Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

Vài Nét Về Khái Niệm Tự LựcTha Lực Trong Phật Giáo

Monday, September 26, 202208:51(View: 2499)
Vài Nét Về Khái Niệm Tự Lực Và Tha Lực Trong Phật Giáo
Vài Nét Về Khái Niệm Tự LựcTha Lực Trong Phật Giáo

Thích Thiện Đức


Phước Lạc Thay Sự Xuất Hiện Của Chư Phật

Tự lực và tha lực tuy là hai khái niệm khác nhau nhưng không đối nghịch nhau, và hai yếu tố này không thể thiếu trong tiến trình tu tập của một người con Phật.

Khái niệm tự lực và tha lực

Tự lực là chỉ cho sự nỗ lực của chính bản thân mình nhằm đạt được mục đích hay điều gì đó. Ví dụ trong học tập, nếu ta cố gắng chăm chỉ thì có thể đạt được thành tích tốt trong thi cử. Tha lực là chỉ cho sự tác động của yếu tố bên ngoài đến tự thân, và tùy theo mức độ của sự tác động mà bản thân ta chịu sự ảnh hưởng nặng hay nhẹ. Ví dụ nếu ở trong một môi trường giáo dục tốt thì tri thức, nhân cách đạo đức… của chúng ta dễ phát triển theo chiều hướng tích cực.

Trong Phật giáotự lực và tha lực thường được nhắc đến. Thoạt đầu ta cứ nghĩ đây là hai khái niệm hoàn toàn đối lập và không liên quan gì với nhau, nhưng sự thật chúng có mối quan hệ chặt chẽ với nhau.

Phật giáo Nguyên thủy đề cao vai trò tự lực

Trong Phật giáo Nguyên thủytinh thần tự lực được thể hiện qua câu “Hãy tự mình thắp đuốc lên mà đi”. Lời dạy này nhằm khuyến khích hàng đệ tử phải nỗ lực tu tập, tự chuyển hóa chính mình, nương theo Chánh pháp để đạt giải thoát“Vậy này Ᾱnanda, hãy tự mình là ngọn đèn cho chính mình, hãy tự mình nương tựa chính mình, chớ nương tựa một điều gì khác. Dùng Chánh pháp làm ngọn đèn, dùng Chánh pháp làm chỗ nương tựa, chớ nương tựa một điều gì khác”(1). Lời di huấn này của Đức Thế Tôn khẳng định tinh thần tự nỗ lực và tự giác ngộ. Hàng đệ tử Phật cần phải tự mình soi sáng cho chính mình bằng cách nương tựa Chánh pháp. Chỉ bằng việc dùng Chánh pháp để tu tập mới có thể đạt được tuệ giác, thấy được nguyên nhân của khổ đau, đó là do nghiệp: “Này các Tỷ-kheo, các chúng sinh là chủ của nghiệp, là những kẻ thừa tự của nghiệp, là sinh căn của nghiệp, là bà con của nghiệp, là chỗ nương tựa của nghiệp. Phàm làm nghiệp gì, thiện hay ác, họ là những kẻ thừa tự của nghiệp ấy”(2).

Tự lực và tha lực trong Phật giáo Đại thừa

Nếu Phật giáo Nguyên thủy đề cao tinh thần tự lực thì đến giai đoạn Phật giáo Đại thừa lại xuất hiện thêm yếu tố tha lực, tức phải nhờ sức mạnh bên ngoài trợ duyên mới có thể đạt được giải thoátTịnh Độ tông(3) là tông phái nhấn mạnh tinh thần tha lực, tức nương tựa vào hạnh nguyện độ sinh của Đức Phật A Di Đà để được vãng sinh về quốc độ của Ngài. Trong kinh A Di ĐàĐức Phật dạy:

“Xá Lợi Phất! Nếu có thiện nam tửthiện nữ nhân nào nghe nói đến Đức Phật A Di Đà, rồi chấp trì danh hiệu của Đức Phật đó, hoặc trong một ngày, hoặc hai ngày, hoặc ba ngày, hoặc bốn ngày, hoặc năm ngày, hoặc sáu ngày, hoặc bảy ngày, một lòng không tạp loạn. Thời người đó đến lúc lâm chungĐức Phật A Di Đà cùng hàng Thánh chúng hiện thân ở trước người đó. Người đó lúc chết tâm thần không điên đảo, liền được vãng sanh về cõi nước Cực lạc của Đức Phật A Di Đà”(4).

Theo Tịnh Độ tông, một người cho dù thiện hay ác, tốt hay xấu, nếu đặt niềm tin tuyệt đối và hết lòng trì niệm danh hiệu của Đức Phật A Di Đà thì có thể sinh về thế giới Cực lạc. Trong kinh Diệu pháp liên hoa, phẩm Phổ mônyếu tố tha lực cũng được nói đến:

“Phật bảo ngài Vô Tận Ý Bồ-tát. Thiện nam tử! Nếu có vô lượng trăm nghìn muôn ức chúng sinh chịu các sự khổ não, nghe Quán Thế Âm Bồ-tát này một lòng xưng danhQuán Thế Âm Bồ-tát tức thời xem xét tiếng tăm kia, đều được giải thoát”(5).

Tương tự như vậy, những bản kinh Đại thừa khác như kinh Dược Sư (Mười hai lời nguyện của Đức Phật Dược Sư Lưu Ly Quang Vương), kinh Địa Tạng (Nguyện lực cứu khổ địa ngục của Địa Tạng Vương Bồ-tát), kinh Phổ Hiền hạnh nguyện (Mười hạnh nguyện của Phổ Hiền Bồ-tát) v.v... cũng đề cập đến yếu tố tha lực.

Dung hòa yếu tố tự lực và tha lực

Về mặt tu tập giải thoátPhật giáo Nguyên thủy nhấn mạnh yếu tố tự lực, còn Phật giáo Đại thừa bổ sung thêm yếu tố tha lựcTuy nhiên nếu cho rằng Phật giáo Nguyên thủy chỉ dựa vào tự lực để đạt giải thoát còn Phật giáo Đại thừa dựa nhiều vào tha lực thì điều này có thể không chính xácChúng ta biết rằng, nếu không có bậc Đạo Sư chỉ dạy thì chúng ta không thể có được phương pháp tu tập đúng đắn. Và việc nương tựa vào những lời dạy của Đức Phật có thể được xem là một hình thức của nương tựa vào tha lực. Hẳn nhiên ở đây việc nương tựa vào lời dạy của Đức Phật chỉ là phương tiện, còn việc đạt được giải thoát hay không là do sự tu tập của mỗi người.

Cũng vậy, nếu xem việc đạt được giải thoát trong Tịnh Độ tông là hoàn toàn dựa vào tha lực thì cũng là sai lầm. Trong kinh A Di Đà có nói rằng, nếu chúng sinh nào có lòng lành, nghe đến danh hiệu và hết lòng thọ trì danh hiệu Ngài từ một ngày đến bảy ngày thì khi mạng chung sẽ được Đức Phật A Di Đà tiếp dẫn về thế giới Cực lạc. Ở đây ta thấy để vãng sinh về thế giới Cực lạc, một người phải cần đến cả yếu tố tự lực và tha lựcBản nguyện độ tất cả chúng sinh của Phật đó là tha lực, nhưng chúng sinh đó muốn được sinh về cõi Tịnh độ thì trước tiên phải có đầy đủ thiện căn(6) và hết lòng trì niệm danh hiệu Phật đến “nhất tâm bất loạn”.

Tinh thần này cũng được thể hiện nơi hạnh nguyện đại bi cứu khổ của Bồ-tát Quán Thế Âm. Nếu có vô lượng chúng sinh chịu trăm điều khổ não nghe được danh hiệu Quán Thế Âm và hết lòng trì niệm danh hiệu thì Ngài sẽ quán sát âm thanh đó, liền đến cứu khổ khiến cho họ được an lạcgiải thoátTha lực là đại nguyện của Bồ-tát còn tự lực là sự “nhất tâm xưng danh” của chúng sinh, tức tha lực chỉ phát sinh khi có yếu tố tự lực.

Trong Phật giáo Đại thừa, có một số tông phái chú trọng vào tự lực, chẳng hạn như Thiền tông. Về mặt này, Thiền tông và Phật giáo Nguyên thủy khá giống nhau, tức không ỷ lại vào yếu tố bên ngoài mà dựa vào nỗ lực tu tập của chính bản thân để được chứng ngộ.

Nếu Đức Phật là bậc Đạo Sư tự tìm thấy con đường giải thoát và tự giác ngộ cho mình: “Như Lai, Ứng cúngĐẳng Chánh giác chưa từng nghe pháp nhưng có thể tự mình giác ngộ Pháp, tự thông đạt Vô thượng Bồ-đề, rồi để giác ngộ cho hàng Thanh văn trong đời vị lai mà thuyết pháp”(7), thì còn lại tất cả chúng ta đều phải nhờ vào yếu tố tha lực trong bước đường tu tập, như phải nương vào Phật pháp, vào thầy tổ, bằng hữu v.v... Những điều đó còn được gọi là yếu tố trợ duyên. Sự tu tập cũng như đời sống hàng ngày của chúng ta đều không ra ngoài quy luật nhân duyên, đều có sự ảnh hưởng và chi phối lẫn nhau. Cho nên việc tự nỗ lực tu tập có khi chưa đủ mà còn phải cần đến những nhân duyên hỗ trợ mới có thể đạt được mục đích.

Như vậy, tự lực và tha lực tuy là hai khái niệm khác nhau nhưng không đối nghịch nhau, và hai yếu tố này không thể thiếu trong tiến trình tu tập của một người con Phật. Dù cho đặt nặng yếu tố nỗ lực tự thân thì trong bước đường tu tập ta không hẳn hoàn toàn không nương vào tha lực. Còn nếu chỉ dựa dẫm vào tha lực mà không chịu tu tập thì đó là mê tíntà kiến, không đúng với tinh thần Phật pháp.


Thích Thiện Đức

___________________________________________

(1) Kinh Tương ưng bộ, tập V, chương III, phẩm Ambapāli, Thích Minh Châu (dịch), NXB.Tôn Giáo, Hà Nội, tr.567.

(2) Kinh Tăng chi bộ, tập II, chương Mười, phẩm Thân do nghiệp sinh, Thích Minh Châu (dịch), NXB.Tôn Giáo, Hà Nội, tr.730.

(3) Tham khảo thêm Tinh hoa triết học Phật giáo (2019), Junjiro Takakusu, Tuệ Sỹ (dịch và chú), NXB.Hồng Đức, Hà Nội, tr.253-266.

(4) Thích Trí Tịnh (2012), kinh Nhựt tụng, kinh A Di Đà, NXB.Tôn Giáo, Hà Nội, tr.60.

(5) Thích Trí Tịnh (dịch) (2011), kinh Diệu pháp liên hoaNxb.Tôn Giáo, Hà Nội, tr.244.

(6) Tức không tham, không sân, không si.

(7) Tiểu tạng kinh (2019), Tạp A-hàm, cuốn I, kinh 66 Quán, Thích Đức Thắng (dịch), Tuệ Sỹ (hiệu chỉnh và chú thích), NXB.Hồng Đức, Hà Nội, tr.145.

TÀI LIỆU THAM KHẢO

Viện Nghiên cứu Phật học Việt Nam (2018), kinh Tương ưng bộ, tập II, Thích Minh Châu (dịch), NXB.Tôn Giáo, Hà Nội.

Viện Nghiên Cứu Phật Học Việt Nam (2018), kinh Tăng chi bộ, tập II, Thích Minh Châu (dịch), NXB.Tôn Giáo, Hà Nội.

Viện Nghiên Cứu Phật Học Việt Nam (2018), kinh Tiểu bộ, tập I, Thích Minh Châu (dịch), NXB.Tôn Giáo, Hà Nội.

Thích Minh Châu (dịch) (2016), Kinh Pháp cú, Phẩm Phật-đà, kệ 183, NXB.Phương Đông, Hồ Chí Minh.

Tiểu Tạng Kinh (2019), Tạp A-hàm, cuốn I, Thích Đức Thắng (dịch), Tuệ Sỹ (hiệu chỉnh và chú thích), NXB.Hồng Đức, Hà Nội.

Tiểu tạng kinh (2019), Trung A-hàm, cuốn I, phẩm 2, kinh Tư, Tuệ Sỹ (dịch và chú), NXB.Hồng Đức, Hà Nội.

Thích Trí Tịnh (dịch) (2012), kinh Nhật tụng, kinh A Di Đà, NXB.Tôn Giáo, Hà Nội.

Thích Trí Tịnh (dịch) (2011), kinh Diệu pháp liên hoa, NXB.Tôn Giáo, Hà Nội.

Kimura Taiken (2012), Đại thừa Phật giáo tư tưởng luận, Thích Quảng Độ (dịch), NXB.Tôn Giáo, Hà Nội.

Send comment
Off
Telex
VNI
Your Name
Your email address
(View: 91)
Pháp Lục hòa là pháp được đức Đạo sư nói ra để dạy cho các đệ tử xuất gia của Ngài lấy đó làm nền tảng căn bản cho nếp sống cộng đồng Tăng đoàn
(View: 130)
Đây là bốn phạm trù tâm thức rộng lớn cao thượng không lường được phát sinh từ trong thiền định khi hành giả tu tập trong tự lợi và, lợi tha
(View: 124)
Nhân quả là một định luật tất yếu trong sự hình thành nhân sinh quan và vũ trụ quan qua liên hệ duyên khởi của cuộc sống con người
(View: 212)
Sự thành tựu tối thượng mà những vị đang đi trên con đường độc nhất tiến tới giác ngộ, là khả năng thành tựu tất cả từ hư vô.
(View: 167)
Phật pháp như thuốc hay, nhưng tùy theo căn bịnh.
(View: 249)
Pháp Duyên khởi, tiếng Phạn là Pratīya-samutpāda. Pratīya, là sự hướng đến. Nghĩa là cái này hướng đến cái kia và cái kia hướng đến cái này.
(View: 214)
Phẩm này tiếng Phạn Sadāparibhūta. Sadā là thường, mọi lúc, mọi thời gian; Paribhūta là không khinh thường.
(View: 270)
Ngày xưa, ở thành Xá-vệ có một vị trưởng giả giàu có, tiền tài châu báu vô lượng. Ông thường thứ tự thỉnh các vị sa-môn đến nhà cúng dường.
(View: 548)
Đối với chúng con, bạch Thế Tôn, các pháp lấy Thế Tôn làm căn bản, lấy Thế Tôn làm lãnh đạo, lấy Thế Tôn làm chỗ nương tựa.
(View: 467)
Truyền thống Đại thừa Á Đông thường dịch nghĩa prajñāpāramitā là Huệ đáo bỉ ngạn (zh. 慧到彼岸), Trí độ(zh. 智度), Trí huệ độ người sang bờ bên kia.
(View: 431)
Tin nhân quả làm chúng ta an tâm. Sự hợp lý, trật tự, ý nghĩa của một cuộc đời là do nhận thức được và sống theo nhân quả.
(View: 443)
Không có một chỗ nào để trụ trong giáo pháp Trung đạo. Tâm không có chỗ trụ thì không tự giải quyết được gì vì không có nơi để tập trung, nắm níu.
(View: 392)
Bài giảng hôm nay nói về luật Nghiệp Báo. Nhiều người không sinh ra trong gia đình Phật Giáo, nhưng đã tìm học về Phật Giáo nhờ nghe luật Nghiệp Báo;
(View: 352)
Kamma, Nghiệp, theo đúng nghĩa của danh từ, là hành động, hay việc làm. Định nghĩa cùng tột của Nghiệp là Tác ý (cetana).
(View: 448)
Đối với quỷ sứ, cung trời là địa ngục còn địa ngụcthiên đàng. Đối với thiên thần, cung trời là thiên đàng còn địa ngụcđịa ngục.
(View: 661)
Duyên Khởi hay còn gọi là Định luật Nhân Quả là một nội dung quan trọng bậc nhất trong giáo phápĐức Phật thuyết giảng.
(View: 477)
Là người sống ở thế gian, có ai tránh khỏi một đôi lần gặp bất trắc, tai ương lớn hay nhỏ.
(View: 464)
Hễ nói đến Giáo pháp của đức Phật, chúng takhông thể không nói đến pháp Duyên khởi hay nguyên lý Duyên khởi (Pratìtyasamutpàsa).
(View: 623)
Trong giáo lý của Đức Phật về duyên khởi(Paticca-samuppāda), vòng luân hồi của sinh tử, gọi là samsara, được mô tả như một quá trình
(View: 717)
Bài giảng hôm nay nói về luật Nghiệp Báo. Nhiều người không sinh ra trong gia đình Phật Giáo, nhưng đã tìm học về Phật Giáo nhờ nghe luật Nghiệp Báo;
(View: 554)
Ở đời có người quan niệm rằng, mình sống làm người, sau khi chết mình cũng sẽ tái sinh làm người ở một cõi nào đó, thậm chí có người còn nghĩ mình về sống dưới suối vàng.
(View: 631)
Từ vô ngã bùng nổ thành ngã, và rồi từ ngã bùng nổ giác ngộ trở về lại vô ngã. Cái “big bang Phật Giáo” này xảy ra trong từng sátna.
(View: 807)
Trong nhận thức của quốc vương Koravya, cũng như nhận thức của nhiều người, một người từ bỏ cuộc sống...
(View: 793)
Trong bài này sẽ nói về năm pháp: danh, tướng, phân biệt, chánh trí, như như, từ Kinh Nhập Lăng Già (Đại chánh tân tu Đại tạng kinh,
(View: 834)
Hổm nay chúng ta đã tìm hiểu bài Đại kinh Rừng Sừng Bò, sáu vị thánh nhân trình bày hình ảnh lý tưởng của vị tỳ kheo trí tuệđức hạnh,
(View: 694)
Các học giả tranh luận liệu những lời dạy của Đức Phật được lưu giữ trong kinh điển Pāli có thể được coi là triết học hay không,
(View: 1023)
Ở đời không ai mong cầu giải thoát khi đang ở trong lầu son hạnh phúc. Người ta chỉ muốn được giải thoát khi bị nhốt trong hoàn cảnh bi đát nào đó.
(View: 841)
Chúng sinh tuy bình đẳng nhưng căn tính bất đồng. Bình đẳng trên chân lý không phải là mọi người ngang hàng bằng nhau.
(View: 802)
Đạo Phật là đạo giác ngộ, có nguồn gốc từ Ấn Độ, do Thái tử Tất Đạt Đa Cồ Đàm (Siddhārtha Gautama) hình thành và sáng lập.
(View: 781)
Hồi đó, khi Đức Phật cùng với Tăng đoàn du hóa tại nước Xá-vệ thì có rất nhiều người trẻ đã phát tâm đi tu. Tôn giả A-nan được giao trách nhiệm...
(View: 892)
Trí Tuệ Bát Nhã, thần thông quảng đại, nhận thức được thực tướng của vạn Pháp. Trí Tuệ (wisdom) bao gồm cả kiến thức bác học, kiến giác, chứng nghiệm, tâm lý, tâm linh...
(View: 799)
Tôi xin dùng lý luận khoa học cùng triết lý nhân văn để giải thích những điều tâm linh của Phật Giáo.
(View: 1231)
Hình ảnh Thầy Minh Tuệ xuất hiện trên các mạng xã hội y hệt như một trận bão truyền thông, làm dâng tràn những cảm xúcsuy tưởng.
(View: 835)
Hôm nay chúng ta bắt đầu nghiên cứu chương thứ hai, bàn về những sự thực hành kham khổ, tức là các phương pháp đầu đà.
(View: 858)
Như Lai được định nghĩa trực tiếp ba lần trong Kinh Kim Cương bát nhã ba la mật. Ba lần ấy được nói đến theo thứ tự như sau:
(View: 954)
Kinh Lăng-già tên gọi đầy đủ là Thể Nhập Chánh PhápLăng-già, cuối chương १० सगाथकम्। (10-sagāthakam), biên tập bởi Nanjō Bunyū 南條文雄 (laṅkāvatāra sūtra, kyoto, 1923)
(View: 1130)
Bước đầu tiên để bước vào con đường Phật giáoquy y Tam Bảo, và viên ngọc đầu tiên trong ba viên ngọc mà chúng ta tiếp cận để quy yĐức Phật, Đấng Giác Ngộ.
(View: 962)
Đạo Phật là đạo của bi trí dũng. Đạo của trí tuệ, của chánh biến tri, và chánh tri kiến chứ không phải không thấy mà tin tưởng mù quáng.
(View: 856)
Phân biệt phước đức và công đứccần thiết cho việc học và hành đạo Phật.
(View: 929)
Sơ quả hay Tu-đà-hoàn là quả vị Thánh đầu tiên mà người Phật tử có thể chứng đạt ngay hiện đời.
(View: 896)
Cuộc đời và công việc của Bồ tát được nói trong phần cuối đoạn Đồng tử Thiện Tài gặp đức Di Lặc.
(View: 994)
Trong khi các tín ngưỡng về nghiệp và tái sinhphổ biến vào thời của Đức Phật,
(View: 1142)
Đây là ba phạm trù nghĩa lý đặc trưng để bảo chứng nhận diện ra những lời dạy của đức Đạo sư một cách chính xác mà không
(View: 1228)
Đi vào Pháp giới Hoa nghiêmđi vào bằng bồ đề tâm thanh tịnh và được cụ thể hóa bằng nguyện và hạnh.
(View: 896)
Nhị đế là từ được qui kết từ các Thánh đế (āryasatayā) qua nhân quả Khổ-Tập gọi là Tục đế
(View: 999)
Quí vị không giữ giới luật có thể không làm hại người khác, nhưng thương tổn tự tánh cuả chính mình.
(View: 1098)
Lầu các của Đức Di Lặc tượng trưng cho toàn bộ pháp giới của Phật Tỳ Lô Giá Na; lầu các ấy có tên là Tỳ Lô Giá Na Đại Trang Nghiêm.
(View: 1362)
Trong kinh Duy Thức thuộc tạng kinh phát triển, để chỉ cho sự huân tập thành khối nghiệp lực (A Lại Da Thức và Mạc Na Thức,)
(View: 1061)
Tín ngưỡng Dược Sư với đại diệnthế giới Lưu ly nằm ở phương Đông mà nó tương tự với các cõi Tịnh độ khác, đều dùng việc
(View: 1153)
Hai câu hỏi hiện lên trong đầu tôi khi nghĩ về giáo lý vô thường liên quan đến cuộc đời tôi.
(View: 1368)
Lôgic học là một ngành học có mục đích xác định các quy tắc vận hành của tư duy để tìm kiếm sự thực.
(View: 1219)
Trong quá trình hình thành và phát triển xã hội, con người luôn khát khao tìm cầu hạnh phúc, thỏa mãn nhu cầu về vật chấttinh thần.
(View: 1198)
Tuệ là trí tuệ tức cái biết, thức là nhận thức cũng là cái biết. Cả hai đều là cái biết nhưng có đặc điểm khác nhau.
(View: 1377)
Khái niệm Niết-bàn vốn thành hình cách đây hơn 2500 năm. Các học giả và các triết gia khác nhau
(View: 1521)
Ở trên là hai câu đầu trong bài kệ Lục Tổ Huệ Năng khai thị nhân bài kệ của thiền sư Ngọa Luân. Câu chuyện được thuật lại trong Pháp Bảo Đàn Kinh, phẩm Cơ Duyên thứ 7.
(View: 1844)
Chữ “Tăng đoàn” là một thuật ngữ tiếng Phạn, có nghĩa là “cộng đồng” và được sử dụng chủ yếu để chỉ những tín đồ đã xuất gia của Đức Phật,
(View: 1660)
Tóm tắt: Phật giáotôn giáo được biết đến như một hệ thống triết học mang đậm chất tư duy, trí tuệ cùng giá trị đạo đức cao.
(View: 1563)
Mỗi người hiểu về nghiệp theo mỗi kiểu khác nhau tùy vào nhận thức và trải nghiệm bản thân, nhưng phần lớn vẫn chịu ảnh hưởng của cách hiểu trong dân gian về khái niệm của từ này.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM