Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

Những Điều Đức Phật Không Dạy Trong Kinh Sách

07 Tháng Bảy 202215:41(Xem: 1969)
Những Điều Đức Phật Không Dạy Trong Kinh Sách
Những Điều Đức Phật Không Dạy Trong Kinh Sách

HT. Thích Thiện Huệ

Những Điều Đức Phật Không Dạy Trong Kinh Sách

Không có kinh sách nào, Đức Phật dạy: Phải cầu nguyện, hay nương tựa vào một ai đó, ngay cả việc nương nhờ vào chính Ngài. Mà Ngài dạy: hãy tự làm hòn đảo cho chính mình, tự cứu lấy mình, tự mình thực hành và lấy Giáo Pháp làm thầy.

Đạo Phật đến để tự mình thấy, chớ không phải ai nói gì cũng tin.

Không có kinh sách nào, Đức Phật dạy:

Phật tử vào chùa phải khép nép, làm gì cũng sợ mắc lỗi, răm rắp nghe theo vị Sư nào nói, hay phục tùng một cách mê muội, thiếu trí tuệ. Mà Ngài dạy: người Phật tử ngoài có niềm tin, còn phải trau dồi trí tuệ.

Ngài dạy:

1. Chớ vội tin vào truyền thuyết.
2. Chớ vội tin nếu là truyền thống.
3. Chớ vội tin nếu được nhiều người nhắc đến hay tuyên truyền.
4. Chớ vội tin nếu được ghi lại trong sách vỡ hay kinh điển.
5. Chớ vội tin nếu là lý luận siêu hình.
6. Chớ vội tin nếu phù hợp với lập trường của mình.
7. Chớ vội tin nếu phù hợp với định kiến của mình.
8. Chớ vội tin nếu điều đó căn cứ dữ liệu hời hợt.
9. Chớ vội tin nếu điều đó được sức mạnh và quyền uy ủng hộ.

10. Chớ vội tin nếu điều đó được các nhà truyền giáođạo Sư tuyên thuyết.Nếu điều nào các bậc thiện chí dạy: việc nào bất thiện, việc nào đáng chê trách, bị người trí chỉ trích đưa đến bất hạnh, khổ đau thì hãy từ bỏ chúng (và ngược lại).

Không có kinh sách nào, Đức Phật dạy: Ngài có thể tha tội lỗi, ban ân huệ cho bất kỳ ai tin Ngài, hay trừng phạt những ai không tin Ngài. Mà Ngài dạy người làm thiện thì hưởng quả tốt đẹp, người làm ác thì chịu quả khổ đau. Vì đó chính là hành động của chúng tachúng ta phải chịu trách nhiệm với chính mình, chứ không thể cứ thoải mái làm việc xấu ác rồi cầu xin được tha thứ. Vì đó là quy luật tự nhiên, không chỉ dành riêng cho những ai tin Ngài, mà dành cả cho những ai không theo Ngài nữa.

Không có kinh sách nào, Đức Phật dạy: Người Phật tử không được học Pháp, chia sẻ Pháp. Mà trái lại Ngài còn khuyến khích mọi người trau dồi trí tuệ bằng pháp học lẫn pháp hành để đẩy lùi mê tín dị đoantà kiếntham lamsân hậnngã mạnvô minh. Không có kinh sách nào, Đức Phật dạy cầu an, cầu siêu cả. Mà Ngài chỉ dạy làm phước thiện, rồi chia phước cho những người đang sống (nhằm giúp họ biết tùy hỷ phước, giúp họ hiểu làm việc thiện là điều đúng đắn) và hồi hướng phước cho người đã mất (nhằm giúp họ biết nguồn gốc, công ơn người quá cố).

Không có kinh sách nào, Đức Phật dạy: Phật tử vào chùa phải bố thícúng dườngcung kínhphục vụ Chư Tăng. Mà Ngài dạy tính ích kỷbỏn xẻn, bất kính, lười biếng là không tốt, cần diệt trừ. Dù bố thícúng dườngcung kínhphục vụ đó không nhất thiết chỉ dành cho Tăng, mà còn cho người khác. Vã lại xúc phạm người hiền trí, tức tấn công thành trì thiện phápđảo lộn trời đất. Không có kinh sách nào, Đức Phật dạy: Phụ nữ bị phân biệt, không có phước báu như đàn ông. Ví dụ không có kinh sách nào dạy khi đến tháng hành kinh, phụ nữ không được đi chùa, hay không được đứng trước tượng Phật. Mà Ngài dạy thân thể dù nam hay nữ, tất cả đều bất tịnh, được tạo bởi 32 uế trược như nhau. Ngài dạy Phụ nữ vẫn có thể được như nam giới, vẫn được học tập và thực hành trong giáo Pháp Đức Phật để có thể thực chứng bậc thánh nhân. Nhưng Ngài dạy có 5 điều khổ mà phụ nữ gánh chịu:

1. Khổ phải đến tháng hành kinh.
2. Khổ lúc trẻ về nhà chồng, không có người thân.
3. Khổ mang thai.
4. Khổ phải sanh con.
5. Khổ hầu hạ chồng.

Không có kinh sách nào, Đức Phật dạy: Người cư sĩ tại gia (tức là không phải người xuất gia) không được đụng chạm vào hay học tập, nghiên cứu kinh điển Phật giáo. Mà Ngài dạy giáo Pháp không chỉ dành cho người xuất giamà cả người tại gia. Mặc khác người tại gia phải giữ giới như:

1. Không sát sinh.
2. Không trộm cắp.
3. Không tà dâm.
4. Không nói láo.
5. Không uống rượu và các chất say.

Không có kinh sách nào, Đức Phật dạy cư sĩ tại gia không được làm giàu.

Mà Ngài dạy cư sĩ phải làm ăn chân chính nhằm nuôi sống bản thân và gia đình.

Ngài dạy có 5 loại nghề cư sĩ không nên làm:

1. Buôn bán vũ khí.
2. Buôn bán người và động vật.
3. Buôn bán thịt.
4. Buôn bán rượu.
5. Buôn bán thuốc độc.

Không có kinh sách nào, Đức Phật dạy: Người tu phải vào rừng sống ẩn cư, không được gần cư sĩ để dạy bảo. Mà Ngài dạy người tu phải giữ gìn giới luật, biết thu thúc lục căn ở bất kỳ nơi đâu.

Không có kinh sách nào, Đức Phật dạy: Phải hành khổ hạnh hay lợi dưỡng. Mà Ngài dạy trung đạo, cần thoát khỏi 2 cực đoan trên.

Không có kinh sách nào, Đức Phật dạy: Phải cúng tế, đốt vàng mã, coi ngày giờ, mở cửa mã, phong thủy, xem sao, xem hạn, bói toán, bói số, đoán mộng, tiên toán vận mệnh,...Mà Ngài dạy Phật tử không nên mê tín dị đoan, các vị tu hành không được sống tà mạng bằng hình thức trên.

Đặc biệt Ngài dạy: đâu là Khổ, đâu là nguồn gốc của Khổ, đâu là diệt Khổ và đâu là con đường đi đến diệt KhổĐức Phật dạy mọi thứ đều vô thường, thay đổi, cuộc sống là tạm bợ, không có gì chắc chắn, không nên tham luyếnchấp ngã.

"Tự mình, làm điều ác;
Tự mình làm nhiễm ô.
Tự mình không làm ác;
Tự mình làm thanh tịnh.
Tịnh, không tịnh tự mình;
Không ai thanh tịnh ai".
(Kinh pháp cú: 165).

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 153)
Hai câu hỏi hiện lên trong đầu tôi khi nghĩ về giáo lý vô thường liên quan đến cuộc đời tôi.
(Xem: 229)
Lôgic học là một ngành học có mục đích xác định các quy tắc vận hành của tư duy để tìm kiếm sự thực.
(Xem: 256)
Trong quá trình hình thành và phát triển xã hội, con người luôn khát khao tìm cầu hạnh phúc, thỏa mãn nhu cầu về vật chất và tinh thần.
(Xem: 288)
Tuệ là trí tuệ tức cái biết, thức là nhận thức cũng là cái biết. Cả hai đều là cái biết nhưng có đặc điểm khác nhau.
(Xem: 358)
Khái niệm Niết-bàn vốn thành hình cách đây hơn 2500 năm. Các học giả và các triết gia khác nhau
(Xem: 564)
Ở trên là hai câu đầu trong bài kệ Lục Tổ Huệ Năng khai thị nhân bài kệ của thiền sư Ngọa Luân. Câu chuyện được thuật lại trong Pháp Bảo Đàn Kinh, phẩm Cơ Duyên thứ 7.
(Xem: 630)
Chữ “Tăng đoàn” là một thuật ngữ tiếng Phạn, có nghĩa là “cộng đồng” và được sử dụng chủ yếu để chỉ những tín đồ đã xuất gia của Đức Phật,
(Xem: 570)
Tóm tắt: Phật giáo là tôn giáo được biết đến như một hệ thống triết học mang đậm chất tư duy, trí tuệ cùng giá trị đạo đức cao.
(Xem: 634)
Mỗi người hiểu về nghiệp theo mỗi kiểu khác nhau tùy vào nhận thức và trải nghiệm bản thân, nhưng phần lớn vẫn chịu ảnh hưởng của cách hiểu trong dân gian về khái niệm của từ này.
(Xem: 562)
Từ ngàn xưa cho đến thời điểm xã hội phát triển mạnh mẽ về mọi mặt như hiện nay, mặc dù nền văn minh có bước tiến bộ vượt bậc
(Xem: 500)
iáo lý Duyên khởi được xem như chiếc chìa khóa mở ra kho tàng pháp bảo Phật giáo, vì có thể giải quyết những vấn đề của khổ đau, cả sự sanh ra hay chết đi của con người.
(Xem: 563)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh tập thứ 14. Kinh văn số 550 gồm 12 quyển. Chữ Hán từ trang 865 đến trang 894, gồm tất cả 29 trang.
(Xem: 638)
Những nhu cầu của con người sinh học thì giản dị, khi đói chỉ mong được ăn, khi khát mong được uống, khi mệt mong được nằm,
(Xem: 653)
Khi thân thể tiều tụy chỉ còn da bọc xương, những khổ thọ chết người đều đã trải qua,
(Xem: 745)
Trong quá trình thuyết giáo của đức Phật, những lời dạy của Ngài không được lưu giữ dưới dạng văn bản chữ viết
(Xem: 564)
Nhân ngày húy nhật của Hòa thượng Thích Trí Thủ, một trong những vị tông sư hoằng truyền luật học Phật giáo thời cận đại,
(Xem: 465)
Hành giả tu hành muốn mau đạt đến kết quả như mình mong muốn thì, điều kiện tiên quyết trước hết là chúng ta cần phải chọn lựa pháp môn nào cho thích hợp với căn cơ của mình
(Xem: 548)
Trọng tâm của triết học Phật giáohọc thuyết nổi tiếng về tính không - rằng tất cả chúng sinhhiện tượng đều trống rỗng về bản chất hay bản chất cố hữu.
(Xem: 622)
Vô phân biệt được nói đến nhiều lần trong Kinh Đại Bát Nhã Ba La Mật.
(Xem: 551)
Theo lý Duyên Khởi của đạo Phật, tất cả vạn hữu vũ trụ được hình thành do yếu tố hòa hiệp của nhơn duyên và sẽ đi đến phân ly do duyên tan rã.
(Xem: 560)
Cuộc chiến đấu mới–Sau khi Đức Phật nhập diệt, hình bóng của ngài vẫn hiện ra trong hàng thế kỷ trong một hang động–một hình bóng rất lớn
(Xem: 663)
Như Nietzsche khuyên răn chúng ta hãy lại bắt đầu học làm mới bằng cách để ý đến những việc ‘tầm thường’ và sự vận hành của ‘thân’ để xác định
(Xem: 679)
Tôi nghĩ là làm một việc có lý khi bác bỏ tuyên bố của Nietzsche rằng đạo Phật là một dạng của ‘thuyết hư vô thụ động,’ rằng đạo Phật truyền dạy
(Xem: 658)
Đặt vấn đề có phải đạo Phật là một dạng của ‘Chủ thuyết hư vô thụ động’ có nghĩa là đặt vấn đề liệu summum bonum[1] của đạo Phật,
(Xem: 726)
Dù có nhiều tác phẩm đa dạng về Phật học thích dụng ở Châu Âu thời kỳ trước Nietzsche,
(Xem: 766)
Nhân ngày húy nhật của Hòa thượng Thích Trí Thủ, một trong những vị tông sư hoằng truyền luật học Phật giáo thời cận đại,
(Xem: 737)
Hành giả tu hành muốn mau đạt đến kết quả như mình mong muốn thì, điều kiện tiên quyết trước hết là chúng ta cần phải chọn lựa pháp môn nào
(Xem: 928)
Cửa vào bất nhị, còn gọi là pháp môn bất nhị, từ xa xưa đã được truyền dạy từ thời Đức Phật, chứ không phải là hậu tác của chư tổ Bắc Tông,
(Xem: 786)
Tinh thần hòa hiệp là ý nghĩa sống lành mạnh an vui, tinh thần của một khối người biết tôn trọng ý niệm tự tồn, và xây dựng vươn cao trong ý chí hướng thượng.
(Xem: 1317)
Xuất xứ của Bát Chánh Đạo có hai nguồn là nguồn từ Phật chứng ngộ mà thuyết ra và nguồn được kết tập lại từ các kinh điển
(Xem: 870)
Tam tam-muội là chỉ cho ba loại định, tức là ba loại pháp môn quán hành của Phật giáo, được xem như là nguyên lý thực tiễn của Thiền định.
(Xem: 1032)
Tôi kính lễ bái bậc Chánh giác, bậc tối thắng trong hết thảy các nhà thuyết pháp, đã thuyết giảng Duyên khởibất diệtbất sinh,
(Xem: 798)
Thay vì tìm hiểu nguồn gốc tại sao phải chịu luân hồi sinh tử, con người không ngừng tìm kiếm căn nguyên của vũ trụ vạn vật, nơi mình sinh ra;
(Xem: 1018)
Khi Thái tử Tất-đạt-đa nhận thấy tất cả mọi người dân đang chìm trong đau khổ, và ngay chính bản thân mình rồi cũng phải chịu qui luật già, bệnh, chết
(Xem: 961)
Danh từ nghiệp hay karma (skt.) được đề cập thường xuyên trong các luận giải về tư tưởng triết họctôn giáo Ấn-độ.
(Xem: 930)
Tứ quả là bốn quả vị sai biệt của các bậc Thánh Thinh Văn thừa, tùy thuộc vào trình độ căn cơ của hành giả đã đạt được sau khi tu tập
(Xem: 1073)
Sau khi hoàng hậu Ma-da (Mayā) quá vãng, vua Tịnh Phạn (Suddhodana) tục huyền với Mahāpajāpatī Gotami và bà đã xuất gia
(Xem: 1325)
Kinh Pháp Hoa dạy rằng: “Đức Phật ra đời vì một đại nhân duyên. Đó là khai thị cho chúng sanh liễu ngộ Phật tri kiến nơi mình”.
(Xem: 1680)
Một trong những hình thức ta nuôi dưỡng phiền giận về chính mình là mặc cảm tội lỗi.
(Xem: 925)
Các câu hỏi, không khác với câu khẳng định, dựa trên các giả định.
(Xem: 1099)
Đối với những người nhìn vào Phật giáo qua phương tiện tiếng Anh, việc thực hành lòng từ bi và sự xả ly có thể không tương thích với nhau,
(Xem: 920)
Từ khi đức Phật xác lập: “Mọi vật đều vô thường, mọi vật đều vô ngã”, thường được diễn tả với danh từ Sarvam Sùnyam (mọi vật đều Không).
(Xem: 786)
Trong lịch sử Thiền Tông Việt Nam, Thiền sư Trần Thái Tông (1218-1277) được kể như một nhân vật vô cùng đặc biệt, với nội tâm giác ngộ cao siêu,
(Xem: 908)
Trước đây qua giáo lý của Đức Phật chúng ta hiểu rằng Đạo Phật là đạo xây dựng trên nền tảng trí tuệ, tức dùng sự giác ngộ, hiểu biết
(Xem: 947)
Thiền sư Trần Thái Tông (1218 -1277) một vị thiền sư siêu việt, ông vua anh minh, nhà tư tưởng lớn, một nhân cách cao cả.
(Xem: 1358)
Nhận thức rằng tất cả đều là giả tạm và cuộc đời là một nỗi khổ đau lớn, nên đức Phật mới đi tìm chân lýgiác ngộ chân lý.
(Xem: 1106)
Khi đức Phật còn tại thế, Ngài đã quy chế cho cộng đồng Tăng phải an cư ba tháng mùa mưa, ngày nay lịch an cư tùy hệ phái, từ rằm tháng tư đến rằm tháng bảy theo truyền thống Phật giáo Bắc phương;
(Xem: 1141)
Trung đạo là khái niệm được dùng khá nhiều trong Phật giáo. Tùy duyênTrung đạo được định nghĩa khác nhau,
(Xem: 896)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh tập thứ 14. Kinh văn số 550 gồm 12 quyển. Chữ Hán từ trang 865 đến trang 894, gồm tất cả 29 trang.
(Xem: 1033)
Trong năm bộ Nikaya của hệ Pali, Đức Phật thường nói đến sự “không có lõi cứng” của các hiện tượng, từ thân tâm, cho đến thế giớichúng sanh.
(Xem: 1469)
Con người sống trong một thế giới mà đối với anh ta dường như là một cái gì đó hoàn toàn tách biệt với chính anh ta.
(Xem: 1358)
Nhân quả là một định luật tất yếu trong sự hình thành nhân sinh quan và vũ trụ quan qua liên hệ duyên khởi của cuộc sống con người, mà qua đó nhân quả được coi như là một luật tắc không thể thiếu được khi hình thành một xã hội nhân bản đạo đức.
(Xem: 1348)
Bất hạnh lớn nhất của Phật tử chúng ta là sinh ra vào một thời không có Phật. Một mất mát lớn, gần như không gì có thể thay thế. Hơn thế nữa, bất hạnh này đang trở thành một nỗi ám ảnhchúng ta không thể nào dứt bỏ trong cuộc hành trình dài, đơn độc qua bao vòng xoáy của kiếp người chúng ta không biết mình đang ở đâu và sẽ đi về đâu trong chuyến di này.
(Xem: 969)
Nhân ngày húy nhật của Hòa thượng Thích Trí Thủ, một trong những vị tông sư hoằng truyền luật học Phật giáo thời cận đại, tôi trích đoạn trong tác phẩm lịch sử của tôi đang viết chưa hoàn thiện, có nhắc đến công trạng của ngài, như dâng lên tấm lòng tưởng niệm đến bậc Long tượng Phật giáo.
(Xem: 1349)
Trúc Đạo Sinh, người họ Ngụy 魏, sinh ra[1] khi gia đình cư ngụBành Thành 彭城, nay là Từ Châu 徐州 phía Bắc tỉnh Giang Tô 江蘇. Nguyên quán gia đình trước ở miền Tây Nam, tỉnh Hà Bắc, sau chuyển về huyện Cự Lộc 钜鹿.
(Xem: 1255)
Nói về vấn đề “trước nhất”, Kinh Phạm Võng với nội dung cốt yếu giới thiệu về quan điểm của các phái ngoại đạo, chính là bộ kinh đầu tiên trong Trường Bộ.
(Xem: 1175)
Lý tưởng về một vị Bồ tát bắt nguồn từ Phật giáo Nguyên thủy và được phát triển hoàn thiện trong tinh thần Phật giáo Đại thừa.
(Xem: 1215)
Khi học sinh từng người, từng người tốt nghiệp rời khỏi Phật học viện rồi, tôi bắt đầu xây dựng Biệt phân viện[1]khắp nơi, để ...
(Xem: 1580)
Xuất xứ của Bát Chánh Đạo có hai nguồn là nguồn từ Phật chứng ngộ mà thuyết ra và nguồn được kết tập lại từ các kinh điển. Phật thuyết từ chứng ngộ
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant