Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

03. Tu Phật thất

15 Tháng Giêng 201200:00(Xem: 12424)
03. Tu Phật thất

TÔN GIÁO VÀ DÂN TỘC
Tuệ Minh Đạo Nguyễn Đức Can

CHƯƠNG I
TU PHẬT THẤT

Phật thất, hai chữ này rất mới lạ đối với Phật tử Việt Nam chúng ta. Có người khi nghe hai chữ này thường nhầm lẫn là nhập thất. Vậy Phật thấtnhập thất nó khác nhau ở chỗ nào? Phật thất là 7 ngày niệm Phật, chữ thất này là số 7. Còn nhập thất là vào ở trong một căn nhà tu tập, chữ thất này là nhà. Phật thất mang tính cộng tu, nhập thất mang tính biệt tu. Phật thất cũng gần giống như tu Bát Quan Trai, nhưng khác nhau là Phật thất tu 7 ngày đêm, Bát Quan Trai tu một ngày đêm. Phật thất không thọ 8 giới mà mỗi người phải tự giữ giới của mình đã thọ và chấp hành đúng nội qui khoá tu đặt ra. Phật thất cũng có thể xem là đoản kỳ xuất gia (Xuất gia ngắn hạn). Bởi lẽ trong 7 ngày tu tại tự viện, họ phải sống đời phạm hạnh giống như tu sĩ.

Phật thất bắt nguồn tại Trung Quốc, được tổ chức từ lúc nào chúng tôi chưa có tài liệu để biết chính xác. Về nguyên nhân tổ chức Phật thất thì chắc chắn do các bậc Tổ sư Trung Quốc đã căn cứ vào Kinh A Di Đà. Kinh văn khuyên người chí thành niệm Phật từ một ngày đến 7 ngày, niệm đến nhất tâm bất loạn. Kết quả hiện tại thân tâm tịnh lạc, vị lai vãng sanh Phật Quốc. Do đó, các vị Tổ sư đã tổ chức Phật thấtTrung Quốc gọi là đả Phật thất, cố giúp cho hàng Phật tử tại giađiều kiện thuận lợi cắt bớt trần duyên, đến chùa thúc liễm thân tâm, tinh tấn niệm Phật

Về pháp tu, khoá tu Phật thất chuyên trì danh hiệu Phật A-Di-Đà, được chia ra làm 3 cấp tu, tuỳ theo khả năng tu tập của mỗi người mà chọn lựa. Cấp một gọi là Tín tâm niệm Phật, cứ 15 phút ngồi và 15 phút kinh hành, niệm Phật ra tiếng. Cấp hai gọi là chuyên tâm niệm Phật, ngồi niệm 30 phút, kinh hành 15 phút, niệm thầm. Cấp ba gọi là nhất tâm niệm Phật, ngồi từ một giờ đến hai giờ, niệm thầm. Thời khoá công phu mỗi ngày là 7 giờ chia làm năm thời. Ngoài thời khoá chính thức này, thì mở băng niệm Phật để Phật tử lúc nào cũng nhiếp tâm vào câu niệm Phật.

Để cho việc tu và học đạt kết quả tốt, mỗi ngày có một giờ pháp thoại do các vị giảng sư đảm trách. Thầy hướng dẫn cũng cần đặt ra năm tiêu chuẩn tu tập để Phật tử theo đó mà hành trì, được thể hiện qua câu lục bát:

Lục hòa, nghiêm tịnh, tinh cần
Nhất tâm an lạc trọn phần khoá tu.

Trong khóa tu, cần chú trọng đến bốn oai nghi đi, đứng, nằm, ngồi. Khi đi lên chánh điện công phu, đi ăn cơm đều phải xếp hàng trang nghiêm, đi phải khoan thai, ngồi phải thẳng lưng, kinh hành phải đúng nhịp chân và đúng vị trí ngay hàng thẳng lối. Trong lúc ăn cơm phải im lặng giữ chánh niệm. Đứng lên ngồi xuống phải nhẹ nhàng không nên kéo ghế gây tiếng động. Ngoài ba bữa ăn ra, không được ăn phi thời, không được ngủ nghỉ phi thời. Đặt ra nội qui nghiêm ngặt như thế nhằm mục đích giúp cho Phật tử thúc liễm thân tâm, trau dồi giới đức. Khi tâm nhiếp vào câu niệm Phật, thân có oai nghi tế hạnh thì ba nghiệp sẽ thanh tịnh. Nhờ sống bẩy ngày trong thiền môn qui củ, họï mới cảm nhận được giá trị của đời sống phạm hạnh, mới có đủ thời gian để rèn luyện oai nghi sửa đổi thói hư tật xấu. Do cách tổ chức khóa học, nội qui nghiêm ngặt, thời khoá công phu tu học hợp lý. Sau bẩy ngày tu học, Phật tử nhận được kết quả rất viên mãn cho thân và tâm. 

Cuối năm 1998, Người đầu tiên là Thầy Thích Chân Tính, ở chùa Hoằng Pháp Hóc Môn VN, sang Đài Loan tham quan các chùa có ghé thăm Phật Quang Sơn. Sáng hôm sau Thầy thấy một đoàn người hơn 600 vị, cả xuất gia lẫn cư sĩ đi hàng đôi vào trai đường. Một hàng người mặc hậu đen và y đen, một hàng người mặc đồ lam và áo tràng lam, giầy vớ đồng mầu đồng kiểu. Trong trai đường, từ khi họ vào đến khi ngồi xuống ăn uống đều trang nghiêm im lặng, ăn trong chánh niệm, không có tiếng động mạnh. Hôm sau quí Thầy đến chùa Linh Nham của Hoà Thượng Diệu Liên. Lúc đến chùa khoảng 19 giờ. Tại chánh điện có gần 1.000 Phật tử đang niệm Phật kinh hành. Tiếng niệm Phật trầm bổng như một bản nhạc hoà tấu nhịp nhàng. Đặc biệt các động tác đứng lên, ngồi xuống, kinh hành được thực hiện một cách thuần thục.

Với mô hình tu tập như trên hiện đã và đang được thực hiện tại một số chùa ở Việt Nam và ở hải ngoại, nhất là tại Hoa Kỳ cũng đang được quí Thầy tổ chức tại một số tự viện hầu tạo điều kiện cho các Phật tử tại gia có cơ hội tham gia tu tập với ước mong làm bớt căng thẳng tinh thần ở một đất nước mọi người đang chạy theo thời gian tranh đua về vật chất. Tôi hy vọng mọi người Phật Tử nên dành thời gian đi tham gia các khoá tu tập Phật Thất để cho tinh thần được thanh thoáttinh tấn.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 22)
Sơ quả hay Tu-đà-hoàn là quả vị Thánh đầu tiên mà người Phật tử có thể chứng đạt ngay hiện đời.
(Xem: 173)
Cuộc đời và công việc của Bồ tát được nói trong phần cuối đoạn Đồng tử Thiện Tài gặp đức Di Lặc.
(Xem: 204)
Trong khi các tín ngưỡng về nghiệp và tái sinh là phổ biến vào thời của Đức Phật,
(Xem: 225)
Đây là ba phạm trù nghĩa lý đặc trưng để bảo chứng nhận diện ra những lời dạy của đức Đạo sư một cách chính xác mà không
(Xem: 292)
Đi vào Pháp giới Hoa nghiêm là đi vào bằng bồ đề tâm thanh tịnh và được cụ thể hóa bằng nguyện và hạnh.
(Xem: 206)
Nhị đế là từ được qui kết từ các Thánh đế (āryasatayā) qua nhân quả Khổ-Tập gọi là Tục đế
(Xem: 255)
Quí vị không giữ giới luật có thể không làm hại người khác, nhưng thương tổn tự tánh cuả chính mình.
(Xem: 356)
Lầu các của Đức Di Lặc tượng trưng cho toàn bộ pháp giới của Phật Tỳ Lô Giá Na; lầu các ấy có tên là Tỳ Lô Giá Na Đại Trang Nghiêm.
(Xem: 318)
Trong kinh Duy Thức thuộc tạng kinh phát triển, để chỉ cho sự huân tập thành khối nghiệp lực (A Lại Da Thức và Mạc Na Thức,)
(Xem: 304)
Tín ngưỡng Dược Sư với đại diện là thế giới Lưu ly nằm ở phương Đông mà nó tương tự với các cõi Tịnh độ khác, đều dùng việc
(Xem: 384)
Hai câu hỏi hiện lên trong đầu tôi khi nghĩ về giáo lý vô thường liên quan đến cuộc đời tôi.
(Xem: 615)
Lôgic học là một ngành học có mục đích xác định các quy tắc vận hành của tư duy để tìm kiếm sự thực.
(Xem: 477)
Trong quá trình hình thành và phát triển xã hội, con người luôn khát khao tìm cầu hạnh phúc, thỏa mãn nhu cầu về vật chất và tinh thần.
(Xem: 484)
Tuệ là trí tuệ tức cái biết, thức là nhận thức cũng là cái biết. Cả hai đều là cái biết nhưng có đặc điểm khác nhau.
(Xem: 582)
Khái niệm Niết-bàn vốn thành hình cách đây hơn 2500 năm. Các học giả và các triết gia khác nhau
(Xem: 754)
Ở trên là hai câu đầu trong bài kệ Lục Tổ Huệ Năng khai thị nhân bài kệ của thiền sư Ngọa Luân. Câu chuyện được thuật lại trong Pháp Bảo Đàn Kinh, phẩm Cơ Duyên thứ 7.
(Xem: 840)
Chữ “Tăng đoàn” là một thuật ngữ tiếng Phạn, có nghĩa là “cộng đồng” và được sử dụng chủ yếu để chỉ những tín đồ đã xuất gia của Đức Phật,
(Xem: 859)
Tóm tắt: Phật giáotôn giáo được biết đến như một hệ thống triết học mang đậm chất tư duy, trí tuệ cùng giá trị đạo đức cao.
(Xem: 846)
Mỗi người hiểu về nghiệp theo mỗi kiểu khác nhau tùy vào nhận thức và trải nghiệm bản thân, nhưng phần lớn vẫn chịu ảnh hưởng của cách hiểu trong dân gian về khái niệm của từ này.
(Xem: 737)
Từ ngàn xưa cho đến thời điểm xã hội phát triển mạnh mẽ về mọi mặt như hiện nay, mặc dù nền văn minh có bước tiến bộ vượt bậc
(Xem: 712)
iáo lý Duyên khởi được xem như chiếc chìa khóa mở ra kho tàng pháp bảo Phật giáo, vì có thể giải quyết những vấn đề của khổ đau, cả sự sanh ra hay chết đi của con người.
(Xem: 715)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh tập thứ 14. Kinh văn số 550 gồm 12 quyển. Chữ Hán từ trang 865 đến trang 894, gồm tất cả 29 trang.
(Xem: 815)
Những nhu cầu của con người sinh học thì giản dị, khi đói chỉ mong được ăn, khi khát mong được uống, khi mệt mong được nằm,
(Xem: 835)
Khi thân thể tiều tụy chỉ còn da bọc xương, những khổ thọ chết người đều đã trải qua,
(Xem: 942)
Trong quá trình thuyết giáo của đức Phật, những lời dạy của Ngài không được lưu giữ dưới dạng văn bản chữ viết
(Xem: 718)
Nhân ngày húy nhật của Hòa thượng Thích Trí Thủ, một trong những vị tông sư hoằng truyền luật học Phật giáo thời cận đại,
(Xem: 618)
Hành giả tu hành muốn mau đạt đến kết quả như mình mong muốn thì, điều kiện tiên quyết trước hết là chúng ta cần phải chọn lựa pháp môn nào cho thích hợp với căn cơ của mình
(Xem: 715)
Trọng tâm của triết học Phật giáohọc thuyết nổi tiếng về tính không - rằng tất cả chúng sinhhiện tượng đều trống rỗng về bản chất hay bản chất cố hữu.
(Xem: 827)
Vô phân biệt được nói đến nhiều lần trong Kinh Đại Bát Nhã Ba La Mật.
(Xem: 718)
Theo lý Duyên Khởi của đạo Phật, tất cả vạn hữu vũ trụ được hình thành do yếu tố hòa hiệp của nhơn duyên và sẽ đi đến phân ly do duyên tan rã.
(Xem: 709)
Cuộc chiến đấu mới–Sau khi Đức Phật nhập diệt, hình bóng của ngài vẫn hiện ra trong hàng thế kỷ trong một hang động–một hình bóng rất lớn
(Xem: 825)
Như Nietzsche khuyên răn chúng ta hãy lại bắt đầu học làm mới bằng cách để ý đến những việc ‘tầm thường’ và sự vận hành của ‘thân’ để xác định
(Xem: 852)
Tôi nghĩ là làm một việc có lý khi bác bỏ tuyên bố của Nietzsche rằng đạo Phật là một dạng của ‘thuyết hư vô thụ động,’ rằng đạo Phật truyền dạy
(Xem: 827)
Đặt vấn đề có phải đạo Phật là một dạng của ‘Chủ thuyết hư vô thụ động’ có nghĩa là đặt vấn đề liệu summum bonum[1] của đạo Phật,
(Xem: 864)
Dù có nhiều tác phẩm đa dạng về Phật học thích dụng ở Châu Âu thời kỳ trước Nietzsche,
(Xem: 902)
Nhân ngày húy nhật của Hòa thượng Thích Trí Thủ, một trong những vị tông sư hoằng truyền luật học Phật giáo thời cận đại,
(Xem: 888)
Hành giả tu hành muốn mau đạt đến kết quả như mình mong muốn thì, điều kiện tiên quyết trước hết là chúng ta cần phải chọn lựa pháp môn nào
(Xem: 1087)
Cửa vào bất nhị, còn gọi là pháp môn bất nhị, từ xa xưa đã được truyền dạy từ thời Đức Phật, chứ không phải là hậu tác của chư tổ Bắc Tông,
(Xem: 953)
Tinh thần hòa hiệp là ý nghĩa sống lành mạnh an vui, tinh thần của một khối người biết tôn trọng ý niệm tự tồn, và xây dựng vươn cao trong ý chí hướng thượng.
(Xem: 1676)
Xuất xứ của Bát Chánh Đạo có hai nguồn là nguồn từ Phật chứng ngộ mà thuyết ra và nguồn được kết tập lại từ các kinh điển
(Xem: 1067)
Tam tam-muội là chỉ cho ba loại định, tức là ba loại pháp môn quán hành của Phật giáo, được xem như là nguyên lý thực tiễn của Thiền định.
(Xem: 1211)
Tôi kính lễ bái bậc Chánh giác, bậc tối thắng trong hết thảy các nhà thuyết pháp, đã thuyết giảng Duyên khởibất diệtbất sinh,
(Xem: 956)
Thay vì tìm hiểu nguồn gốc tại sao phải chịu luân hồi sinh tử, con người không ngừng tìm kiếm căn nguyên của vũ trụ vạn vật, nơi mình sinh ra;
(Xem: 1215)
Khi Thái tử Tất-đạt-đa nhận thấy tất cả mọi người dân đang chìm trong đau khổ, và ngay chính bản thân mình rồi cũng phải chịu qui luật già, bệnh, chết
(Xem: 1117)
Danh từ nghiệp hay karma (skt.) được đề cập thường xuyên trong các luận giải về tư tưởng triết họctôn giáo Ấn-độ.
(Xem: 1124)
Tứ quả là bốn quả vị sai biệt của các bậc Thánh Thinh Văn thừa, tùy thuộc vào trình độ căn cơ của hành giả đã đạt được sau khi tu tập
(Xem: 1281)
Sau khi hoàng hậu Ma-da (Mayā) quá vãng, vua Tịnh Phạn (Suddhodana) tục huyền với Mahāpajāpatī Gotami và bà đã xuất gia
(Xem: 1562)
Kinh Pháp Hoa dạy rằng: “Đức Phật ra đời vì một đại nhân duyên. Đó là khai thị cho chúng sanh liễu ngộ Phật tri kiến nơi mình”.
(Xem: 2037)
Một trong những hình thức ta nuôi dưỡng phiền giận về chính mình là mặc cảm tội lỗi.
(Xem: 1097)
Các câu hỏi, không khác với câu khẳng định, dựa trên các giả định.
(Xem: 1354)
Đối với những người nhìn vào Phật giáo qua phương tiện tiếng Anh, việc thực hành lòng từ bi và sự xả ly có thể không tương thích với nhau,
(Xem: 1098)
Từ khi đức Phật xác lập: “Mọi vật đều vô thường, mọi vật đều vô ngã”, thường được diễn tả với danh từ Sarvam Sùnyam (mọi vật đều Không).
(Xem: 947)
Trong lịch sử Thiền Tông Việt Nam, Thiền sư Trần Thái Tông (1218-1277) được kể như một nhân vật vô cùng đặc biệt, với nội tâm giác ngộ cao siêu,
(Xem: 1066)
Trước đây qua giáo lý của Đức Phật chúng ta hiểu rằng Đạo Phật là đạo xây dựng trên nền tảng trí tuệ, tức dùng sự giác ngộ, hiểu biết
(Xem: 1100)
Thiền sư Trần Thái Tông (1218 -1277) một vị thiền sư siêu việt, ông vua anh minh, nhà tư tưởng lớn, một nhân cách cao cả.
(Xem: 1536)
Nhận thức rằng tất cả đều là giả tạm và cuộc đời là một nỗi khổ đau lớn, nên đức Phật mới đi tìm chân lýgiác ngộ chân lý.
(Xem: 1288)
Khi đức Phật còn tại thế, Ngài đã quy chế cho cộng đồng Tăng phải an cư ba tháng mùa mưa, ngày nay lịch an cư tùy hệ phái, từ rằm tháng tư đến rằm tháng bảy theo truyền thống Phật giáo Bắc phương;
(Xem: 1294)
Trung đạo là khái niệm được dùng khá nhiều trong Phật giáo. Tùy duyênTrung đạo được định nghĩa khác nhau,
(Xem: 1027)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh tập thứ 14. Kinh văn số 550 gồm 12 quyển. Chữ Hán từ trang 865 đến trang 894, gồm tất cả 29 trang.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant