Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

Hàm Ý Phẩm Phổ Môn Trong Kinh Diệu Pháp Liên Hoa

02 Tháng Tám 202012:33(Xem: 3788)
Hàm Ý Phẩm Phổ Môn Trong Kinh Diệu Pháp Liên Hoa
Hàm Ý Phẩm Phổ Môn Trong Kinh Diệu Pháp Liên Hoa

Thích Duy Lực

Nguyên Cẩn

Tạo sao gọi là Phổ Môn? vì tự tính của mình phổ biến khắp hư không pháp giới, nên gọi Phổ Môn. Kinh này do Tam Tạng Pháp sư Cưu Ma La Thập dịch vào đời Diêu Tần (406). Sao gọi Tam Tạng? Tam Tạng gồm Kinh, Luật, Luận, nếu thông suốt Kinh điển gọi là Kinh sư, thông suốt giới Luật gọi là Luật sư, thông suốt Luận gọi là Luận sư. Ngài Cưu Ma La Thập thông suốt cả Kinh, Luật, Luận, nên gọi Tam Tạng Pháp sư. Pháp sư chuyên về dịch Kinh, sự dịch Kinh rất đúng với ý Phật, được nhà Vua đương thời kính trọng. Sư đã nói trước rằng: “Nếu tôi dịch Kinh sai ý Phật thì hãy đem lưỡi tôi cắt đi; còn nếu tôi dịch đúng ý Phật, sau khi tôi mất, tất cả đều có thể hoại, ngoại trừ cái lưỡi”. Sau khi Sư tịch, đem đi trà tỳ, tất cả đều thiêu rụi, chỉ còn lại cái lưỡi. Chứng tỏ các Kinh do Ngài dịch không sai.

Chính văn:

Lúc Phật đang thuyết pháp, Vô Tận Ý Bồ-tát từ chỗ ngồi đứng dậy, trịch tay áo bên phải, quỳ gối chân phải, bạch Phật rằng:

- Thế tôn, do nhân duyên gì mà Quán Thế Âm Bồ-tát được gọi là Quán Thế Âm?

Phật bảo: “Nếu có vô lượng vô biên chúng sinh, đã chịu tất cả khổ, nghe được Quán Thế Âm Bồ-tát, nhất tâm xưng danh, thì Quán thế Âm Bồ-tát sẽ quán được âm thanh khiến giải thoát”.

Theo thế gian thì âm thanh phải dùng tai nghe, chẳng thể dùng mắt thấy, nhưng người kiến tính triệt để rồi lục căn hổ dụng, tức dùng mắt nghe được, dùng lỗ tai xem thấy. Chữ Quán là dùng con mắt để nghe âm thanh, ấy là sự dụng của tự tính, nên ba chữ Quán Thế Âm là chỉ về tự tính của mình, chứ chẳng phải thật có một vị Bồ-tát tên Quán Thế Âm.

Quán Thế Âm Bồ-tát, nghe được xưng danh đến cứu giúp: chẳng những thế giới này, kể cả hằng hà sa số vô lượng vô biên vi trần thế giới, hễ chúng sinh nào cầu cứu cũng sẽ được cứu. Ví như  đài phát thanh hiện nay có làn sóng mạnh, dù máy Radio nhỏ, nếu bắt đúng theo làn sóng cũng có thể thâu được. Sức dụng Tự tính của mình cũng vậy, khắp hư không pháp giới, nếu sự tu của chúng ta quét trống rỗng tất cả, ngũ uẩn giai không, đến  cái Không tướng hiện ra, tự tính tự hiện, tức tự tính mình cứu mình, chứ chẳng phải Quán Thế Âm Bồ-tát hay một người nào khác.

Phải biết Quán Thế Âm Bồ-tát là dùng con mắt để nghe chứ không phải dùng lỗ tai, nếu chúng ta dùng con mắt nghe được mới là Quán Thế Âm, đạt đến cảnh giới này tất cả khổ đều được giải thoát.

Ở trên đã nói, ba chữ Quán Thế Âmtự tính của mình, mọi người đều sẵn đủ, sức dụng thần thông biến hóa chẳng kém hơn Phật, nên gọi Phật tính. Sở dĩ Phật phát huy ra hết mà chúng ta chỉ có thể phát huy được một ít, chưa bằng một phần triệu, do phát huy chậm nên gọi là nghiệp lực; nếu được phát huy hết, gọi là thần thông lực.
 
Sự biến hóa hiện nay của chúng ta chậm đến chính mình cũng chẳng thể biết được; ví như tóc, móng tay, tế bào… mỗi giây phút biến đổi, thân thể mỗi giây phút biến đổi, ngày đêm chẳng ngừng, nhưng tự mình chẳng hay. Hễ biến đổi một chặng thì nhân quả bằng tam thế: Kiếp trước tạo kiếp này, kiếp này tạo kiếp sau. Vì nhất thiết duy tâm tạo, do tâm lực tạo ra nghiệp lực.

Ví dụ tâm lực đến tột đỉnh là một triệu độ, nay tâm lực chúng ta chỉ có một độ, tham Thiền mãi tăng lên mười độ, rồi trăm độ, ngàn độ…. Hễ tâm lực tăng đến năm trăm ngàn độ (phân nữa tâm lực), lúc ấy có thể biến cái này cái kia, ấy gọi Thần thông lực. Nên Kinh Hoa Nghiêm nói: “Tâm như họa sĩ tài ba, khéo họa đủ thứ thế giới, họa ra thiên đàng, địa ngục”.

Ở trong này nói đến “Trì danh hiệu của Quán Thế Âm Bồ-tát”; chữ Trì này nhiều người lầm tưởng cho Tụng là Trì, mỗi ngày tụng Kinh Phổ Môn nói là trì Kinh Phổ Môn, mà chẳng biết Trì là phải Hành trì. Ví như hàng Tăng ni chúng ta phải trì giới, mỗi nửa tháng bố tát (tức tụng giới) một lần, nếu cho tụng giới tức trì giới là không đúng, phải theo giới thực hành mới gọi là trì. Trì Kinh cũng vậy.

Hễ hành trì đúng pháp thì đạt đến sự dụng như Quán Thế Âm Bồ-tát. Sức dụng của tự tính automatic, không qua tác ý, đã đạt đến cảnh giới này thì vào lửa chẳng cháy, xuống nước chẳng chìm, muốn gì được nấy, bởi do nhất tâmthần lực được hiện ra, tất cả tai nạn đều được giải thoát. Do nhân duyên này nên gọi là Quán Thế Âm.
 
Nếu  thực hành đúng pháp môn, khi tự tính hiện ra sức dụng thì bị dao chém đầu mà đầu chẳng bị đứt, dao lại gãy từng khúc; (Trước kia khi đọc đến đây, do chưa hiểu nghĩa này, cho rằng ấy là gạt trẻ con, nhưng nay thì tin được. Việc này giải thích ra thì vô lý, nhưng sự thật như thế). Những ma quỷ, la sát muốn ăn thịt người, hút tinh khí người, đều chẳng thể hại, Chẳng những không thể hại được, kể cả con mắt chẳng thể ngó thấy. Trong Thiền tông có một sự tích như sau:

Một vị Tổ sư đã kiến tính, làm Trụ Trì ở chùa hơn ba mươi năm mà Già Lam Bồ-tát  không thể thấy mặt vị Trụ trì ấy, vì Sư luôn có một hào quang bao phủ. Một ngày kia, Bồ-tát hỏi vị Chủ sự trong chùa:

- Tôi muốn chiêm ngưỡng chân dung của Sư Trụ trì, ông có cách nào không?

ĐÁP: “Dễ thôi, ngày mai, lúc ăn quả đường, ông làm đổ thùng cơm thì thấy được”.

Già Lam Bồ-tát làm theo lời của vị Chủ sự, Hòa Thượng Trụ trì thấy vậy liền mắng:

“Cơm của thí chủ cúng dường, sao bất cẩn như thế!”. Ngay lúc la mắng, hào quang bị giảm xuống, Già Lam Bồ-tát mới có dịp đảnh lễ, nhưng sau đó hào quang của Sư lại phủ kín, chẳng thể thấy được nữa.

Mỗi người chúng ta đều có hào quang, chỉ cần tâm lực mạnh. Nên khi sức dụng của tự tính hiện ra, Bồ-tát còn chẳng thể thấy được, nói chi quỷ thần ư!

Chính văn:

Bất kể người có tội, bị gông cùm xiềng xích, tất cả khủng bố, tai ương, do nhất tâm xưng danh hiệu của Quán Thế Âm Bồ-tát, đều được tan rã, được giải thoát.

Muốn đạt đến nhất tâm thì bình thường phải tu tập, lúc niệm phải nhất tâm, chẳng có một tạp niệm nào. Ví như tham Thiền, chỉ có một câu thoại đầu, không có biệt niệm, thì dụng của Tự tính được hiển hiện.
- Vô Tận Ý Bồ-tát, nếu chúng sinh ham dâm dục sẽ được hết dâm dục; ham sân giận cũng sẽ được hết, kẻ ngu si được trí huệ.

Nay đã có sự thật chứng tỏ, nhiều Phật tử sau một thời gian tham Thiền, đối với những ham thích trước kia như ăn mặc đẹp, đi chơi, ca hát v.v… đều tự nhiên bỏ. Tự tính của mọi chúng sinh sẵn đủ tất cả, chẳng kém hơn Phật, do bị tham, sân, si che lấp nên chẳng thể phát huy, như bụi che lấp ánh sáng của chiếc gương, nếu quét sạch bụi bậm thì ánh sáng của gương được hiện ra, quét trống bao nhiêu hiện ra sự dụng bấy nhiêu, tức dụng tức không, tức không tức dụng, không tới cực, dụng tới cực, hoạt bát vạn năng, vô lượng vô biên. Ánh sáng gương vốn sẵn đủ, chẳng phải do chùi mới thành gương. Tự tính của chúng ta vốn sẵn thần thông biến hóa như Phật, chẳng phải do tu mới thành.

Dụng của Tự tính có đại uy thần lực như thế, nên mới có thể lợi ích cho tất cả chúng sinh, và tất cả chúng sinh đều phải hướng vào tự tính mà ngộ, phải quét sạch tất cả chấp tâm của mình. Lúc tự tính hiện ra, chẳng cần dụng cũng được, vì đã tự do tự tại rồi! Nên muốn cầu nam được nam, cầu nữ được nữ, muốn gì được nấy, hễ còn một chút khổ là chẳng tự do tự tại vậy.

Phật bảo: Nếu có người thọ trì 62 ức hằng hà sa số Bồ-tát, công đức của người ấy, với phước đức của người thọ trì danh hiệu Quán Thế Âm Bồ-tát bằng nhau không khác.

Tại sao nói số 62 mà chẳng phải 61 hay 60? Vì kiến chấp của chúng sinh có 62 thứ: Ấy là: Tứ cú x ngũ uẩn = 20.  20 x tam thế = 60.  60 + Hữu & vô = 62. Tất cả kiến chấp đều không ngoài 62 thứ này, nên lấy ước số 62 để đối trị 62 kiến chấp, chỉ cần một Quán Thế Âm là đủ rồi. Như trên đã nói, Tự tính vốn đầy đủ tất cả,  cùng hư không, khắp pháp giới, tất cả đều chẳng ở ngoài tự tính. Nói “Tâm bao gồm hư không pháp giới” vẫn chưa đúng, vì cho tâm là tâm, hư không pháp giớihư không pháp giới, là nhị; tự tính bất nhị, hư không pháp giới tức tâm, tâm tức hư không pháp giới; tự tính tức tâm, tâm tức tự tính, chẳng hai chẳng khác. 62 ức, nói ra rất nhiều, nhưng gom lại chỉ là bất nhị, chỉ là tự tính Quán Thế Âm mà thôi, cho nên công đức với phước đức bằng nhau.

Công đứcphước đức của thế gian dù có số lượng nhiều, nhưng lâu ngày cũng hết, còn công đức của tự tính thì chẳng thể hết, vì bất sinh bất diệt, bất tăng bất giảm. Cho nên, chư Phật chư Tổ chỉ muốn chúng ta được ngộ, khi ngộ rồi sức dụng của tự tính phát huy, nên phải thọ trì. Thọ trì là muốn quét cho sạch, nay quét chưa sạch thì năng lực ấy chỉ có thể gọi là tiềm năng, tức tiềm ẩn nơi tự tính.

- Nói 32 ứng thân của Quán Thế Âm Bồ-tát độ chúng sinh; chúng sinh nào cần Phật thân để độ thì hiện Phật thân, cần thân Bồ-tát để độ hiện thân Bồ-tát v.v… nói tóm lại chỉ là tùy theo căn cơ của mỗi chúng sinh mà độ như ngài Lục Tổ nói: “Tự tính tự độ”, Quán Thế Âm Bồ-tát tự tính tự độ, chúng sinh cũng tự tính tự độ; tự tính tự độ tức Quán Thế Âm Bồ-tát, chứ chẳng phải là người khác độ. Nếu người khác độ được thì đức Phật đại từ đại bi, đã độ hết chúng sinh rồi, đâu cần cực khổ mà tu !

Lúc bấy giờ, Vô Tận Ý Bồ-tát muốn cúng dường Quán Thế Âm Bồ-tát bằng sâu chuỗi Anh Lạc quý báu, lúc đầu Quán Thế Âm Bồ-tát không chịu nhận, và Vô Tận Ý Bồ-tát nói rằng:

- Hãy thương xót chúng tôi mà nhận lấy sâu chuổi.

Khi ấy Đức Phật cũng nói với Quán Thế Âm Bồ-tát rằng: “Hãy thương xót Vô Tận Ý Bồ-tát và tứ chúng cùng các cõi Trời, người, A-tu-la v.v… mà nhận lấy” Vì thế, Quán Thế Âm Bồ-tát đã nhận và chia sâu chuổi thành hai phần, một phần cúng dường Phật Thích Ca, một phần kia cúng dường Tháp Phật Đa Bảo.

Đây là hình dung cho Pháp Thí, nếu như chẳng nghe được pháp bố thí thì chẳng biết tu hành, chẳng thể lìa khổ, Vô Tận Ý Bồ-tát vì muốn chúng sinh cung kính Tam Bảo, vì ngài là đại diện đương cơ, thay mặt cho tất cả người nghe pháp, gồm tứ chúng: Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni, nam nữ cư sĩthiên long bát bộ,  cúng dường cho Quán Thế Âm Bồ-tát.
 
Tự tính thần lực của Quán Thế Âm Bồ-tát khắp thế giới Ta bàvô lượng vô biên thế giới. Khi ấy, Vô Tận Ý Bồ-tát hỏi Phật:

- Bạch Thế Tôn, Phật tử do nhân duyên gì, hiệu Quán Thế Âm?

Phật bảo: Đức hạnh của Quán Thế Âm Bồ-tát khắp mười phương thế giới, tất cả Phật, Bồ-tát đều có đại nguyện sâu như biển cả, chẳng bị thời gian, số lượng hạn chế, chẳng thể dùng trí suy lường. Nay ta nói qua cho biết: Do nghe danh hiệu chẳng bỏ qua cái thân, tâm chẳng bỏ luống qua, đến khi tự tính được hiện ra thì tất cả khổ đều diệt.

Ở đây nói “Nghe danh hiệu thấy cái thân, tâm chẳng bỏ luống qua”, cũng như Kinh Lăng Nghiêm nói đến “Nghe” là phản văn tự tính, chứ chẳng phải thật nghe cái danh hoặc thật thấy cái thân, Tự tính chẳng có hình tướng, như Kinh Kim Cang nói: “Không có thân mới là đại thân”, nếu có hình tướng thì chẳng phải đại thân. Ví như hiện nay chúng ta tham thiền, nếu chẳng có vọng tưởng cũng chẳng có nghi tình là lọt vào vô ký không, tức là bỏ luống qua, đối với sự tu hành vô ích.

- Giả sử có người muốn hại mình, xô vào hầm lửa, do sức dụng tự tính sẽ hóa hầm lửa thành nước cam lồ, tất cả tai ương, ác thú, binh lửa v.v… đều do sức dụng tự tính mà được hóa giải, tất cả khổ sinh lão bệnh tử, địa ngục, ngạ quỷ, súc sinh … đều được tiêu tan.

- Đạt đến cảnh giới đó gọi là Chân quán, không còn dính líu gì cả, không có vọng tưởng, tất cả đều trong sạch, luôn cả trong sạch cũng không,  gọi là Thanh Tịnh Quán. Lúc đó, trí huệ ấy là Bát-nhã, chẳng như trí huệ thế gian, chẳng bị hạn chế bởi số lượng, gọi là Quảng đại Trí Huệ Quán. Quán cái khổ của chúng sinh và đem lại sự vui mà tự tính của mình tự nhiên đạt đến vô-duyên-từ và đồng thể bi, tức chẳng có cái Ta để độ chúng sinh, chẳng có chúng sinh thọ nhận sự giúp đỡ của ta, ta và chúng sinh đồng một thể, gọi là Bi QuánTừ Quán.

Năm thứ quán: Chân quán, Thanh tịnh quán, Quảng đại trí huệ quán, Bi quántừ quán, đều là sức dụng của tự tính. Người thời nay thường nói “Từ bi bác ái”, tưởng Từ bibác ái giống nhau, kỳ thật là khác nhau như trời với đất; Bác Áichấp ngã, có cái Ta để ban bố cho đại chúng, còn Từ Bi là chẳng có ngã, chẳng có tự và tha: Chẳng có ta cho đại chúngđại chúng thọ nhận sự Từ bi của ta.

- Bây giờ, chúng ta chưa đạt đến chỗ này, phải thường nguyện thường chiêm ngưỡng, ngày đêm tu hành chẳng gián đoạn, khi cấu bẩn của tập khí quét sạch, ánh sáng trong sạch của Tự tính hiện ra, như mặt trời khiến tan rã mây đen, tất cả tai ương, gió lửa bão táp đều tiêu, thế gian được sáng tỏ, mọi chúng sinh đều được thọ nhận mưa cam lồ, những phiền não trước kia được dập tắt. Ấy là do Diệu âm Quán Thế Âm, Phạn âm hải triều âm, cho nên phải thường quán.

Phạm là thanh tịnh, còn Hải triều âm là ngày đêm chẳng gián đoạn. Tự tính của mình cũng thế, mặc dù hiện nay là chúng sinh, nhưng tự tính từ xưa nay vốn như thế, chưa từng gián đoạn, dù đầu thai thành con trâu con chó vẫn không gián đoạn, nên phải quán Tự tính của mình. Nay chúng ta tham thiềntrở về tự tính của mình vậy.

Trì Địa Bồ-tát ở trong chỗ ngồi đứng dậy bạch Phật rằng:

- Thế Tôn, nếu chúng sinh nghe Phẩm Quán Thế Âm Bồ-tát, tự tại thần thông lực của Tự tính tự hiện khắp nơi mà công đức chẳng thiếu xót”.

Lúc Phật thuyết xong Phẩm Phổ Môn, trong chúng có tám mươi bốn ngàn chúng sinh được phát tâm Bồ-đề.

Tâm Bồ đề tức tâm Giác ngộ, tâm Giác ngộ tức tâm vô sở đắc, tâm vô sở đắc mới đến giác ngộ cao nhất, nếu còn sở đắc tức còn chấp ngã, chẳng phải tâm Bồ-đề, sẽ không đạt đến giác ngộ cao nhất.

Thích Duy Lực
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 2204)
“Tướng” là cái gì? “Tướng” chính là tướng trạng của sự vật biểu hiện nơi ngoài và tưởng tượng ở nơi trong tâm chúng ta.
(Xem: 32348)
Các chuyên gia đã từng nói cơ năng não bộ của con người so với máy vi tính phức tạp nhất trên thế giới lại càng phức tạp hơn.
(Xem: 6446)
Duy Thức Học được gọi là môn triết họcmôn học này nhằm khai triển tận cùng nguyên lý của vạn hữu vũ trụ nhân sanh mà vạn hữu vũ trụ nhân sanh...
(Xem: 6396)
Phật Đà Thập Đại Đệ Tử Tán - Hòa thượng Tuyên Hóa giảng thuật, Nguyễn Minh Tiến Việt dịch
(Xem: 5052)
“Quán” là xem xét, “Thế Âm” là âm thanh của thế gian. Quán Thế Âmxem xét âm thanh thế gian, tiêu biểu cho lòng từ bi của Bồ-tát.
(Xem: 11028)
Các tác phẩm của Thầy phần lớn được dịch từ Hán tạng, gồm giới kinh và các nguồn văn học Phật giáo Đại thừa với tư tưởng uyên thâm về triết họctâm lý học.
(Xem: 30189)
Đã phát khởi chí nguyện Đại thừa, lại kiên quyết thực hiện chí nguyện ấy, đó thực sự là cung cách hùng dũng của con sư tử đang vươn mình, và do đó phải được nhìn đến bằng cung cách của con voi chúa.
(Xem: 7861)
Tất cả các nhà đạo học và thế học muốn thành tựu kết quả tốt đẹp trong cuộc đời, thì trước hết, họ phải trải qua quá trình kham nhẫn, nỗ lực, tu, học, rèn luyện tự thân, giúp đỡ, và đem lại lợi ích cho tha nhân.
(Xem: 11970)
Bảy Đức Thế Tôn quá khứ từ Thế Tôn Tỳ Bà Thi, Thế Tôn Thích Ca, và chư Thế Tôn vị lai đều chứng ngộ Vô Thượng Bồ Đề từ sự chứng ngộ sự thật Duyên khởi.
(Xem: 3238)
Một bài pháp được ban cho chư Tăng Ni ở International Mahayana Institute tại Boudhanath, Nepal, ngày 2 tháng 2, năm 1975. Nicholas Ribush hiệu đính.
(Xem: 34284)
Quy Sơn Cảnh Sách Học Giải - Tác Giả: Thiền Sư Quy Sơn Linh Hựu; Thích Thiện Trí (Thánh Tri) Phỏng Việt Dịch và Viết Bài Học Giải
(Xem: 52063)
Nguyên xưa ngài Quán Nguyệt Pháp sư đem hai thời kinh khóa tụng: Mai đóng chung và chiều nhập chung lại làm một đại thể làm một tập lớn. - Chú giải: Ngài Quán Nguyệt; Dịch giả: HT Thích Khánh Anh
(Xem: 12905)
Đại ý bài kinh này Đức Phật dạy chúng đệ tử không nên truy tìm quá khứ, không nên ước vọng tương lai vì quá khứ đã đoạn tận.
(Xem: 21601)
Nếu tính từ thời điểm vua Lương Vũ Đế tổ chức trai hội Vu lan ở chùa Đồng Thái vào năm Đại Đồng thứ tư (538), thì lễ hội Vu lan của Phật giáo Bắc truyền đã có lịch sử hình thành gần 1.500 năm.
(Xem: 9492)
Phật dạy giới này áp dụng chung cho tất cả các Phật tử tại gia, không phân biệt Phật tử này thuộc thành phần hay đẳng cấp xã hội nào.
(Xem: 3055)
"Niệm Phật" nghĩa là xưng danh hiệu - hay nhớ tưởng đến hình tướng, bản nguyện hay công đức của một đức Phật - như Phật Thích-ca hay Phật A-di-đà.
(Xem: 10260)
Đức Phật A Di Đà tự thân có ánh sáng vô lượng, chiếu khắp cả mười phương mà không có vật gì có thể ngăn che. Vì vậy nên Phật A Di Đà có nghĩa là Vô Lượng Quang Phật.
(Xem: 12448)
Nguyên tác Hán văn: Tì-kheo Linh Diệu, tông Thiên Thai soạn - Dịch sang tiếng Việt: Thích Thọ Phước
(Xem: 12614)
Ngài Buddhaghosa sanh ra và lớn lên nước Magadha, thuộc Trung Ấn Độ, vào thế kỷ thứ V trong ngôi làng Ghosa, gần địa danh nơi đức Phật thành đạo Bodhigaya
(Xem: 16069)
Nghiên Cứu Về Kinh A Hàm (Ãgama, Sanscrist)
(Xem: 13651)
Kinh Địa Tạng là một trong các kinh Đại thừa được phổ biến rộng rãi trong quần chúng Việt Nam từ hơn nửa thế kỷ nay song song với các kinh Kim Cương, Di Đà, Phổ Môn...
(Xem: 14200)
Nguyên tác: Tôn giả Thế Thân (Acarya Vasubandhu) - Hán dịch: Tam Tạng Pháp sư Huyền Tráng; Việt dịch: Tỳ khưu Tâm Hạnh
(Xem: 9089)
No. 1613 - Nguyên tác: Tôn giả An Huệ; Dịch Hán: Tam Tạng Pháp sư Địa-bà-ha-la; Dịch Việt: Tâm Hạnh
(Xem: 11636)
Duy thức nhị thập luận, do bồ tát Thế Thân soạn, ngài Huyền trang dịch vào đời Đường... được thu vào Đại chính tạng, tập 31, No.1590.
(Xem: 11163)
Bồ-tát Trần Na tạo luận. Tam tạng Pháp sư Huyền Trang phụng chiếu dịch. Việt dịch: Quảng Minh
(Xem: 11361)
Đời Đường, Thận Thủy Sa Môn Huyền Giác Soạn; Thánh Tri dịch nghĩa Việt và viết bài học giải...
(Xem: 12415)
Thích-ca là phiên âm của tiếng Phạn. Phiên âm Hán Việt là Năng Nhân. Tức là họ của đấng hóa Phật ở cõi Ta-bà...
(Xem: 20524)
Trí Phật là trí Kim – cang, Thân Phật là thân Kim – Sắc, cõi Phật là cõi Hoàng – kim, lời Phật tất nhiên là lời vàng.
(Xem: 17395)
Niệm Phật Tâm Muội do HT Hư Vân soạn, Sa môn Hiển Chơn dịch; Tọa Thiền Dụng Tâm Ký do Viên Minh Quốc Sư soạn, HT Thích Thanh Từ dịch
(Xem: 31687)
Viết ra các bài Phật học thường thức này, chúng tôi không có tham vọng giới thiệu toàn bộ Phật pháp và chỉ cốt giúp cho các bạn sơ cơ hiểu được một cách đúng đắn, đạo lý năm thừa trong Phật giáo mà thôi.
(Xem: 11879)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh, Kinh văn số 1675. Tác giả: Long Thọ Bồ Tát; Sa Môn Sắc Tử dịch Phạn sang Hán; HT Thích Như Điển dịch Việt
(Xem: 11651)
Đức Thế Tôn từ nơi cung trời Đâu-suất sinh xuống thành Ca-duy, chán đời sống dục lạc ở vương cung, thành tựu đạo chơn thường dưới cội cây...
(Xem: 4281)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh quyển thứ 32, Luận Tập Bộ Toàn; Kinh văn số 1678. Pháp Hiền dịch ra chữ Hán. HT Thích Như Điển dịch Việt
(Xem: 12611)
Kinh Rong Chơi Trời Phương Ngoại là một phẩm của Kinh Pháp Cú Hán tạng có tên là Nê Hoàn Phẩm. Nê HoànNiết bàn (Nirvana, Nibbâna).
(Xem: 10150)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh, quyển thứ 32, luận tập bộ toàn, kinh văn số 1637. HT Thích Như Điển dịch
(Xem: 16225)
Năm nay (2016) trong chương trình của tôi, không dự định đi sang Úc, nhưng ngày 23 tháng 6 năm 2016 vừa qua...
(Xem: 11590)
Nay ở nơi chư Phật Chắp tay kính đảnh lễ Con sẽ như giáo nói Tư lương Bồ-đề Phật.
(Xem: 14589)
Lúc bấy giờ, ngài Vô-Tận-Ý Bồ-Tát (1) liền từ chỗ ngồi đứng dậy trịch áo bày vai hữu (2), chấp tay hướng Phật mà bạch rằng:
(Xem: 11853)
Bộ Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh (Taisho Shinshu Daijokyo) xuất xứ từ thời Vua Taisho (Đại Chánh) ở Nhật Bản từ đầu thế kỷ thứ 20.
(Xem: 16614)
Có lẽ Lăng Già là một trong những bộ kinh phân tích cái Tâm một cách chi li, khúc chiết nhất trong kinh điển Phật giáo.
(Xem: 12599)
Đại Chánh Tân Tu Đại tạng Kinh, quyển thứ 32 thuộc Luận Tập Bộ Toàn. Kinh văn số 1641. HT Thích Như Điển dịch
(Xem: 51632)
Toàn bộ Đại Tạng Kinh tiếng Việt trên 203 tập đã dịch và in xong...
(Xem: 12486)
Tại thành Xá Vệ, vào buổi sáng sớm, Tỳ-kheo-ni Avalika khoác y ôm bình bát, đi vào thành Xá Vệ để khất thực.
(Xem: 9829)
Đại Chánh Tân Tu đại tạng kinh, quyển thứ 32, Luận tập bộ toàn, kinh văn số 1634, HT Thích Như Điển dịch
(Xem: 14308)
Dịch từ văn Phạn sang văn Trung Hoa: Pháp sư Pháp Đăng; Thật Xoa Nan Đà (Siksananda), Lược giải: Tỳ kheo Thích Minh Điền
(Xem: 19943)
Nguyên tác Hán văn: sa-môn Pháp Tạng, chùa Sùng Phúc, Kinh Triệu thuật
(Xem: 13582)
Thời đại Dao Tần, Pháp Sư ba tạng Cưu Ma La Thập, dịch văn Phạn sang văn Trung Hoa, Lược giải: Tỳ kheo Thích Minh Điền
(Xem: 15260)
Kinh "Chiếc lưới ái ân" được dịch từ kinh Pháp Cú, Hán tạng.
(Xem: 17336)
Bát Nhã Ba-La-Mật-Đa Tâm Kinhbài kinh được tụng đọc tại các chùa theo hệ thống Phật Giáo Đại Thừa, là bài kinh rất phổ thông...
(Xem: 16649)
Nhập Trung Quán Luận (PDF) - Tổ Sư Nguyệt Xứng - Chuyển dịch: Thích Hạnh Tấn, TN Nhật Hạnh
(Xem: 13356)
Luận rằng: Ông bảo lời ta không có đạo lý, nếu thế thì lời ông cũng không có đạo lý. Nếu lời ông không có đạo lý thì lời ta ắt có đạo lý.
(Xem: 12329)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh,Luận Tập Bộ Tòan thứ 32, Thứ tự Kinh Văn số 1631
(Xem: 11937)
Như Bà-la-môn nói, trong các kinh điển, bốn Vệ-Đà là chính; Lại, trong đó, niệm là chính ; lại trong niệm này, năng thuyênsở thuyên là chính;
(Xem: 13140)
Nếu hiểu được Luận này, Ắt được các pháp luận, Nghĩa sâu xa như thế, Nay sẽ rộng tuyên nói.
(Xem: 12382)
Kinh văn số 1672, Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh quyển 32
(Xem: 25326)
Duy Thức Học, người nào nếu như nghiên cứu đến cũng phải công nhận là một môn học rất thực tế, rất sống động...
(Xem: 14381)
Từ A-Di Đà, tức là phiên âm từ chữ Sanskrit: अमित​ amita, có nghĩa là: Vô lượng, đây là dịch sát theo ngữ nguyên अमित​ amita của Sanskrit.
(Xem: 28129)
Nhiều người đọc Kinh Dược Sư hiểu sai ý của Phật Thích Ca muốn nói, hiểu sai nên đã đưa vào đường mê tín mà không biết, vì ở phần đầu của kinh Dược Sư...
(Xem: 10185)
"Tánh Không" (còn gọi là tính-không) là một từ ngữ liên hệ đến sự giảng dạy chính yếu của mọi ngành Phật giáo, nhưng ý nghĩa thật sự của từ ngữ nầy thường bị hiểu lầm.
(Xem: 8211)
Đạo Phật trên ý nghĩa thiết yếu là “biện chứng giải thoát” hay là con đường gỉai thoát. Gỉai thoát khỏi khổ đau, sinh tử luân hồi.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant