Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

Quan Niệm Thế Giới Địa Ngục

19 Tháng Mười Hai 202017:52(Xem: 2706)
Quan Niệm Thế Giới Địa Ngục
QUAN NIỆM THẾ GIỚI ĐỊA NGỤC
Tác giảThích Thắng Hoan

 

Quan Niem Ve The Gioi Dia Nguc

Vấn đề thế giới địa ngụcvấn đề rất nhiều nghi vấn, những người theo đạo Phật thì tin có thế giới địa ngục, những người không theo đạo Phật thì không tin có thế giới địa ngục và có một hạng người thì nửa tin nửa ngờ. Một nhà truyền giáo đạo Phật mà không tin có thế giới địa ngục thì người đó phản bội lại với Phật Giáo và muốn đưa vấn đề này lên trên bình diện thực tại là một vấn đề khó khăn nhưng không phải là không được. Hôm nay,chúng ta xét nghiệm qua các tư liệu của Phật giáo:

 

1.-Bắt đầu chúng ta xét nghiệm qua các Kinh Luận: Các Kinh Luận đại khái như, Kinh Địa Tạng, KinhVu Lan Bồn, Kinh Trường Bộ, Luận Thuận Chánh Lý..v..v.....Muốn xét nghiệm những Kinh Luận này, trước hết chúng ta phải duyệt qua quá trình lịch sử của thời đại; thời đại thứ nhất, kể từ thời kỳ Đức Phật Thích Ca ra đời trở về trước được gọi là thời đại Thần Thông độc tôn, thời đại thứ hai, kể từ thời kỳ vào khoảng 2000 năm sau Phật nhập diệtthời đại Võ Lâm độc tôn, thời đại thứ ba là thời kỳ hiện đại được gọi là thời đại Khoa Học độc tôn.Chúng ta đang ở thờ đại khoa học độc tôn, nếu nhìn lại trở về trước vào thời đại thần thông và võ lâm độc tôn thì chỉ nhìn vào với đôi mắt huyền thoại, nhưng không nhìn vào với đôi mắt thực tế. Điển hình như gần đây hơn, vào năm 1963, đối với sự kiện“Trái Tim Bất Diệt”của Hòa Thượng Thích Quảng Đức tự thiêu tại Sài Gòn ở miền namViệt Nam, các vị sanh sau năm1975 đều cho đó là huyền thoại, không kiểm chứng được, nhưng còn những người sống vào thời kỳ đó, đã chứng kiến sự kiện đây đều xác nhận cho là thực tại; sự kiện Trái Tim Bất Diệt nếu là huyền thoại thì chánh phủ Hoa Kỳ không bỏ rơi chánh phủ Ngô Đình Diệm. Còn thời đại Võ Lâm Độc Tônthời đại người học võ phải thực hiện ba giai đoạn là đánh nhanh, nhảy cao và phi hành. Ba giai đoạn này của võ lâm, người học võ ai cũng đều biết, ở đây không cần bàn kỹ, vì nó không phải là chủ đề chính trong đề tài muốn nói. Chủ đề chính trong đề tài là những dữ kiện để chứng minhthế giới địa ngục hay không có. Để làm sáng tỏ thế giới địa ngục, chúng ta phải khảo sát qua những dữ kiện thần thông.

 

*- Một sự kiện thứ nhất là thời kỳ đức Phật Thích Ca ra đời vào thời đại thần thông độc tôn; theo sử liệu, người nào không có thần thông là người đó không có khả năng lãnh đạo, như bên Bà La Môn Giáo, hai vị lãnh tụ hai giáo phái là A La Lam (Alàrà-Kàlama) và Uất Đa Ma Tử (Uddaka-Ràmaputta), hai vị này đều chứng Ngũ Thông; còn bên Phật Giáo được kể đến nhiều nhất là hai vị Xá Lợi Phất (Sariputta) và Mục Kiền Liên (Moggallàna), hai vị này trước khi theo Phật Giáo là hai lãnh tụ thuộc hai giáo phái đạo thờ thần lửa, dưới trướng của hai vị này mỗi vị gồm có 500 đệ tử, hai vị này cũng đều chứng Ngũ Thông. Ngũ Thông gồm có: Thiên Nhãn Thông, Thiên Nhĩ Thông, Thần Túc Thông, Túc Mạng ThôngTha Tâm Thông, riêng đức Phật Thích Ca chỉ hơn họ một thông là Lậu Tận Thông, ở đây chỉ nói đến dữ kiện mà không cần phải giải nghĩa.Theo lịch sử PhậtGiáo, đức Phật Thích Ca muốn độ ông em một cha khác mẹ là Nan Đà, vì ông này đam mê vợ quá mức, đầu tiên Phật dùng Thần Thông Lậu Tận dẫn ông lên Trời Đao Lợi vừa thăm mẹ là Hoàng Hậu Ma Da (Maya), vừa cho ông thấy mấycô tiên nữ ở đây đẹp hơn vợ của ông, kế đến Phật dẫn ông xuống cõi địa ngục để chứng kiến cảnh hành hạ của người dân ở dưới, sau khi thấy hai cảnh tượng này, ông Nan Đà mới chịu xuất gia theo Phật.

 

*-Một sự kiện thứ hai là đức Phật dùng thần thông để độ ông bà vua Tần Bà Sa La (Bimbisara) nước Ma Kiệt Đà (Magadha) ở trong ngục; sự kiện này như thế nào, đức Phật Thích Ca sau khi thành đạo, ngài muốn chọn một nơi an toàn nhất để làm trung tâm phát huy tư tưởng của mình, ai cũng đều biết tư tưởng của ngài là đả phá giai cấpnô lệ, Ngài được vua Tần Bà Sa La, nước Ma Kiệt Đà hết mình ủng hộ, đức Phật chọn Tịnh Xá Trúc Lâm làm trung tâm phát huy tư tưởng của Ngài và được hai ông bà vua Tần Bà Sa La đứng ra bảo trợ, cho nên trong thời gian đức Phật trụ tại nước này rất bình an không bị ai đến đánh phá chống đối; Thái tử A Xà Thế (Ajàtasattu) con của Vua Tần Bà Sa La, khi lớn lên liền cướp ngôi của vua cha và bắt hai ông bà bỏ tù cho chết đói, trong khi đó, đức Phật Thích Ca nghĩ tình công ơn của vua bảo trợ trong thời gian Ngài trụ ở nước Ma Kiệt Đà, đức Phật liền phái đức Mục Kiền Liên lén bay vào trong ngục không cho ai biết để hướng dẫn ông bà niệm Phật A Di Đà tu gieo duyên, đồng thời đức Phật sử dụng Thần Thông Lậu Tận dùng hào quang thâu nhỏ lại thế giới Cực Lạc và Phật A Di Đà đang thuyết pháp đem hiện rõ trong ngục để hai ông bà đặt trọn niềm tin hướng về tu tập.

 

Hơn nữa, đây còn là một sự kiện đặc biệt chuyển biến lạ, bà hoàng hậuVi Đề Hy (Videhi), mẹ của thái tử A Xà Thế, được con nghịch tử thả ra, lẽ dĩ nhiên vua Tần Bà Sa La nhất định phải chết trong ngục. Khi bà hoàng hậu Vi Đề Hy được thả tự do, bà liền đến yết kiến đức Phật Thích Ca cầu xin Phật trình bày rõ về cõi Tây Phương Cực Lạc của đức Phật A Di Đà đang làm giáo chủ, đức Phật liền giảng Kinh Tiểu Bổn A Di Đà để cho bà và đại chúng cùng nghe, tiếp theo ở các đạo tràng khác, đức Phật cũng giảng Kinh Vô Lượng Thọ, Kinh Quán Vô Lượng Thọ, cùng các kinh quan hệ với Tịnh Độ cho bà và đại chúng cùng nghe.Từ đó tư tưởng Tịnh Độ được nằm trong kho tàng Kinh Tạng của Phật Giáo.

 

      Sau khi đức Phật giảng kinh A Di Đà xong, bà hoàng hậu Vi Đề Hy căn cứ theo tinh thần của Kinh A Di Đà đứng ra vận động thành lập phong trào tu tịnh độ niệm Phật A Di Đà do bà lãnh đạo qua sự bảo trợ của đức Phật Thích Ca, phong trào này được rất đông dân chún hưởng ứng tham dự, trong đó bao gồm cả giai cấp Phệ Xá, Thủ Đà Lanô lệ, vì phong trào lớn mạnh quá đông, để có tổ chức, bà hoàng hậu Vi Đề Hy ra lệnh tất cả các thành viên trong tổ chức phải mặc y màu trắngđể biểu tượng, cũng như các vị tỳ kheo xuất gia đều mặc y màu vàng để biểu tượng; y màu trắng của tổ chức là bà hoàng hậu Vi Đề Hy căn cứ theo ý nghĩa câu chuyện của bà hoàng hậu Ma Da nằm mộng thấy Bồ Tát Hộ Minh cởi con voi trắng sáu ngà từ trên trời bay xuống khai hông bên hữu của bà chun vào, và từ đó bà hoàng hậu Ma Da sanh ra thái tử Tất Đạt Đa, câu chuyện màu trắng ở đây của con voi trắng sáu ngà là tượng trưng cho thanh tịnhgiải thoát của Bồ Tát, còn y màu trắng của bà hoàng hậu Vi Đề Hy chủ trương là tượng trưng cho sự trong sạchgiải thoát nô lệ. Phong trào này về sau được đức Phật chuyển thành phong trào Ưu Bà TắcƯu Bà Di nhằm để hộ trì Phật Pháp. Có thể khẳng định tông phái Tịnh Độ không phải có từ Trung Hoa do ngài Tuệ Viễn chủ trương mà tông phái này đã có từ Ấn Độ vào thời kỳ đức Phật Thích Ca còn tại thế do bà hoàng hậu Vi Đề Hy lãnh đạo.

 

      *- Một sự kiện thứ ba là đức Phật sử dụng thần thông tạo dựng năm đàn Lăng Nghiêm để hỗ trợ và sai Bồ Tát Văn Thù đem chú Lăng Nghiêm đến hoá giải thần chú Ta Tỳ La Phạm Thiên của dâm nữ Ma Đăng Già để cứu ông A Nan; từ câu chuyện dâm nữ Ma Đăng Già đó mới có Kinh Lăng Nghiêm nằm trong kho tàng Kinh Tạng của Phật Giáo.

 

Nhìn  qua  ba sự kiện của đức Phật Thích Ca sử dụng Thần Thông để hoá độ chúng sanh trong thời đó cũng đủ chứng minh đức Phật đã chứng Thần Thông, nhưng vì đức Phật không cho các đệ tử sử dụng thần thông để truyền giáo (điều này được thấy trong truyện Tăng Đồ Nhà Phật), cho nên cũng từ đó kỷ năng đào luyện thần thông đã mất chân truyền trong dân gian và đã chìm sâu quên lãng lâu đời trong xã hội. Nhờ chứng đắc thần thông, đức Phật đã sử dụng kỷ thuật truyền giáo vô cùng độc đáo ở chỗ là Ngài sử dụng mà không ai biết. Đức Phật sử dụng kỷ thuật thuyết pháp có hai cách: Đạo Tràng Thuyết PhápThiền Định Thuyết Pháp.

 

Đạo Tràng Thuyết Phápđức Phật thuyết pháp nơi đạo tràng bằng tiếng Ấn Độ gồm có hội chúng khoảng 1250 đệ tử và các vua chúa, các quần thần, các dân chúng đều tham dự; đồng thời ngài cũng dùngThiền Định Thuyết Phápsử dụng Thần Thông Lậu Tận để chuyển ngữ cho các cõi khác đều cùng nghe. Thí dụ như chúng ta thuyết pháp tại chùa cho các Phật tử của chùa nghe, đó gọi là Đạo Tràng Thuyết Pháp, đồng thời chúng ta cũng dùng On Line để phổ biến cho người Việt Nam khắp nơi trên thế giới đều cùng được nghe, đó thí dụThiền Định Thuyết Pháp; Điều đặc biệt hơn, đức Phật chẳng những dùng thiền định thuyết pháp mà còn sử dụngThần Thông Lậu Tận để chuyển ngữ, thí dụ như nơi Trung Tâm Liên Hiệp Quốc, các quốc gia trên thế giới đến tham dự, trong đó có mặt người Việt Nam,n gười Việt Nam phát biểu bằng tiếngViệt Nam, nhưng người các quốc gia khác đều nghe được qua tiếng của họ, đấy thí dụchuyển ngữ bằng Thần Thông Lậu Tận. Vấn đề này được thấy nơi Phẩm Đại Hội số 19 trong Trường Bộ Kinh.

 

2.- Giờ đây bước sang lãnh vực thế giới Địa Ngục. Muốn rõ thế giới Địa Ngục như thế nào, chúng ta phải đọc lại Kinh Địa Tạng. Kinh Địa Tạngkinh điển nhằm diễn tả toàn bộ thế giới Địa Ngục, đồng thời giới thiệu Bồ Tát Địa Tạng, người làm giáo chủ cõi U Minh mà tất cả Phật tử ai cũng đều biết nội dung của Kinh Địa Tạng này. Ngoài ra còn cóKinh Vu Lan cũng nói về thế giới Địa Ngục là nơi mà ngài Mục Kiền Liên xuống nơi đó để cứu mẹ.Ở đâychúng ta chỉ cần tìm hiểu về xuất xứ của bộ kinh này và xác nhận bộ kinh này chính là của đức Phật Thích Ca thuyết pháp thì từ đó chúng ta mới tin tưởng thế giới Địa Ngục là có thật.

 

      Qua những dữ kiện vừa trình bày ở trên chứng tỏ đức Phật Thích Ca là người đã chứngThần Thông và cũng là người thường sử dụng hai cách thuyết pháp: thiền địnhđạo tràng. Thế giới Đao Lợi là một trong những thế giới trong nội tâm A Lại Dađức Phật Thích Ca xuất thần lên thế giới đó bằng Đại Định Kiên Cố mà người đời thường gọi là xuất hồn, Ngài bay lên đó trong ba tháng để thuyết kinh Địa Tạng cho mẹ và các vua trời cùng nghe; trường hợp này cũng giống như chúng ta ngủ mê một giấc mơ dài thấy mình bay về Việt Nam thăm bà con ( xuất hồn) và cùng họ đi tham quan các nơi, các cảnh đâyđã có đầy đủ trong nội tâm A Lại Da của chúng ta, chúng ta khi thức giấc (tỉnh giấc) vẫn nhớ lại rành mạch không thiếu sót; hiện tượng này cũng giống như đức Phật Thích Ca sau khi ngài giảng Kinh Địa Tạng xong, trở về thế giới thực tại nơi Ấn Độ, ngài giảng lại cho các đệ tử  trong đạo tràng cùng nghe và đại chúng ghi lại những điều đức Phật giảng trên Cung Trời Đao Lợi, về sau được kết thành bộ kinh gọi là Kinh Địa Tạng và cũng được nằm trong danh bộ Tạng Kinh. Sự kiện trên thực sự cũng đủ chứng minh là có thế giới Địa Ngục và cũng nói lên được là có Bồ Tát Địa Tạng đang làm giáo chủ cõi U Minh, cũng giống như đức Phật A Di Đà hiện đang làm giáo chủ nơi thế giới Cực Lạc phương Tây.

 

3.- Tiếp theo chúng ta nhìn qua lăng kính khác để tìm hiểu thế giới Địa Ngục. Cổ đức thường nói ‘Dương gian âm phủ đồng nhất lý,’ nghĩa là cõi dương và cõi âm, nguyên lý đều giống nhau (đồng nhất). Dương gian là chỉ cho thế gian cõi dương (thế gian chịu ảnh hưởng mặt trời) và âm phủ là chỉ cho thế giới cõi âm (thế giới không chịu ảnh hưởng mặttrăng). Theo DuyThứcHọc, thế giới cõi dương là chỉ cho thế giới ngoại cảnh (cảnh giới hiện ra bên ngoài), thế giới cõi âm là chỉ cho thế giới trong nội tâm A Lại Da (Tạng Thức). Dương gian âm phủ đồng nhất lý, chính là ám chỉ cho thế gian này có những cảnh giới nào mà chúng ta đã tham quan qua đều có mặt đầy đủ trong nội tâm A Lại Da của chúng ta, thí dụ chúng ta tham quan thành phố Hà Nội, thành phố Huế, thành phố Sài Gòn, thành phố Nam Hàn, thành phố San Jose ở nước Hoa Kỳ..v..v..... tất cả những thành phố đó đều có mặt trong nội tâm A lại Da của chúng ta, đây là nói lên ý nghĩa dương gian âm phủ đồng nhất lý.

 

Cũng từ ý nghĩa này, chúng taý niệm rằng, thế gian có những trại tù để nhốt những kẻ phạm tội thì nơi thế giới cõi âm cũng có những địa ngục để đối trị những kẻ tội ác; thế gian này có những kẻ du đãng cõi dương thì thế giới cõi âm cũng có ngạ quỷ du đãng cô hồn; thế gian này có những loại súc sanh thì thế giới cõi âm cũng có những loại súc sanh giống như thế.

 

4.- Trở lại vấn đề thế giới Địa Ngục, thế giới Địa Ngục là nơi để đối trị tánh tội của chúng sanh, còn trại tù ở thế gian là nơi chỉ đối trị tướng tội của chúng sanh; tướng tội là những tội lỗi do lời nói và hành động gây tạo, còn gọi là tội lỗi của thân nghiệpkhẩu nghiệp; riêng tánh tội là những tội lỗi do tâm ý chủ mưu xúi dục, còn gọi là tội lỗi của ý nghiệp. Con người có thể thoát khỏi trại tù nơi thế gian về tướng tội của thân nghiệpkhẩu nghiệp, nhưng không thể toát khỏi trại tù của Địa Ngục nơi nội tâm về tánh tội của ý nghiệp.

 

a/- Cơ sở của thế giới Địa Ngục. Thế giới Địa Ngụcthế giới của nội tâm không phải là thế giới của ngoại cảnh và cũng không ảnh hưởng chút gì nơi thế giới ngoại cảnh, trường hợp này cũng giống như chúng ta đang nằm mơ, tâm chúng ta chun vào thế giới mộng mơ đi du ngoạn, chúng ta lái xe chở bạn đi khắp thành phố trong mơ, trong lúc đó, chúng ta lái xe không đụng giường của chúng ta đang ngủ, không đụng nhà của chúng ta ở, không đụng thành phố của chúng ta đang sống, khi tỉnh lại chúng ta mới biết mình đang nằm mơ.

 

Cũng trong tinh thần dương gian âm phủ đồng nhất lý, ngược lại âm phủ có những hiện tượng gì thì trên dương gian cũng có những hiện tượng đó, như có những chúng sanh chịu ảnh hưởng mặt trời, nghĩa là họ sống nhờ ánh sáng mặt trời thì mới thấy đường, mới sinh hoạt và khi về đêm thì họ không thấy đường, họ không sinh hoạt và họ đi ngủ, cụ thể như con người..v..v....chỉ sinh hoạt ban ngày, không sinh hoạt ban đêm, đây chính là nguyên lý; có những loại chúng sanh chỉ sinh hoạt về ban đêm và có ảnh hưởng với mặt trăng, như về loài súc vật gồm có: loài dơi, loài chim quốc, loài cú mèo..v..v....; 

 

b/- Còn như về loài ngạ quỷ, những loại này do nghiệp báo tham lam, ích kỷ, bỏn xẻn, keo kiết cực thịnh tạo nên, họ cũng sống về ban đêm và cũng ảnh hưởng mặt trăng giống như các loài súc vật nói trên. Theo Thuận Chánh Lý Luận, quyển 21 giải thích: vị trí cảnh giới của họ rất rộng lớn trải khắp nhân gian, chúng sanh ngạ quỷ có nhiều loại như:

-        Quỷ Vô Tài, là những loại quỹ và miệng của chúng nó có đầy lửa, có loại miệng của chúng nó nhỏ như kim, có loại miệng của chúng nó bay mùi hôi thúi.

-        Quỷ Thiển Tài, là những loài quỷ có long nhọn như kim, cól ông bay mùi hôi, có long làm cho chúng nó bị bệnh hoạn.

-        Quỷ Đa Tài, là những loài quỷ chuyên môn đi góp nhặt, tích lủy tài vật bằng mọi hình thức. Quỷ Đa Tài là danh từ chung, trong đó gồm có ba loại:

      + Khí Quỷ, là những loại quỷ chuyên môn đi nhận tài vật cúng bái của

người đời. Những loài quỷ này, người đời thường gọi là Ma, nhất là

chúng nó thường thân cận với bà con để kiếm ăn.

      + Thất Quỷ, là những loại quỷ chuyên môn đi lấy những tài vật bị thất

lạc của loài người bỏ quên và khiến loài người không thể tìm lại được.

      + Đại Khí Quỷ: là những loại quỷ vô cùng hung bạo chuyên môn giết

người để hút máu, để cướp đoạt tài vật..v..v..., nhất là giết người bắt

làm nô lệphục dịch cho chúng. Những loại quỷ này gồm có: Quỷ

Dạ Xoa, Quỷ La Sát, Quỷ Tỳ Xá..v..v...

Để chứng minh, hiện nay, nơi thành phố Orange County và thành phố San Jose, có hai nhà sang trọng, trong nhà có ba bốn phòng bỏ trống từ lâu không ai dám mướn, vì trong hai nhà đó có ma, ban đêm thường hiện hình đe doạ chủ mướn nhà, khiến họ phải bỏ nhà đi mướn nơi khác.

c/- Nhìn lại lần nữa về vấn đề thế giới Địa Ngục.Vị trí của những thế giới này, theo như Kinh Địa Tạng ở rải rác khắp trong lòng núi Thiết Vi nơi Nam Thiệm Bộ Châu, cũng gọi là Nam Diêm Phù Đề, những người sống trong đó không biết gì về ánh sáng mặt trờimặt trăng, cũng giống như loài cá sống sâu dưới đáy biển và chỗ đó không có chút nào ánh sáng mặt trời mặt trăng, chúng nó nếu lên tới mặt biển là không thấy đường và bong bóng của nó liền bị bể mà chết, khác hơn loài rùa..v..v...chúng nó sống giao thoa với thế giới loài ngườithế giới loài cá, nghĩa là chúng nó lên bờ sống cũng được và xuống dưới nước sống cũng được, cũng có chỗ gọi thế giới của loài rùa là Trung Giới. Cho nên thế giới Địa Ngục cũng được gọi là thế giới U MinhBồ Tát làm giáo chủ thế giới đó gọi là: U Minh Giáo Chủ Bổn Tôn Địa Tạng Vương Bồ Tát.

5.-Tóm lại, Kinh Địa Tạngbộ kinh có thật của chính đức Phật Thích Ca thuyết pháp tại cung trời Đao Lợi để giới thiệu cho mẹ và các vị vua trời nói trên. Bộ Kinh này được đức Phật giảng lại cho đại chúng lúc bấy giờ nghe và từ đó được kết tập thành một trong những Kinh Tạng. Tiếp theo có thể khẳng định thế giới Địa Ngụcthế giới có thật qua sự chứng minh của Kinh Địa Tạng, của Kinh Vu Lan và cũng có thật qua những dữ kiện vừa trình bày trên; thế giới Địa Ngục nhất định phải có, chính là trại tù khổng lồ của tâm linh nhằm để đối trị những tội lỗi về ý nghiệp của chúng sanh; chúng sanh tù tội mặc dù thoát khỏi trại tù của thế gian, nhưng không thể thoát khỏi trại tù Địa Ngục của tâm linh.

 

Sáng tác xong, ngày 24.09. 2019

Chùa Phật Quang

Trung Tâm phiên dịchsáng tác.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 152)
Hai câu hỏi hiện lên trong đầu tôi khi nghĩ về giáo lý vô thường liên quan đến cuộc đời tôi.
(Xem: 229)
Lôgic học là một ngành học có mục đích xác định các quy tắc vận hành của tư duy để tìm kiếm sự thực.
(Xem: 256)
Trong quá trình hình thành và phát triển xã hội, con người luôn khát khao tìm cầu hạnh phúc, thỏa mãn nhu cầu về vật chất và tinh thần.
(Xem: 287)
Tuệ là trí tuệ tức cái biết, thức là nhận thức cũng là cái biết. Cả hai đều là cái biết nhưng có đặc điểm khác nhau.
(Xem: 358)
Khái niệm Niết-bàn vốn thành hình cách đây hơn 2500 năm. Các học giả và các triết gia khác nhau
(Xem: 564)
Ở trên là hai câu đầu trong bài kệ Lục Tổ Huệ Năng khai thị nhân bài kệ của thiền sư Ngọa Luân. Câu chuyện được thuật lại trong Pháp Bảo Đàn Kinh, phẩm Cơ Duyên thứ 7.
(Xem: 630)
Chữ “Tăng đoàn” là một thuật ngữ tiếng Phạn, có nghĩa là “cộng đồng” và được sử dụng chủ yếu để chỉ những tín đồ đã xuất gia của Đức Phật,
(Xem: 569)
Tóm tắt: Phật giáo là tôn giáo được biết đến như một hệ thống triết học mang đậm chất tư duy, trí tuệ cùng giá trị đạo đức cao.
(Xem: 634)
Mỗi người hiểu về nghiệp theo mỗi kiểu khác nhau tùy vào nhận thức và trải nghiệm bản thân, nhưng phần lớn vẫn chịu ảnh hưởng của cách hiểu trong dân gian về khái niệm của từ này.
(Xem: 561)
Từ ngàn xưa cho đến thời điểm xã hội phát triển mạnh mẽ về mọi mặt như hiện nay, mặc dù nền văn minh có bước tiến bộ vượt bậc
(Xem: 500)
iáo lý Duyên khởi được xem như chiếc chìa khóa mở ra kho tàng pháp bảo Phật giáo, vì có thể giải quyết những vấn đề của khổ đau, cả sự sanh ra hay chết đi của con người.
(Xem: 563)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh tập thứ 14. Kinh văn số 550 gồm 12 quyển. Chữ Hán từ trang 865 đến trang 894, gồm tất cả 29 trang.
(Xem: 638)
Những nhu cầu của con người sinh học thì giản dị, khi đói chỉ mong được ăn, khi khát mong được uống, khi mệt mong được nằm,
(Xem: 652)
Khi thân thể tiều tụy chỉ còn da bọc xương, những khổ thọ chết người đều đã trải qua,
(Xem: 744)
Trong quá trình thuyết giáo của đức Phật, những lời dạy của Ngài không được lưu giữ dưới dạng văn bản chữ viết
(Xem: 564)
Nhân ngày húy nhật của Hòa thượng Thích Trí Thủ, một trong những vị tông sư hoằng truyền luật học Phật giáo thời cận đại,
(Xem: 465)
Hành giả tu hành muốn mau đạt đến kết quả như mình mong muốn thì, điều kiện tiên quyết trước hết là chúng ta cần phải chọn lựa pháp môn nào cho thích hợp với căn cơ của mình
(Xem: 548)
Trọng tâm của triết học Phật giáohọc thuyết nổi tiếng về tính không - rằng tất cả chúng sinhhiện tượng đều trống rỗng về bản chất hay bản chất cố hữu.
(Xem: 622)
Vô phân biệt được nói đến nhiều lần trong Kinh Đại Bát Nhã Ba La Mật.
(Xem: 551)
Theo lý Duyên Khởi của đạo Phật, tất cả vạn hữu vũ trụ được hình thành do yếu tố hòa hiệp của nhơn duyên và sẽ đi đến phân ly do duyên tan rã.
(Xem: 559)
Cuộc chiến đấu mới–Sau khi Đức Phật nhập diệt, hình bóng của ngài vẫn hiện ra trong hàng thế kỷ trong một hang động–một hình bóng rất lớn
(Xem: 663)
Như Nietzsche khuyên răn chúng ta hãy lại bắt đầu học làm mới bằng cách để ý đến những việc ‘tầm thường’ và sự vận hành của ‘thân’ để xác định
(Xem: 678)
Tôi nghĩ là làm một việc có lý khi bác bỏ tuyên bố của Nietzsche rằng đạo Phật là một dạng của ‘thuyết hư vô thụ động,’ rằng đạo Phật truyền dạy
(Xem: 658)
Đặt vấn đề có phải đạo Phật là một dạng của ‘Chủ thuyết hư vô thụ động’ có nghĩa là đặt vấn đề liệu summum bonum[1] của đạo Phật,
(Xem: 726)
Dù có nhiều tác phẩm đa dạng về Phật học thích dụng ở Châu Âu thời kỳ trước Nietzsche,
(Xem: 766)
Nhân ngày húy nhật của Hòa thượng Thích Trí Thủ, một trong những vị tông sư hoằng truyền luật học Phật giáo thời cận đại,
(Xem: 737)
Hành giả tu hành muốn mau đạt đến kết quả như mình mong muốn thì, điều kiện tiên quyết trước hết là chúng ta cần phải chọn lựa pháp môn nào
(Xem: 928)
Cửa vào bất nhị, còn gọi là pháp môn bất nhị, từ xa xưa đã được truyền dạy từ thời Đức Phật, chứ không phải là hậu tác của chư tổ Bắc Tông,
(Xem: 786)
Tinh thần hòa hiệp là ý nghĩa sống lành mạnh an vui, tinh thần của một khối người biết tôn trọng ý niệm tự tồn, và xây dựng vươn cao trong ý chí hướng thượng.
(Xem: 1316)
Xuất xứ của Bát Chánh Đạo có hai nguồn là nguồn từ Phật chứng ngộ mà thuyết ra và nguồn được kết tập lại từ các kinh điển
(Xem: 869)
Tam tam-muội là chỉ cho ba loại định, tức là ba loại pháp môn quán hành của Phật giáo, được xem như là nguyên lý thực tiễn của Thiền định.
(Xem: 1031)
Tôi kính lễ bái bậc Chánh giác, bậc tối thắng trong hết thảy các nhà thuyết pháp, đã thuyết giảng Duyên khởibất diệtbất sinh,
(Xem: 797)
Thay vì tìm hiểu nguồn gốc tại sao phải chịu luân hồi sinh tử, con người không ngừng tìm kiếm căn nguyên của vũ trụ vạn vật, nơi mình sinh ra;
(Xem: 1016)
Khi Thái tử Tất-đạt-đa nhận thấy tất cả mọi người dân đang chìm trong đau khổ, và ngay chính bản thân mình rồi cũng phải chịu qui luật già, bệnh, chết
(Xem: 961)
Danh từ nghiệp hay karma (skt.) được đề cập thường xuyên trong các luận giải về tư tưởng triết họctôn giáo Ấn-độ.
(Xem: 929)
Tứ quả là bốn quả vị sai biệt của các bậc Thánh Thinh Văn thừa, tùy thuộc vào trình độ căn cơ của hành giả đã đạt được sau khi tu tập
(Xem: 1072)
Sau khi hoàng hậu Ma-da (Mayā) quá vãng, vua Tịnh Phạn (Suddhodana) tục huyền với Mahāpajāpatī Gotami và bà đã xuất gia
(Xem: 1324)
Kinh Pháp Hoa dạy rằng: “Đức Phật ra đời vì một đại nhân duyên. Đó là khai thị cho chúng sanh liễu ngộ Phật tri kiến nơi mình”.
(Xem: 1680)
Một trong những hình thức ta nuôi dưỡng phiền giận về chính mình là mặc cảm tội lỗi.
(Xem: 925)
Các câu hỏi, không khác với câu khẳng định, dựa trên các giả định.
(Xem: 1099)
Đối với những người nhìn vào Phật giáo qua phương tiện tiếng Anh, việc thực hành lòng từ bi và sự xả ly có thể không tương thích với nhau,
(Xem: 920)
Từ khi đức Phật xác lập: “Mọi vật đều vô thường, mọi vật đều vô ngã”, thường được diễn tả với danh từ Sarvam Sùnyam (mọi vật đều Không).
(Xem: 786)
Trong lịch sử Thiền Tông Việt Nam, Thiền sư Trần Thái Tông (1218-1277) được kể như một nhân vật vô cùng đặc biệt, với nội tâm giác ngộ cao siêu,
(Xem: 908)
Trước đây qua giáo lý của Đức Phật chúng ta hiểu rằng Đạo Phật là đạo xây dựng trên nền tảng trí tuệ, tức dùng sự giác ngộ, hiểu biết
(Xem: 947)
Thiền sư Trần Thái Tông (1218 -1277) một vị thiền sư siêu việt, ông vua anh minh, nhà tư tưởng lớn, một nhân cách cao cả.
(Xem: 1358)
Nhận thức rằng tất cả đều là giả tạm và cuộc đời là một nỗi khổ đau lớn, nên đức Phật mới đi tìm chân lýgiác ngộ chân lý.
(Xem: 1106)
Khi đức Phật còn tại thế, Ngài đã quy chế cho cộng đồng Tăng phải an cư ba tháng mùa mưa, ngày nay lịch an cư tùy hệ phái, từ rằm tháng tư đến rằm tháng bảy theo truyền thống Phật giáo Bắc phương;
(Xem: 1141)
Trung đạo là khái niệm được dùng khá nhiều trong Phật giáo. Tùy duyênTrung đạo được định nghĩa khác nhau,
(Xem: 896)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh tập thứ 14. Kinh văn số 550 gồm 12 quyển. Chữ Hán từ trang 865 đến trang 894, gồm tất cả 29 trang.
(Xem: 1033)
Trong năm bộ Nikaya của hệ Pali, Đức Phật thường nói đến sự “không có lõi cứng” của các hiện tượng, từ thân tâm, cho đến thế giớichúng sanh.
(Xem: 1469)
Con người sống trong một thế giới mà đối với anh ta dường như là một cái gì đó hoàn toàn tách biệt với chính anh ta.
(Xem: 1356)
Nhân quả là một định luật tất yếu trong sự hình thành nhân sinh quan và vũ trụ quan qua liên hệ duyên khởi của cuộc sống con người, mà qua đó nhân quả được coi như là một luật tắc không thể thiếu được khi hình thành một xã hội nhân bản đạo đức.
(Xem: 1347)
Bất hạnh lớn nhất của Phật tử chúng ta là sinh ra vào một thời không có Phật. Một mất mát lớn, gần như không gì có thể thay thế. Hơn thế nữa, bất hạnh này đang trở thành một nỗi ám ảnhchúng ta không thể nào dứt bỏ trong cuộc hành trình dài, đơn độc qua bao vòng xoáy của kiếp người chúng ta không biết mình đang ở đâu và sẽ đi về đâu trong chuyến di này.
(Xem: 969)
Nhân ngày húy nhật của Hòa thượng Thích Trí Thủ, một trong những vị tông sư hoằng truyền luật học Phật giáo thời cận đại, tôi trích đoạn trong tác phẩm lịch sử của tôi đang viết chưa hoàn thiện, có nhắc đến công trạng của ngài, như dâng lên tấm lòng tưởng niệm đến bậc Long tượng Phật giáo.
(Xem: 1346)
Trúc Đạo Sinh, người họ Ngụy 魏, sinh ra[1] khi gia đình cư ngụBành Thành 彭城, nay là Từ Châu 徐州 phía Bắc tỉnh Giang Tô 江蘇. Nguyên quán gia đình trước ở miền Tây Nam, tỉnh Hà Bắc, sau chuyển về huyện Cự Lộc 钜鹿.
(Xem: 1255)
Nói về vấn đề “trước nhất”, Kinh Phạm Võng với nội dung cốt yếu giới thiệu về quan điểm của các phái ngoại đạo, chính là bộ kinh đầu tiên trong Trường Bộ.
(Xem: 1175)
Lý tưởng về một vị Bồ tát bắt nguồn từ Phật giáo Nguyên thủy và được phát triển hoàn thiện trong tinh thần Phật giáo Đại thừa.
(Xem: 1214)
Khi học sinh từng người, từng người tốt nghiệp rời khỏi Phật học viện rồi, tôi bắt đầu xây dựng Biệt phân viện[1]khắp nơi, để ...
(Xem: 1579)
Xuất xứ của Bát Chánh Đạo có hai nguồn là nguồn từ Phật chứng ngộ mà thuyết ra và nguồn được kết tập lại từ các kinh điển. Phật thuyết từ chứng ngộ
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant