Ông Bà, tổ tiên đã quá vãngcha mẹ hiện tiền, cũng là ngày cúng các cô hồn và xóa tội vong nhân. Để biết rõ về “Tết Trung Nguyên” xin xem bài “Ý Nghĩa ngày Lễ Vu-Lan Bồn” và nhiều bài khác, tôi đã viết có đăng trên các trang nhà, website ở New-York www.vngarden.com/forums (mục Buddhist Club) 
và ở Úc www.quangduc.com/tacgia/nguyenduccan/html 
Ấn Độ www.daophatngaynay.com

6.- TẾT TRUNG THU:

Tết Trung Thu được tổ chức vào ngày 15 tháng 8 ta. Tết này còn được gọi là Tết Rằm Tháng Tám, Tết Nhi Đồng, hay Tết trẻ em. Vào đêm rằm tháng tám trăng Trung Thu rất tròn và trong sáng tỏ rõ, thời tiết mát mẻ, khí hậu ôn hòa. Trong dịp này có nhiều thú vui để cho trẻ em và người lớn hoà nhịp chung vui. Trẻ em thì rước đèn, ca hát các bài hát Trung Thu, và vui hưởng bánh kẹo (đặc biệt loại bánh Trung Thu, như bánh nướng, bánh dẻo, chỉ ngày Tết Trung Thu mới có) cùng các thứ trái cây do cha mẹ bầy ở ngoài sân trong đêm Trung Thu dưới hình thức mâm cỗ. Theo tục lệ, việc trẻ con thưởng thức bánh kẹo trái cây này được gọi là “phá cỗ”. Người lớn thì tổ chức các đội múa lân, múa rồng (như tôi đã nói ở mục Tết Nguyên Đán) nêu trên ăn bánh Trung Thu, uống nước trà tầu thưởng trăng, ngắm trăng sao để tiên đoán được thời tiếtvận mệnh của đất nước trong năm.

Tết Trung Thu trăng tròn vằng vặc,
Nhớ mẹ cha canh cách bên lòng”

“Cha còn như ngọn đèn trong,

Mẹ còn như ánh trăng rằm Trung Thu”

 
7.- TẾT TRÙNG CỬU: 
(Tết được tổ chức vào ngày 9 tháng 9 ta).

Tết Trùng cửu còn gọi là Tết Trùng Dương được tổ chức vào ngày 9 tháng 9 ta (số 9 là số Dương). Tết này lấy sự tích từ câu chuyện lánh nạn của Hoàng Cảnh, đời Hậu Hán bên Tầu, Hoàng Cảnh theo học đạo tiên với Phi Trường Phòng, một hôm Phi Trường Phòng bảo Hoàng Cảnh là đến ngày 9 tháng 9, gia đình của anh ta sẽ gặp tai nạn. Muốn tránh nạn thì cả nhà phải đi lên núi chơi vào ngày hôm ấy, nhớ mang theo rượu hoa cúc để uống, phải đeo ở tay mỗi người một túi đỏ để đựng hạt tiêu và ở chơi trên núi cao tối mới trở về. Quả thực tối mọi người trở về đến nhà thì thấy các gia súc đều chết hết. Chính vì sự tích này mà Tết Trùng Cửu, người ta có tục bỏ nhà lên núi uống rượu cúc. Sau này không ai tổ chức Tết Trùng Cửu, vì nó hoàn toàn theo tục lệ của người Tầu. Tuy nhiên, các tao nhân mạc khách thường mượn dịp này lên núi uống rượu làm thơ.

8.- TẾT TRÙNG THẬP:
(Song Thập vào ngày 10 tháng 10 ta)

Tết Trùng thập là tết được tổ chức vào ngày 10 tháng 10 ta. Tết này cũng là tết của người Tầu, (hiện nay ở Đài Loan vẫn tổ chức Tết Song Thập) ít được người Việt mình theo. Chỉ có các nhà đồng cốt (người lên đồng bóng) và các thầy thuốc ta còn theo phong tục này. Ở nhà quê cũng có một số nơi người Việt ta ăn Tết Trùng Thập, Người ta thường làm bánh dầy và chè kho để cúng gia tiên và cúng thần trong dịp Tết Trùng Thập... Có nơi ăn Tết Trùng Thập vào ngày 31 tháng 10 để nhớ đến công Tiên Nông và để ăn mừng công việc thu hoạch vụ mùa đã xong.
 
9.- TẾT TÁO QUÂN:
(Ngày 23 tháng 12 (chạp) hàng năm)

Tết Táo Quân (Táo Quân là vua bếp) được tổ chức vào ngày 23 tháng chạp (tháng 12) ta. Theo tục truyền ngày ấy vua bếp lên chầu “Ngọc Hoàng Thượng Đế” để tâu việc thiện ác của trần gian. Vì thế người ta làm lễ tiễn Táo Quân vào ngày đó. Ở quê tôi thời xưa nhà nào cũng thay mấy Ông đầu rau bếp cũ đem liệng xuống ao, hồ và thay thế các Ông đầu rau mới thường làm bằng đất sét. Mỗi bếp có 3 ông đầu rau. Trong lễ cúng ngoài các phẩm vật, cỗ bàn thường lệ ra còn phải có con cá chép để làm ngựa cho Táo Quân cưỡi về trời để tâu Ngọc Hoàng như:

Khởi tấu Ngọc Hoàng
Thần Táo sức sống
Đến năm đúng ngày
Hai ba tháng chạp
Khẩn đầu trước bệ
Trình tấu mọi bề
Chuyện ở trần gian...

Trên đây là các ngày Tết của một năm, khởi đầu là Tết Nguyên Đán. Tôi sưu tầm và dẫn giải nêu trên với mục đích truyền lại cho các thế hệ trẻ sau này tìm hiểu về nguồn gốc của dân tộc mình do tiền nhân để lại.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 163)
Tín ngưỡng Dược Sư với đại diện là thế giới Lưu ly nằm ở phương Đông mà nó tương tự với các cõi Tịnh độ khác, đều dùng việc
(Xem: 215)
Hai câu hỏi hiện lên trong đầu tôi khi nghĩ về giáo lý vô thường liên quan đến cuộc đời tôi.
(Xem: 409)
Lôgic học là một ngành học có mục đích xác định các quy tắc vận hành của tư duy để tìm kiếm sự thực.
(Xem: 308)
Trong quá trình hình thành và phát triển xã hội, con người luôn khát khao tìm cầu hạnh phúc, thỏa mãn nhu cầu về vật chất và tinh thần.
(Xem: 337)
Tuệ là trí tuệ tức cái biết, thức là nhận thức cũng là cái biết. Cả hai đều là cái biết nhưng có đặc điểm khác nhau.
(Xem: 386)
Khái niệm Niết-bàn vốn thành hình cách đây hơn 2500 năm. Các học giả và các triết gia khác nhau
(Xem: 621)
Ở trên là hai câu đầu trong bài kệ Lục Tổ Huệ Năng khai thị nhân bài kệ của thiền sư Ngọa Luân. Câu chuyện được thuật lại trong Pháp Bảo Đàn Kinh, phẩm Cơ Duyên thứ 7.
(Xem: 678)
Chữ “Tăng đoàn” là một thuật ngữ tiếng Phạn, có nghĩa là “cộng đồng” và được sử dụng chủ yếu để chỉ những tín đồ đã xuất gia của Đức Phật,
(Xem: 636)
Tóm tắt: Phật giáo là tôn giáo được biết đến như một hệ thống triết học mang đậm chất tư duy, trí tuệ cùng giá trị đạo đức cao.
(Xem: 685)
Mỗi người hiểu về nghiệp theo mỗi kiểu khác nhau tùy vào nhận thức và trải nghiệm bản thân, nhưng phần lớn vẫn chịu ảnh hưởng của cách hiểu trong dân gian về khái niệm của từ này.
(Xem: 599)
Từ ngàn xưa cho đến thời điểm xã hội phát triển mạnh mẽ về mọi mặt như hiện nay, mặc dù nền văn minh có bước tiến bộ vượt bậc
(Xem: 540)
iáo lý Duyên khởi được xem như chiếc chìa khóa mở ra kho tàng pháp bảo Phật giáo, vì có thể giải quyết những vấn đề của khổ đau, cả sự sanh ra hay chết đi của con người.
(Xem: 594)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh tập thứ 14. Kinh văn số 550 gồm 12 quyển. Chữ Hán từ trang 865 đến trang 894, gồm tất cả 29 trang.
(Xem: 685)
Những nhu cầu của con người sinh học thì giản dị, khi đói chỉ mong được ăn, khi khát mong được uống, khi mệt mong được nằm,
(Xem: 702)
Khi thân thể tiều tụy chỉ còn da bọc xương, những khổ thọ chết người đều đã trải qua,
(Xem: 800)
Trong quá trình thuyết giáo của đức Phật, những lời dạy của Ngài không được lưu giữ dưới dạng văn bản chữ viết
(Xem: 598)
Nhân ngày húy nhật của Hòa thượng Thích Trí Thủ, một trong những vị tông sư hoằng truyền luật học Phật giáo thời cận đại,
(Xem: 492)
Hành giả tu hành muốn mau đạt đến kết quả như mình mong muốn thì, điều kiện tiên quyết trước hết là chúng ta cần phải chọn lựa pháp môn nào cho thích hợp với căn cơ của mình
(Xem: 574)
Trọng tâm của triết học Phật giáohọc thuyết nổi tiếng về tính không - rằng tất cả chúng sinhhiện tượng đều trống rỗng về bản chất hay bản chất cố hữu.
(Xem: 667)
Vô phân biệt được nói đến nhiều lần trong Kinh Đại Bát Nhã Ba La Mật.
(Xem: 588)
Theo lý Duyên Khởi của đạo Phật, tất cả vạn hữu vũ trụ được hình thành do yếu tố hòa hiệp của nhơn duyên và sẽ đi đến phân ly do duyên tan rã.
(Xem: 590)
Cuộc chiến đấu mới–Sau khi Đức Phật nhập diệt, hình bóng của ngài vẫn hiện ra trong hàng thế kỷ trong một hang động–một hình bóng rất lớn
(Xem: 695)
Như Nietzsche khuyên răn chúng ta hãy lại bắt đầu học làm mới bằng cách để ý đến những việc ‘tầm thường’ và sự vận hành của ‘thân’ để xác định
(Xem: 709)
Tôi nghĩ là làm một việc có lý khi bác bỏ tuyên bố của Nietzsche rằng đạo Phật là một dạng của ‘thuyết hư vô thụ động,’ rằng đạo Phật truyền dạy
(Xem: 703)
Đặt vấn đề có phải đạo Phật là một dạng của ‘Chủ thuyết hư vô thụ động’ có nghĩa là đặt vấn đề liệu summum bonum[1] của đạo Phật,
(Xem: 768)
Dù có nhiều tác phẩm đa dạng về Phật học thích dụng ở Châu Âu thời kỳ trước Nietzsche,
(Xem: 791)
Nhân ngày húy nhật của Hòa thượng Thích Trí Thủ, một trong những vị tông sư hoằng truyền luật học Phật giáo thời cận đại,
(Xem: 768)
Hành giả tu hành muốn mau đạt đến kết quả như mình mong muốn thì, điều kiện tiên quyết trước hết là chúng ta cần phải chọn lựa pháp môn nào
(Xem: 960)
Cửa vào bất nhị, còn gọi là pháp môn bất nhị, từ xa xưa đã được truyền dạy từ thời Đức Phật, chứ không phải là hậu tác của chư tổ Bắc Tông,
(Xem: 827)
Tinh thần hòa hiệp là ý nghĩa sống lành mạnh an vui, tinh thần của một khối người biết tôn trọng ý niệm tự tồn, và xây dựng vươn cao trong ý chí hướng thượng.
(Xem: 1383)
Xuất xứ của Bát Chánh Đạo có hai nguồn là nguồn từ Phật chứng ngộ mà thuyết ra và nguồn được kết tập lại từ các kinh điển
(Xem: 912)
Tam tam-muội là chỉ cho ba loại định, tức là ba loại pháp môn quán hành của Phật giáo, được xem như là nguyên lý thực tiễn của Thiền định.
(Xem: 1076)
Tôi kính lễ bái bậc Chánh giác, bậc tối thắng trong hết thảy các nhà thuyết pháp, đã thuyết giảng Duyên khởibất diệtbất sinh,
(Xem: 832)
Thay vì tìm hiểu nguồn gốc tại sao phải chịu luân hồi sinh tử, con người không ngừng tìm kiếm căn nguyên của vũ trụ vạn vật, nơi mình sinh ra;
(Xem: 1060)
Khi Thái tử Tất-đạt-đa nhận thấy tất cả mọi người dân đang chìm trong đau khổ, và ngay chính bản thân mình rồi cũng phải chịu qui luật già, bệnh, chết
(Xem: 991)
Danh từ nghiệp hay karma (skt.) được đề cập thường xuyên trong các luận giải về tư tưởng triết họctôn giáo Ấn-độ.
(Xem: 980)
Tứ quả là bốn quả vị sai biệt của các bậc Thánh Thinh Văn thừa, tùy thuộc vào trình độ căn cơ của hành giả đã đạt được sau khi tu tập
(Xem: 1121)
Sau khi hoàng hậu Ma-da (Mayā) quá vãng, vua Tịnh Phạn (Suddhodana) tục huyền với Mahāpajāpatī Gotami và bà đã xuất gia
(Xem: 1397)
Kinh Pháp Hoa dạy rằng: “Đức Phật ra đời vì một đại nhân duyên. Đó là khai thị cho chúng sanh liễu ngộ Phật tri kiến nơi mình”.
(Xem: 1740)
Một trong những hình thức ta nuôi dưỡng phiền giận về chính mình là mặc cảm tội lỗi.
(Xem: 971)
Các câu hỏi, không khác với câu khẳng định, dựa trên các giả định.
(Xem: 1157)
Đối với những người nhìn vào Phật giáo qua phương tiện tiếng Anh, việc thực hành lòng từ bi và sự xả ly có thể không tương thích với nhau,
(Xem: 966)
Từ khi đức Phật xác lập: “Mọi vật đều vô thường, mọi vật đều vô ngã”, thường được diễn tả với danh từ Sarvam Sùnyam (mọi vật đều Không).
(Xem: 817)
Trong lịch sử Thiền Tông Việt Nam, Thiền sư Trần Thái Tông (1218-1277) được kể như một nhân vật vô cùng đặc biệt, với nội tâm giác ngộ cao siêu,
(Xem: 944)
Trước đây qua giáo lý của Đức Phật chúng ta hiểu rằng Đạo Phật là đạo xây dựng trên nền tảng trí tuệ, tức dùng sự giác ngộ, hiểu biết
(Xem: 971)
Thiền sư Trần Thái Tông (1218 -1277) một vị thiền sư siêu việt, ông vua anh minh, nhà tư tưởng lớn, một nhân cách cao cả.
(Xem: 1394)
Nhận thức rằng tất cả đều là giả tạm và cuộc đời là một nỗi khổ đau lớn, nên đức Phật mới đi tìm chân lýgiác ngộ chân lý.
(Xem: 1138)
Khi đức Phật còn tại thế, Ngài đã quy chế cho cộng đồng Tăng phải an cư ba tháng mùa mưa, ngày nay lịch an cư tùy hệ phái, từ rằm tháng tư đến rằm tháng bảy theo truyền thống Phật giáo Bắc phương;
(Xem: 1171)
Trung đạo là khái niệm được dùng khá nhiều trong Phật giáo. Tùy duyênTrung đạo được định nghĩa khác nhau,
(Xem: 924)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh tập thứ 14. Kinh văn số 550 gồm 12 quyển. Chữ Hán từ trang 865 đến trang 894, gồm tất cả 29 trang.
(Xem: 1068)
Trong năm bộ Nikaya của hệ Pali, Đức Phật thường nói đến sự “không có lõi cứng” của các hiện tượng, từ thân tâm, cho đến thế giớichúng sanh.
(Xem: 1518)
Con người sống trong một thế giới mà đối với anh ta dường như là một cái gì đó hoàn toàn tách biệt với chính anh ta.
(Xem: 1395)
Nhân quả là một định luật tất yếu trong sự hình thành nhân sinh quan và vũ trụ quan qua liên hệ duyên khởi của cuộc sống con người, mà qua đó nhân quả được coi như là một luật tắc không thể thiếu được khi hình thành một xã hội nhân bản đạo đức.
(Xem: 1384)
Bất hạnh lớn nhất của Phật tử chúng ta là sinh ra vào một thời không có Phật. Một mất mát lớn, gần như không gì có thể thay thế. Hơn thế nữa, bất hạnh này đang trở thành một nỗi ám ảnhchúng ta không thể nào dứt bỏ trong cuộc hành trình dài, đơn độc qua bao vòng xoáy của kiếp người chúng ta không biết mình đang ở đâu và sẽ đi về đâu trong chuyến di này.
(Xem: 979)
Nhân ngày húy nhật của Hòa thượng Thích Trí Thủ, một trong những vị tông sư hoằng truyền luật học Phật giáo thời cận đại, tôi trích đoạn trong tác phẩm lịch sử của tôi đang viết chưa hoàn thiện, có nhắc đến công trạng của ngài, như dâng lên tấm lòng tưởng niệm đến bậc Long tượng Phật giáo.
(Xem: 1373)
Trúc Đạo Sinh, người họ Ngụy 魏, sinh ra[1] khi gia đình cư ngụBành Thành 彭城, nay là Từ Châu 徐州 phía Bắc tỉnh Giang Tô 江蘇. Nguyên quán gia đình trước ở miền Tây Nam, tỉnh Hà Bắc, sau chuyển về huyện Cự Lộc 钜鹿.
(Xem: 1288)
Nói về vấn đề “trước nhất”, Kinh Phạm Võng với nội dung cốt yếu giới thiệu về quan điểm của các phái ngoại đạo, chính là bộ kinh đầu tiên trong Trường Bộ.
(Xem: 1213)
Lý tưởng về một vị Bồ tát bắt nguồn từ Phật giáo Nguyên thủy và được phát triển hoàn thiện trong tinh thần Phật giáo Đại thừa.
(Xem: 1250)
Khi học sinh từng người, từng người tốt nghiệp rời khỏi Phật học viện rồi, tôi bắt đầu xây dựng Biệt phân viện[1]khắp nơi, để ...
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant