Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

Bất – Chánh Niệm

29 Tháng Bảy 202119:51(Xem: 4523)
Bất – Chánh Niệm

BẤT – CHÁNH NIỆM

Nhuận Hùng

 
Đời Người

“Thiên đường có lối sao chẳng đi
Địa ngục không cửa dấn thân vào”

 

Chắc có lẽ quý vị cũng hiểu…là người Phật Tử thường xuyên đi chùa hay học hỏi giáp lý Phật Đà thì sẽ hiểu Chánh Niệm là gì?

Nói một cách khác, đơn giản hơn là những sự hơn thua – so đo, tính toán trên thương trường hay những việc khác có lợi nhuận nhiều hơn, dễ đưa đến sự xung đột trong giao dịch với nhau, mất đi tình bằng hữu lúc sơ cơ...! Những sự kiện không thể diễn đạt được, dẫn đến sự ngộ nhận nào đó! Khiến cho người chung quanh phẩn nộ…Hỷ -nộ- ái - ố cũng từ đó len lỏi vào trong tâm an lành của chúng ta. Nói một cách đơn giản trên đời này thường hay xảy ra việc ngoài ý muốn. Không phân biệt giai cấp xã hội hay là (nam -phụ -lão- ấu) cũng có thể vấp phải trên đoạn đường đời…!

Đúng thế, nói đến vô thường trong đời sống ít ai nghĩ đến nhưng “sự đại – đại sự” “sanh – tử” là không ai chối từ được. Bất cứ ai cũng không sao tránh khỏi điều ấy, không sớm thì chậm…! Cộng thêm cuộc sống khó khăn hằng ngày cơm –áo – gạo – tiền cứ mãi miết cuốn theo vòng xoáy - dòng đời như thế, cho đến khi nào chúng ta mới thoát ra được? Cho nên thánh nhân thường hay nhắc rằng:

“Hữu thân – hữu khổ”

(Có thân này, thì phải có khổ)

Mọi việc trên đời cũng như dòng nước mãi mãi chảy, chúng ta lặn hụp trôi lăn trong vòng sinh – tử luân hồi lục đạo đến bao giờ mới thoát ra được…! Thật ra, từ vô lượng kiếp tới nay. Thế gian này nếu mà nói đến “khổ” thì mãi mãi không thể chấm dứt được, tất cả cũng đều do nghiệp lự cmà ra, nếu chúng ta chia chẻ trong sáu cõi luân hồi lục đạo, tất cả cũng đều do nghiệp lực tiền kiếp nhiều đời đã gây tạo ra…!

Cũng từ “bản ngã” cố chấp nhưng đi sâu vào giải thích thì rất dài dòng. Cho nên bài này chỉ nhắm vào điểm Bát Chánh Đạo đó là Chánh Niệm. Tại sao, lại sao là Bất - Chánh Niệm từ từ chúng ta theo dõi dưới đây thì sẽ rõ

Vậy sơ qua Bát Chánh Đạo gồm: “Chánh kiến – chánh tư duy- chánh ngữ- chánh nghiệpchánh mạng – chánh niệm- chánh tinh tấn- chánh định” Yếu tố quan trọng trong Bát Chánh Đạo này, là Chánh Kiến tức là Huệ.

Trong Kinh A Hàm có câu:

“Giả sử trong thế gian, có người Chánh Kiến tăng thượng, tuy sanh trăm ngàn đời, trọn không đọa đường ác.”

Dưới đây, xin được chia xẻ cùng các bạn trẻ! Một câu chuyện thật ngắn về sự Mất Chánh Niệm hay là Bất – Chánh Niệm cũng cùng một nghĩa đó thôi.

Đứng trên, cái nhìn khách quan đó là một việc xảy ra rất bình thường trong đời sống ai ai cũng có lần vấp phải…! Không riêng một ai, mong quý vị thẩm thấu… mà từ từ nghiền ngẫm…!

 

Chuyện kể rằng:

 

“Tại một khu rừng nọ….thuộc tỉnh thành….Cách xóm làng cũng khá xa nơi đây đủ cơ duyên đã tạo dựng lên một Thiền Thất…! Rất tôn nghiêm được xây cất lên khá đặc thù theo lối thiền tông thời xa xưa, được chia làm ba gian chính giữa là thiền đường chánh làm bằng gỗ trông rất thiền vị, một bên là dãy nhà trù (nhà ăn cho thiền sinh) còn một bên nữa là Tăng xá của Chư Tăng…! Chung quanh thiền viện là những hàng cây thông cao to rất mát mẽ vào mùa hè. Ngoài ra còn có hồ sen, cây khiểng cắt xén trông rất nghệ thuật lại còn có cả non bộ (núi giả sơn) cảnh trí ở đây rất hữu tình cho việc tu tập. Tăng chúng ở đây cũng khá đông trên năm mươi vị, đủ các lứa tuổi, vì đây là những thiền mới từ các nơi quy tụ về. Cho nên thường hay xảy ra những chuyện ngoài ý muốn. Vị Thiền Sư đã cao niên rồi nhưng sự hướng dẫn vẫn phải khắc khe về quy cũ Thiền Tông, nhưng không sao tránh khỏi những việc nhỏ nhặt xảy ra trong thiền đường…! Đặc biệt, thiền sinh không được tiếp xúc với người ngoài trong thời gian tu tập, ở đó hầu mong tránh những phiền toái sẽ xảy ra không thể ngờ trước được.

Thật là trên đời này không có việc gì là trọn vẹn hay huy hữu cả. Dù ta cố gắng gói trọn hoàn hảo đi nữa, nhưng khi sự cố xảy ra vẫn phải sinh tâm phiền não chung cho mọi người. “Phiền não tức Bồ Đề” nếu không phiền não thì làm sao có bồ đề.

Việc là như thế này: “Sau buổi tọa thiền, có một thiền sinh đứng ra thưa, với sư phụ rằng:”

-“Bạch thầy, hôm nay con không (tịnh tâm được)?

-“Vì sao?” Sư phụ hỏi lại.

-“Dạ, bạch thầy! hôm nay con bị mất chiếc đồng hồ!

-“Lúc nào”

-“Dạ, con không nhớ rõ” Chưa hết, thiền sinh lại nói tiếp, con đã tìm khắp nơi mà không thấy…! Bạch thầy chỉ giúp dùm con, A Di Dà Phật.

-“Vì sao phải giúp… Sư phụ hỏi ?

-“Dạ, Thưa Thầy, đó là chiếc đồng hồ duy nhất của cha con, cho con trước lúc lâm chung và người còn căn dặn con hãy cẩn thận giữ lấy, đừng làm mất mà phụ lòng cha…!

-“Được, thầy sẽ giúp con tìm lại…!

-“Dạ, con ghi ân thầy, nguyện lần sau không  dám phạm phải…!

Buổi chiều hôm đó, sư phụ có mặt trước thiền đường sớm hơn mọi khi, khiến cho tất cả môn sinh ngạc nhiên, bất ngờ không biết thiền đường đang yên lành, làn gió độc từ đâu ập đến, (phiền não) cũng là sự bất an cho những thiền sinh sơ cơ đang tu tập…!

Quả tình, là có chuyện tai bay họa gởi đã đến không phòng hờ được…! Sau khi thiền sinh tập trung đông đảo, sư phụ tuyên bố rằng:

-“Chiều nay các con không phải thiền tập nữa, mà hãy giúp cho sư phụ một việc..! Ngưng giây lát, khiến cho mọi thiền sinh ngơ ngác, ai nấy đều nhìn mặt nhau không biết chuyện gì xảy ra?

Sư phụ chậm rãi, từ tốn nói rằng: “Có một bạn cùng tu với chúng ta bị mất chiếc đồng hồ đeo tay…”

Ai nấy cũng sững sốt, vì ở đây các thiền sinh được dạy dỗ rất nghiêm khắc, cớ sao lại có chuyện vô cớ xảy ra như thế thật đáng tiếc…! Có bạn, còn nói rằng:

-“Phiền não đã đến rồi, mọi người ơi…! Hãy an tâm đi đừng náo loạn thiền đường sẽ bị phạt đấy, mọi người ai nấy nín thinh và im thiêm thiếp không dám lên tiếng.

Bổng nhiên, có một thiền sinh mạnh dạn giơ tay lên và thưa rằng:

-“Thưa sư phụ, việc này nên để bạn A vào từng phòng kiểm soát tư trang của chúng con có được không?”

-“Được, tất cả đáp như thế!”

Nhưng cũng có vài thiền sinh không bằng lòng, sinh tâm phiền não cho rằng vô cớ nghi ngờ lục soát hành trang của mình…việc làm bất tiện không có lòng tin thì làm sao tu hành được vậy, nhưng không thể phản đối số đông được miễn cưỡng bằng lòng trong lòng lòng không cảm phụcthiểu số phải chấp nhận như thế đó là việc đương nhiên trong đời sống thường nhật, ai cũng hiểu như thế.

Cuối cùng báo cáo lên sư phụ, chẳng tìm ra vật chứng gì cả…!

Sư phụ, đồng ý cho mọi người trở về chỗ cũ, để tự sư phụ lo liệu và định đoạt…!

Cả chiều hôm ấy mọi người xôn xao khiến cho thiền viện sóng gió nổi lên không còn yên tịnh nhưng những ngày trước nữa…! Cuộc đời là thế đó….(cây muốn lặng nhưng gió chẳng ngừng). Một hạt bụi đường dù nhỏ nhưng khi vướng vào con mắt của ta rồi thì bạn sẽ thấy ra sao? Việc gì cũng thế…Thế gian không yên lành như ta tưởng đâu…!

Tuy nói thế, nhưng khi gặp chuyện bất bình có mấy ai bình tĩnh để nhớ đến những lời giáo huấn trong kinh như thế.

Trở lại câu chuyện trên….Cả đêm hôm đó sư phụ không sao chớp mắt được, lúc thì đến thiền đường ngồi tĩnh lặng, sau nữa đi đến những gian phòng của thiền sinh, cứ đi nhưng thế mà chẳng phát hiện ra manh mối nào cả, tưởng chừng như là tảng đá rơi vào vực thẳm…! Chẳng khác nào chim trời cá biển…!

Cuối cùng, sư phụ ngài đành vào phòng ăn thật lâu ngồi tỉnh tâm lắng lòng, kiên nhẫn nghe từng âm thanh nho nhỏ từ tiếng dế mèn phiêu lưu cho đến ểnh ương, ếch nhái, côn trùng v.v…Cho vào tâm trí mà sàng lọc thật kỹ càng. Đến nữa đêm ngài quá mệt mỏi bổng nhiên nghe tiếng “tích tắc…tích tắc” đều đều điểm nhẹ trong không gian yên tịch từ đâu đó vang vọng lại. Lúc bấy giờ Ngài chợt tỉnh cũng như vừa “ngộ” được đều gì đó…! Ngài bổng nhiên nói lớn: “nó đây rồi…nó đây rồi..!” Lúc đó gương mặt Ngài hớn hở như vừa nhặt được của báu…!Từ từ tiến lại gần chỗ phát ra âm thanh, vỡ lẽ ra “nó” là (chiếc đồng hồ) bé nhỏ, vẫn nằm yên tại chỗ trong dãy nhà “trù” tức là nhà bếp, mà thường ngày thiền sinh vào đó ăn uống.

Sáng hôm đó, Ngài tuyên bố chiếc đồng hồ của thiền sinh “A” đã tìm lại được rồi. Mọi người ai nấy cũng phấn khởi, chẳng khác nào trút được gánh nặng phiền não trên vai. Tung tăng nhảy nhót reo hò phiền não đã qua rồi các bạn ơi! Thật đúng là tuổi trè hồn nhiên có khác. Bọn thiền sinh hô lên rằng: “Sư phụ, quá tài tình tìm ra vật bị mất…rồi…ha…ha…!”

Cám ơn, sư phụ nhiều lắm.

Tức thời, tâm thiền sinh sơ cơ ai nấy cũng quyết không tha vào đưa ra nhiều cách trừng phạt thiền sinh “A” . Nhưng riêng, sư phụ lại có ý nghĩ khác bèn nói rằng:

-“Các con, ai ai cũng có lúc vấp phải những lỗi lầm cả, không vì chuyện nhỏ mà mất đi tình bạn hữu – bạn đạo thân tình xưa nay. Thôi thì ai có lỗi tự đi “sám hối…” vậy các con có đồng ý không?

-Vâng, dạ, chúng con “y giáo phụng hành”

Từ lý do đó, sư phụ nói rằng:

-“Chánh niệm là rất quan trọng cho chúng con trên bước đường tu tập, hành thiền trong cuộc sống hằng ngày. Một khi mất chánh niệm tâm con sẽ bị loạn xạ, phiền não cũng từ đấy dấy lên…! Làm việc gì ta nên ý thức từ lời nói cho đến việc làm, không nên tự ý phán đoán sai sự thật, rồi vu khống cho người khác. Những việc chưa được kiểm chứng hẳn hoi. “Mất tiền còn kiếm lại được, lời nói ‘lỡ lời” khi đã tuôn ra sẽ không bao giờ thu hồi lại được. Chẳng khác nào mũi tên khi đã ra khỏi cung, chúng ta không thể níu kéo lại được…! Dễ làm tổn thương đến người khác. Bởi những lời “ác khẩu” không kềm chế lại được, mỗi khi ai đó tức giận và sân si vô cớ…!

Cho nên trong luật Sa Di có dạy: “Luận người ở đời, búa để trong miệng bởi lời nói dữ…!”

Chúng ta phải cẩn thận trong từng lời nói, để tránh hậu quả ân hận về sau bởi những lời nói “ác ngôn” không được kiểm chứng thấu đáo.

Tiếp theo, còn phải biết giữ chánh niệm mới đúng là những thiền sinh chân chánh trong thiền viện này…!

Mất chánh niệm hay bất chánh niệm cũng giống nhau. Mong các bạn trẻ hãy tập giữ “Chánh Niệm” trong từng giây – từng phút, áp dụng trong cuộc sống hằng ngày, rất có lợi cho bản thân. Nếu duy trì được như thế cuộc sống sẽ mãi mãi an lạc và bình yên cho dù sống bất cứ nơi đâu!!!

    
CA, Valley Center
Chùa Núi Mùa Phật Đản – 2021
Nhuận Hùng
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 153)
Hai câu hỏi hiện lên trong đầu tôi khi nghĩ về giáo lý vô thường liên quan đến cuộc đời tôi.
(Xem: 229)
Lôgic học là một ngành học có mục đích xác định các quy tắc vận hành của tư duy để tìm kiếm sự thực.
(Xem: 256)
Trong quá trình hình thành và phát triển xã hội, con người luôn khát khao tìm cầu hạnh phúc, thỏa mãn nhu cầu về vật chất và tinh thần.
(Xem: 289)
Tuệ là trí tuệ tức cái biết, thức là nhận thức cũng là cái biết. Cả hai đều là cái biết nhưng có đặc điểm khác nhau.
(Xem: 358)
Khái niệm Niết-bàn vốn thành hình cách đây hơn 2500 năm. Các học giả và các triết gia khác nhau
(Xem: 564)
Ở trên là hai câu đầu trong bài kệ Lục Tổ Huệ Năng khai thị nhân bài kệ của thiền sư Ngọa Luân. Câu chuyện được thuật lại trong Pháp Bảo Đàn Kinh, phẩm Cơ Duyên thứ 7.
(Xem: 630)
Chữ “Tăng đoàn” là một thuật ngữ tiếng Phạn, có nghĩa là “cộng đồng” và được sử dụng chủ yếu để chỉ những tín đồ đã xuất gia của Đức Phật,
(Xem: 570)
Tóm tắt: Phật giáo là tôn giáo được biết đến như một hệ thống triết học mang đậm chất tư duy, trí tuệ cùng giá trị đạo đức cao.
(Xem: 634)
Mỗi người hiểu về nghiệp theo mỗi kiểu khác nhau tùy vào nhận thức và trải nghiệm bản thân, nhưng phần lớn vẫn chịu ảnh hưởng của cách hiểu trong dân gian về khái niệm của từ này.
(Xem: 563)
Từ ngàn xưa cho đến thời điểm xã hội phát triển mạnh mẽ về mọi mặt như hiện nay, mặc dù nền văn minh có bước tiến bộ vượt bậc
(Xem: 500)
iáo lý Duyên khởi được xem như chiếc chìa khóa mở ra kho tàng pháp bảo Phật giáo, vì có thể giải quyết những vấn đề của khổ đau, cả sự sanh ra hay chết đi của con người.
(Xem: 563)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh tập thứ 14. Kinh văn số 550 gồm 12 quyển. Chữ Hán từ trang 865 đến trang 894, gồm tất cả 29 trang.
(Xem: 638)
Những nhu cầu của con người sinh học thì giản dị, khi đói chỉ mong được ăn, khi khát mong được uống, khi mệt mong được nằm,
(Xem: 653)
Khi thân thể tiều tụy chỉ còn da bọc xương, những khổ thọ chết người đều đã trải qua,
(Xem: 745)
Trong quá trình thuyết giáo của đức Phật, những lời dạy của Ngài không được lưu giữ dưới dạng văn bản chữ viết
(Xem: 565)
Nhân ngày húy nhật của Hòa thượng Thích Trí Thủ, một trong những vị tông sư hoằng truyền luật học Phật giáo thời cận đại,
(Xem: 465)
Hành giả tu hành muốn mau đạt đến kết quả như mình mong muốn thì, điều kiện tiên quyết trước hết là chúng ta cần phải chọn lựa pháp môn nào cho thích hợp với căn cơ của mình
(Xem: 548)
Trọng tâm của triết học Phật giáohọc thuyết nổi tiếng về tính không - rằng tất cả chúng sinhhiện tượng đều trống rỗng về bản chất hay bản chất cố hữu.
(Xem: 622)
Vô phân biệt được nói đến nhiều lần trong Kinh Đại Bát Nhã Ba La Mật.
(Xem: 552)
Theo lý Duyên Khởi của đạo Phật, tất cả vạn hữu vũ trụ được hình thành do yếu tố hòa hiệp của nhơn duyên và sẽ đi đến phân ly do duyên tan rã.
(Xem: 560)
Cuộc chiến đấu mới–Sau khi Đức Phật nhập diệt, hình bóng của ngài vẫn hiện ra trong hàng thế kỷ trong một hang động–một hình bóng rất lớn
(Xem: 663)
Như Nietzsche khuyên răn chúng ta hãy lại bắt đầu học làm mới bằng cách để ý đến những việc ‘tầm thường’ và sự vận hành của ‘thân’ để xác định
(Xem: 679)
Tôi nghĩ là làm một việc có lý khi bác bỏ tuyên bố của Nietzsche rằng đạo Phật là một dạng của ‘thuyết hư vô thụ động,’ rằng đạo Phật truyền dạy
(Xem: 658)
Đặt vấn đề có phải đạo Phật là một dạng của ‘Chủ thuyết hư vô thụ động’ có nghĩa là đặt vấn đề liệu summum bonum[1] của đạo Phật,
(Xem: 726)
Dù có nhiều tác phẩm đa dạng về Phật học thích dụng ở Châu Âu thời kỳ trước Nietzsche,
(Xem: 766)
Nhân ngày húy nhật của Hòa thượng Thích Trí Thủ, một trong những vị tông sư hoằng truyền luật học Phật giáo thời cận đại,
(Xem: 737)
Hành giả tu hành muốn mau đạt đến kết quả như mình mong muốn thì, điều kiện tiên quyết trước hết là chúng ta cần phải chọn lựa pháp môn nào
(Xem: 928)
Cửa vào bất nhị, còn gọi là pháp môn bất nhị, từ xa xưa đã được truyền dạy từ thời Đức Phật, chứ không phải là hậu tác của chư tổ Bắc Tông,
(Xem: 786)
Tinh thần hòa hiệp là ý nghĩa sống lành mạnh an vui, tinh thần của một khối người biết tôn trọng ý niệm tự tồn, và xây dựng vươn cao trong ý chí hướng thượng.
(Xem: 1318)
Xuất xứ của Bát Chánh Đạo có hai nguồn là nguồn từ Phật chứng ngộ mà thuyết ra và nguồn được kết tập lại từ các kinh điển
(Xem: 871)
Tam tam-muội là chỉ cho ba loại định, tức là ba loại pháp môn quán hành của Phật giáo, được xem như là nguyên lý thực tiễn của Thiền định.
(Xem: 1032)
Tôi kính lễ bái bậc Chánh giác, bậc tối thắng trong hết thảy các nhà thuyết pháp, đã thuyết giảng Duyên khởibất diệtbất sinh,
(Xem: 798)
Thay vì tìm hiểu nguồn gốc tại sao phải chịu luân hồi sinh tử, con người không ngừng tìm kiếm căn nguyên của vũ trụ vạn vật, nơi mình sinh ra;
(Xem: 1018)
Khi Thái tử Tất-đạt-đa nhận thấy tất cả mọi người dân đang chìm trong đau khổ, và ngay chính bản thân mình rồi cũng phải chịu qui luật già, bệnh, chết
(Xem: 961)
Danh từ nghiệp hay karma (skt.) được đề cập thường xuyên trong các luận giải về tư tưởng triết họctôn giáo Ấn-độ.
(Xem: 930)
Tứ quả là bốn quả vị sai biệt của các bậc Thánh Thinh Văn thừa, tùy thuộc vào trình độ căn cơ của hành giả đã đạt được sau khi tu tập
(Xem: 1073)
Sau khi hoàng hậu Ma-da (Mayā) quá vãng, vua Tịnh Phạn (Suddhodana) tục huyền với Mahāpajāpatī Gotami và bà đã xuất gia
(Xem: 1325)
Kinh Pháp Hoa dạy rằng: “Đức Phật ra đời vì một đại nhân duyên. Đó là khai thị cho chúng sanh liễu ngộ Phật tri kiến nơi mình”.
(Xem: 1680)
Một trong những hình thức ta nuôi dưỡng phiền giận về chính mình là mặc cảm tội lỗi.
(Xem: 925)
Các câu hỏi, không khác với câu khẳng định, dựa trên các giả định.
(Xem: 1099)
Đối với những người nhìn vào Phật giáo qua phương tiện tiếng Anh, việc thực hành lòng từ bi và sự xả ly có thể không tương thích với nhau,
(Xem: 920)
Từ khi đức Phật xác lập: “Mọi vật đều vô thường, mọi vật đều vô ngã”, thường được diễn tả với danh từ Sarvam Sùnyam (mọi vật đều Không).
(Xem: 786)
Trong lịch sử Thiền Tông Việt Nam, Thiền sư Trần Thái Tông (1218-1277) được kể như một nhân vật vô cùng đặc biệt, với nội tâm giác ngộ cao siêu,
(Xem: 908)
Trước đây qua giáo lý của Đức Phật chúng ta hiểu rằng Đạo Phật là đạo xây dựng trên nền tảng trí tuệ, tức dùng sự giác ngộ, hiểu biết
(Xem: 947)
Thiền sư Trần Thái Tông (1218 -1277) một vị thiền sư siêu việt, ông vua anh minh, nhà tư tưởng lớn, một nhân cách cao cả.
(Xem: 1358)
Nhận thức rằng tất cả đều là giả tạm và cuộc đời là một nỗi khổ đau lớn, nên đức Phật mới đi tìm chân lýgiác ngộ chân lý.
(Xem: 1106)
Khi đức Phật còn tại thế, Ngài đã quy chế cho cộng đồng Tăng phải an cư ba tháng mùa mưa, ngày nay lịch an cư tùy hệ phái, từ rằm tháng tư đến rằm tháng bảy theo truyền thống Phật giáo Bắc phương;
(Xem: 1141)
Trung đạo là khái niệm được dùng khá nhiều trong Phật giáo. Tùy duyênTrung đạo được định nghĩa khác nhau,
(Xem: 896)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh tập thứ 14. Kinh văn số 550 gồm 12 quyển. Chữ Hán từ trang 865 đến trang 894, gồm tất cả 29 trang.
(Xem: 1033)
Trong năm bộ Nikaya của hệ Pali, Đức Phật thường nói đến sự “không có lõi cứng” của các hiện tượng, từ thân tâm, cho đến thế giớichúng sanh.
(Xem: 1469)
Con người sống trong một thế giới mà đối với anh ta dường như là một cái gì đó hoàn toàn tách biệt với chính anh ta.
(Xem: 1358)
Nhân quả là một định luật tất yếu trong sự hình thành nhân sinh quan và vũ trụ quan qua liên hệ duyên khởi của cuộc sống con người, mà qua đó nhân quả được coi như là một luật tắc không thể thiếu được khi hình thành một xã hội nhân bản đạo đức.
(Xem: 1348)
Bất hạnh lớn nhất của Phật tử chúng ta là sinh ra vào một thời không có Phật. Một mất mát lớn, gần như không gì có thể thay thế. Hơn thế nữa, bất hạnh này đang trở thành một nỗi ám ảnhchúng ta không thể nào dứt bỏ trong cuộc hành trình dài, đơn độc qua bao vòng xoáy của kiếp người chúng ta không biết mình đang ở đâu và sẽ đi về đâu trong chuyến di này.
(Xem: 969)
Nhân ngày húy nhật của Hòa thượng Thích Trí Thủ, một trong những vị tông sư hoằng truyền luật học Phật giáo thời cận đại, tôi trích đoạn trong tác phẩm lịch sử của tôi đang viết chưa hoàn thiện, có nhắc đến công trạng của ngài, như dâng lên tấm lòng tưởng niệm đến bậc Long tượng Phật giáo.
(Xem: 1349)
Trúc Đạo Sinh, người họ Ngụy 魏, sinh ra[1] khi gia đình cư ngụBành Thành 彭城, nay là Từ Châu 徐州 phía Bắc tỉnh Giang Tô 江蘇. Nguyên quán gia đình trước ở miền Tây Nam, tỉnh Hà Bắc, sau chuyển về huyện Cự Lộc 钜鹿.
(Xem: 1255)
Nói về vấn đề “trước nhất”, Kinh Phạm Võng với nội dung cốt yếu giới thiệu về quan điểm của các phái ngoại đạo, chính là bộ kinh đầu tiên trong Trường Bộ.
(Xem: 1175)
Lý tưởng về một vị Bồ tát bắt nguồn từ Phật giáo Nguyên thủy và được phát triển hoàn thiện trong tinh thần Phật giáo Đại thừa.
(Xem: 1215)
Khi học sinh từng người, từng người tốt nghiệp rời khỏi Phật học viện rồi, tôi bắt đầu xây dựng Biệt phân viện[1]khắp nơi, để ...
(Xem: 1580)
Xuất xứ của Bát Chánh Đạo có hai nguồn là nguồn từ Phật chứng ngộ mà thuyết ra và nguồn được kết tập lại từ các kinh điển. Phật thuyết từ chứng ngộ
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant