Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

1. Do Nhận Thức Sai Lầm Khiến Cho Con Người Bỏ Mất Bản Tâm Thanh Tịnh Bản Giác Thường Trú Của Mình

01 Tháng Tư 201100:00(Xem: 10468)
1. Do Nhận Thức Sai Lầm Khiến Cho Con Người Bỏ Mất Bản Tâm Thanh Tịnh Bản Giác Thường Trú Của Mình

KINH THỦ LĂNG NGHIÊM GIẢNG GIẢI
SURAMGAMA SUTRA
Lê Sỹ Minh Tùng
Cuốn Một

Chương Thứ Năm - Do Nhận Thức Sai Lầm
Khiến Cho Con Người Bỏ Mất Bản Tâm Thanh Tịnh Bản Giác Thường Trú Của Mình

Ông A Nan Bạch Phật :


- Như Thế Tôn vì chúng con giảng giải về nhân duyên, tự nhiên và các tướng hòa hợp và chẳng hòa hợp. Tâm chúng con vẫn còn chưa tỏ ngộ, mà nay nghe Phật dạy : Tánh thấy trong khi thấy, tánh thấy đó không phải tánh thấy bản thể làm chúng con càng thêm mờ mịt. Cúi xin Phật thương xót bố thí tuệ nhãn, khai thị cho chúng con về bản tâm thanh tịnh, bản giác thường trú.


Khi ấy Thế Tôn thương xót A nan cùng đại chúng, muốn chỉ dạy pháp đại tổng trì, con đường trụ tam ma đề vi diệu, bèn bảo A Nan rằng :


- Ông tuy nhớ giỏi, chỉ có ích cho việc học rộng, nhưng đối với sự quán chiếu vi diệu của pháp Chỉ (Xa-ma-tha) tâm ông còn chưa rõ. Nay ông hãy lắng nghe cho kỹ, Như Lai sẽ sẽ vì ông chỉ bày rõ ràng. Cũng là giúp cho hàng hữu lậu trong đời sau chứng được quả vị Bồ-đề.


Tuy A Nan là người học rộng nghe nhiều, nhưng về phương diện duy mật thiền quán ông không chịu tu chứng nên vọng thức luôn phát khởi làm tâm bất tịnh. Để có thể nhận biết được tánh thấy huyền diệu thì ông A Nan phải quay về thực hành những phương pháp chánh định tức là pháp tu tam ma đề. Một khi có chánh định thì tâm sẽ được thanh tịnh và nhờ đó mà ông A Nan có thể quán chiếu thấy rõ thật tướng của vạn pháp. Đây là cứu cánh của người tu Phật vì nếu tâm mình không định có nghĩa là chúng sinh không có được tâm thanh tịnh thì tất cả vạn pháp trên thế gian này dưới nhãn thức của họ đều là chắc thật nên mới bị sa vào chấp ngã, chấp pháp. Thật vậy nếu ông A Nan chịu tu chứng đạt được chánh định thì thần chú phạm thiên Sa tì ca la của nàng Ma đăng già làm gì lay chuyển được thanh tâm của ông ta. Nói cách khác là một khi tâm chúng sinh đã định thì tâm họ đã kiến tạo cho mình một thành lũy vững chắc kiên cố bảo vệ những ô nhiễm từ bên ngoài không cho xen tạp làm xao động mà biến tâm thành bất tịnh. Ngược lại nếu tâm không định thì những ảo tưởng về tham dục luyến ái của thần chú sẽ làm tâm say mê mà chạy theo nó.


Đức Phật thương xót A Nan nên muốn chỉ dạy phương pháp tam ma đề mà chính Ngài đã tu chứng để thành Phật. Đây chính là ba thứ thiền quánchư Phật mười phương tu thành chánh giác :


1) Tu pháp Xa ma tha tức là tu Chỉ hay cũng được gọi là tu Định.


Nếu chúng sinh biết buông bỏ hết vọng tưởng để tâm được an định thì đây là tu theo “Chỉ”.


2) Tu pháp Tam ma bát đề tức là tu Quán tức là tu Trí Tuệ.


Nếu chúng sinh tu để thấy rõ thân, tâm và cảnh giới là giả, là huyễn hóa, là không chắc thật thì phương pháp nầy là tu theo “Quán”.


3) Tu pháp Thiền Na tức là Chỉ-Quán đồng tu nghĩa là Định-Tuệ song tu. Thiền Na có nghĩa là Tịnh lự. Tịnh là Chỉ tức là Định và Lự là Quán tức là Trí tuệ.


Ba thứ định này là ba giai đoạn trong quá trình tu học. Nói một cách khác Xa ma tha, Tam ma bát đề và Thiền na là những giả đặt danh xưng do mức độ tâm thanh tịnh sai khác. Thí dụ như tâm thanh tịnh của chúng sinh bị nhiễm ô mười phần mà hóa giải được ba phần thì gọi là Xa ma tha, trừ được sáu bảy phần gọi là Tam ma bát đề và nếu trừ được tám chín phần gọi là Thiền na. Đến khi chúng sinh trừ sạch cả mười phần gọi là Thủ Lăng Nghiêm. Nếu tâm có được một phần thanh tịnh, chúng sinh có được một phần công đức, cho đến khi rốt ráo viên mãn thì chính là “Thủ Lăng Nghiêm rốt ráo kiên cố” tức là đại định Thủ Lăng Nghiêm vậy.


Phật dạy tiếp :


A Nan! Tất cả chúng sinh luân hồi trong thế gian là do hai thứ vọng kiến điên đảo phân biệt, ngay đó phát sinh do đó mà nghiệp luân chuyển. Thế nào là hai thứ vọng kiến? Một là biệt nghiệp vọng kiến của chúng sanh, hai là đồng phần vọng kiến của chúng sinh.


Con người sống trong thế gian này cũng vì mê chấp vọng tâm mà sinh ra hai vọng kiến sai lầm khiến họ chạy theo sự tướng sinh diệt và không hòa nhập được vào thể tánh chân như nên từ đó mới tạo tác tội nghiệp mà phải chịu quả báo luân hồi. Thức tâm dẫn dắt con người chạy theo lục dục thất tình, càng ngày càng xa dần chân tánh làm tâm bất tịnh và cột chặt con người vào vòng sinh tử trầm luân. Đó cũng vì chúng sinh có hai nhận thức sai lầmĐức Phật gọi là biệt nghiệp vọng kiến tức là nghiệp riêng của mỗi chúng sinhđồng phần vọng kiến tức là nghiệp chung của tất cả mọi người.


Phật lại dạy rằng :


Thế nào là biệt nghiệp vọng kiến?


Này A Nan! Ví như người bệnh mắt hóa lòa, ban đêm trông ngọn đèn thấy có vầng tròn năm màu. Cái vầng tròn năm màu vốn không thật có đối với người không bị bệnh lòa. Nhưng nó không phải không có đối với người mắc bệnh. Vầng tròn ấy không phải màu sắc của cái thấy hay của đèn. Nó không tự sanh, cũng không phải do đèn hay do mắt đã sanh. Nguyên nhân của vầng tròn là do bệnh mắt hóa lòa. Cái vầng tròn và cái thấy vầng tròn đều là bệnh lòa. Nhận thấy được bệnh lòa thì tánh thấy đó không bệnh. Do đó, không nên nói cái vòng tròn năm màu là của đèn hay của cái thấy. Cũng không được nói : Rằng không phải của đèn hay không phải của cái thấy. Lại ví như vầng trăng thứ hai. Nó không phải trăng mà cũng không phải bóng. Vầng trăng đó vốn không có, nên không thể gán cho nó “phải” hay là “không phải” mặt trăng. Mặt trăng thứ hai có là do động tác của ngón tay nhấn mắt. Người trí không nên bảo : Đó là hình trăng hay không phải hình trăng. Đó là cái thấy hay ra ngoài cái thấy. Vầng tròn năm màu cũng vậy. Nó là do bệnh lòa mà có. Gọi nó là của đèn hay của cái thấy đều là sai. Nếu cố gắng nói rằng không phải của đèn hay không phải của cái thấy càng thêm hí luận.


Cái sai lầm đầu tiên là nghiệp riêng của mỗi chúng sinh. Để làm sáng tỏ, Đức Phật đã đưa ra thí dụ một người bị bệnh mắt lòa mà nhìn ngọn đèn ban đêm. Nếu một người bị bệnh mắt lòa, quáng gà lúc họ nhìn bóng đèn thì họ sẽ thấy chung quanh bóng đèn có một một cái vòng tròn ngũ sắc. Vì thế mà Đức Phật mới gạn gỏi ông A Nan rằng cái vòng ngũ sắc là do bóng đèn làm ra hay là do cái thấy làm ra?


1) Thứ nhất nếu trả lời rằng vòng tròn ngũ sắc là do bóng đèn làm ra thì tại sao cái vòng tròn ngũ sắc này chỉ có đối với người bị bệnh mắt lòa. Còn những người có thị nhãn bình thường thì không thấy. Như vậy lý luận vòng tròn ngũ sắc được tạo ra bởi bóng đèn là không đúng.


2) Giả thuyết thứ hai là nếu cái thấy tạo ra vòng tròn ngũ sắc chung quanh bóng đèn thì cái thấy bây giờ trở thành cái bị thấy tức là hình tướng, màu sắc. Như vậy thuyết này cũng không đúng.


3) Giả thuyết thứ ba là nếu cái vòng tròn ngũ sắc tự nó có chớ không phải do cái bóng đèn tạo ra nghĩa là khi nhìn vào bất cứ vật chất nào thì cái thấy sẽ phát sinh thêm cái vòng tròn ngũ sắc. Nhưng trên thực tế, khi nhìn cái nhà, chiếc xe thì chỉ thấy cái nhà và chiếc xe chớ đâu có thấy cái vòng ngũ sắc bao quanh cái nhà hay chiếc xe. Vì thế giả thuyết này cũng sai.


4) Giả thuyết cho rằng nếu cái vòng tròn ngũ sắc là chính mình nghĩa là mình là bóng tròn ngũ sắc thì làm sao mình thấy một cái vòng tròn ngũ sắc khác ngoài mình. Điều này cũng vô lý.


Bây giờ Đức Phật mới kết luận rằng ánh sáng là do từ bóng đèn tỏa ra còn cái vòng tròn ngũ sắc là do bệnh mắt lòa mà có chớ thật chất nó không có. Nhìn mặt trăng cũng thế. Nếu con người lấy tay dụi vào con mắt rồi nhìn lên trời thì sẽ thấy có tới hai mặt trăng và từ đó sinh ra lầm tưởng không biết mặt trăng nào thật, mặt trăng nào là giả. Đức Phật muốn dùng những hình ảnh, những thí dụ này để chúng sinh ứng dụng mà suy tư quán chiếu để tránh xa những ảo giác của cuộc đời. Vậy thâm ý của đức Phật trong đoạn kinh này như thế nào? Con người sống trong thế gian lúc nào cũng tin chắc vào cái thấy của mình, nhưng thật ra cái thấy không phải là cái thấy phát xuất từ thể tánh thanh tịnh mà cái thấy của vọng tưởng xen lẫn vào. Đối với đạo Phật, thế gian vũ trụ đều là giả huyển, như bóng trăng dưới nước như hoa đóm trên không, là không chắc thật, nay có mai không, sinh sinh diệt nên mới có câu : ”Vạn pháp giai không, Duyên sanh như huyễn”.

Thế mà con người tin chắc thân mình là thật, anh em cha mẹ vợ chồng con cái là thật, nhà cửa xe cộ là thật và thế gian vũ trụ cũng là chắc thật nên bới bám víu, giữ gìn, tạo tác, chấp thủ mà tác tạo ra nghiệp để phải chịu quả khổ đời đời. Đến khi xuôi tay nhắm mắt, thân mình phải bỏ lại, tiền tài công danh cũng chẳng thể mang theo. Anh em, cha mẹ, vợ chồng, con cái mỗi người đi mỗi ngả thì cái gì là chắc thật? Thí dụ có một ông nhà giàu sụ sống trong thời phong kiến nhưng bị bệnh sắp chết nên có đôi lời trăn trối lại với bốn người vợ. Người vợ thứ tư nghẹn ngào nói rằng : ”Tôi tuy thương ông nhưng khi ông chết tôi chắc phải đi tái giá”. Người vợ thứ ba ngậm ngùi thốt lên rằng : ”Tôi không tái giá nhưng không theo ông được”. Người vợ thứ nhì bây giờ mới nức nở nói rằng : ”Một ngày cũng là tình chồng nghĩa vợ nên khi ông chết tôi sẽ tiễn đưa ông đến nơi an nghĩ cuối cùng”.

Sau cùng bà vợ lớn khẳng định với chồng là : ”Tình nghĩa vợ chồng như keo son thắm thiết vì vậy khi chết ông đi đâu thì tôi theo với”. Người vợ thứ tư là nói đến tiền của, vàng bạc trên đời cho nên khi chết thì những thứ ấy sẽ vào tay người khác. Người vợ thứ ba là tượng trưng cho bất động sản, dinh thự đền đài cho nên khi chết thì của thế gian phải để lại hết cho thế gian. Người vợ thứ nhì ám chỉ cho tấm thân tứ đại của con người cho nên khi chết thì chỉ tới nơi an nghĩ tại nghĩa địa mà thôi. Còn bà vợ cả là tất cả những căn nghiệp của chúng sinh tạo tác vì thế nghiệp lực dẫn đi đâu thì thần thức phải đến đó để thọ quả báo vui hay khổ.


Vì thế nếu chúng sinh chưa thức tỉnh giác ngộ để nhận chân chân lý thì họ đều là những người bị bệnh mắt lòa cả. Ngày nào chúng sinh khi thấy mà còn thương còn ghét, còn giận còn hờn, còn đẹp còn xấu thì cái thấy này là cái thấy của người bị bệnh mắt lòa. Nói theo Duy Thức Luận thì đây là cái thấy của Tỷ LượngPhi lượng. Tỷ Lượng là cái so sánh để phát sinh ra sự phân biệt như màu xanh màu đỏ…và Phi lượng là một sự nhận biết không đúng với chân lý mà nghiêng về ngã kiến cá nhân. Thí dụ nhìn hai đóa hoa thì thích đóa hoa này hơn đóa hoa kia dựa theo ngã kiến cảm tình của mình. Ngược lại vô ký tánh mới là tánh thấy thật. Thật vậy, chúng sinh vì sống trong vô minh, vọng thức mê lầm nên chạy theo vọng tâm sinh diệt điên đảo mà quên mất đi chơn tâm thanh tịnh thường hằng bất biến lúc nào cũng sẵn có trong họ mà tác tạo nên biết bao tội nghiệp để phải chịu sinh tử trong lục đạo luân hồi. Đây chính là nghiệp riêng của mỗi chúng sinh vậy.


Phật dạy rằng :


Thế nào là đồng phần vọng kiến?


Này A Nan! Cõi Diêm-phù-đề này trừ nước biển bao la, trong đó đất bằng có 3000 châu. Châu lớn ở giữa, bao quát từ Đông sang Tây có đến 2300 nước. Ngoài ra các châu nhỏ nằm trong các biển, trong đó có châu gồm hai trăm, ba trăm nước, hoặc hai mươi, ba bốn mươi cho đến năm mươi nước. A Nan! lại nếu trong đó, một châu nhỏ chỉ có hai nước, mà riêng người trong một nước cùng chiêu cảm ác duyên thì tất cả chúng sinh trong nước đó đều nhìn thấy hết mọi cảnh không tốt. Hoặc thấy hai mặt trời, hai mặt trăng, cho đến thấy nhiều ác tướng như phướng, sao sa và chỉ có những người trong nước đó thấy, chúng sinh trong nước kế cận thì cũng không thấy và cũng không nghe.


A Nan! Nay Như Lai đem hai việc đó kết hợp so sánh làm thí dụ để chỉ cho ông.


Này A Nan! Cái nhận thức sai lầm biệt nghiệp của chúng sinh ví như người bệnh mắt, trông thấy ngọn đèn hiện ra vầng tròn năm màu, tưởng là cảnh thật trước mắt. Sự thật vầng tròn là do bệnh lòa của người đau mắt tạo thành. Lòa là bệnh của cái thấy, không phải sắc tướng tạo ra. Cái thấy, thấy được bệnh lòa thì cái thấy đó vốn không có bệnh. Cũng vậy, hiện nay ông dùng con mắt xem thấy núi sông cảnh giới và các chúng sinh đều do bệnh lòa vô thỉ tạo thành. Mắt nhặm thì cái thấy lao nhọc, không phải do màu sắc tạo ra.

Song người biết được mắt nhặm thì cái thấy của họ không bị lầm lỗi. Cái thấy và cảnh bị thấy, như thế có cảnh trước mắt, nguyên là tâm giác ngộ sáng suốt, do phân năng kiến sở kiến mà thành bệnh. Nhận rõ cái thấy sinh khởi từ bệnh nhặm. Chứ bản giác minh tâm rõ biết các duyên thì không bệnh. Vì có năng giác và sở giác mới thành bệnh. Nếu bổn giác không ở trong bệnh, đây mới thật là nhận ra tánh thấy. Sao còn gọi là thấy, nghe, hay, biết. Thế nên nay ông thấy Ta và ông, cùng mười loài chúng sinh trong thế gian đều do mắt nhặm, chớ không phải cái thấy mắt nhặm bị bệnh. Tánh thấy chân thật đó không bị nhặm, nên chẳng gọi là thấy.


Nhãn căn (con mắt) hòa hợp với tiền trần (lục trần) tạo ra cái thấy mà nhà Phật gọi là năng kiến và sở kiến. Năng kiến là cái thường thấy tức là con mắt, còn sở kiến là sự vật bên ngoài. Nhưng năng kiến và sở kiến đều phát xuất từ trong chơn tâm. Đó là bất biếntùy duyên. Ví dụ như khi nhìn những bọt biển trôi nổi trên mặt nước mà những bọt biển nầy chính là do nước biển sinh ra. Nếu không có nước biển thì làm gì có bọt biển. Chơn tâm cũng vậy, khi con người đang ở trạng thái tịnh thì tâm là chơn tâm. Nếu bây giờ tâm duyên theo trần thì tâm chuyển từ tịnh sang động.

Do đó chơn tâm biến mất và được thay thế bằng vọng tâm sinh diệt. Đức Phật dùng thí dụ người bị bệnh mắc lòa khi nhìn bóng đèn mà thấy cái vòng tròn ngũ sắc, nhưng lòa là bệnh của con mắt bị che mây tức là bệnh của cái thấy chớ không phải do sắc tướng tạo ra. Nói rộng ra thì những vật thể trong thế giới vũ trụ này tự nó thanh tịnh, không ô nhiễm, nhưng con người không nhìn nó bằng con mắt chân thật, khách quan mà nhìn nó bằng tầm mắt núp sau bởi tham sân si mạn nghi ác kiến từ bao nhiêu đời bao nhiêu kiếp kết tụ lại cũng như người bị mắt nhặm nhìn bóng đèn mà chỉ thấy vòng tròn ngũ sắc vậy.

Cho dù năng kiến (cái thấy của mắt) hay sở kiến (sự vật bị thấy bên ngoài) có làm cho cái thấy sai lầm không chính xác, nhưng tánh thấy thì lúc nào cũng thanh tịnh sáng suốt, không sai lầm. Đây mới là pháp nhãn thanh tịnh để giúp người tu quán triệt chơn tâm và sống được với chơn tánh của mình. Đối với Phật giáo, hồi quang phản chiếu tức là quay về bên trong để thấy con người thật của mình để cảm nhận được tánh thấy, tánh nghe, tánh biết thường hằng bất biến thì sẽ có tâm thanh tịnh mà được minh tâm kiến tánh. Minh tâm kiến tánh là thấy rõ tự tánh thanh tịnh bản nhiên của mình chớ không phải thấy những cảnh thị phi, khổ não hay huyển hóa của thế gian. Nếu chúng sinh liễu ngộ và biết sống trong tánh thấy, tánh hay, tánh biết này thì tất cả năng kiến, sở kiến của vọng tâm là thấy, nghe, hay, biết (kiến, văn, tri, giác) sẽ tan biến và sau cùng tất cả những vọng thức trong tâm cũng biến mất theo.


Phật hỏi A Nan :


A Nan! nếu so sánh đồng phần vọng kiến của chúng sinh với biệt nghiệp vọng kiến của một người.


Một người nhặm mắt cũng giống như người trong cả nước kia. Người thấy quầng sáng là do mắt nhặm mà có. Còn trong nước kia hiện ra những tướng không lành là do cộng nghiệp mà cùng thấy trong đó các điềm ác hiện ra. Cả hai đều do vọng kiến từ vô thủy phát sinh, giống như ba ngàn châu trong cõi Diêm phù đề, gồm bốn biển lớn và thế giới Ta bà, cho đến các nước và các chúng sinh hữu lậu trong mười phương, đều là tâm giác ngộ sáng suốt nhiệm mầu. Kiến văn giác tri là bệnh duyên hư vọng, khiến hư dối hòa hợp sanh, hư dối hòa hợp mất.


Nếu có thể xa lìa các duyên hòa hợp và không hòa hợp thì diệt trừ được các nhân sanh tử. Đó chính là tánh giác ngộ tròn đầy không sinh không diệt, chính là chân tâm bản giác thường trụ.


Sống trong thế gian, con người thường có quan niệm là những gì thuộc về mình là chắc thật thì nhà Phật gọi là chấp ngã và tất cả vạn pháp chung quanh ta cũng chắc thật thì đây là chấp pháp. Khi một chúng sinh thấy thân mình là chắc thật và vạn vật cũng chắc thật như thế thì cái kiến chấp này gọi là biệt nghiệp vọng kiến. Còn nếu cả đại chúng trong một xã hội đều có chung kiến chấp này thì gọi là đồng phần vọng kiến. Vọng kiến là cái thấy biết sai lầm không đúng với chân lý. Đối với thế gian vũ trụ thì tất cả đều có, đều hiển hiện trước mắt của chúng ta. Điều này đức Phật cũng không phủ nhận, nhưng thật ra cái có mà con người tin chắc thật ra dựa theo giáo lý nhà Phật thì chỉ là giả có mà thôi. Bởi vì cái có đó chỉ là do duyên sanh kết hợp nên chính nó không có tự tánh, không có chủ thể nên nó không bền không chắc, phải chịu sự thoái hóa của luật vô thường là thành, trụ, hoại, không.

Đối với chư Bồ-tát và chư Phật thì các Ngài thấy tất cả chỉ là duyên sanh như huyển nên không có cái gì bền chắc cả. Do đó, các Ngài không chấp thủ nên dễ dàng buông xả. Chấp ngã cũng không và chấp pháp cũng không nên tâm mới hằng tự tại Niết bàn. Tại sao? Bởi vì nếu không còn dính mắc tức là không còn chấp ngã chấp pháp thì tâm sẽ không sinh ra si mê. Không si mê thì không sinh ra tham ái, không tham ái nên không còn bị trói buộcthế cuộc sống mới được thanh thoát an nhàn. Còn phàm nhân vì chấp thân mình là thật, là bền chắc nên cưng chiều, bảo vệ tấm thân, tạo tác, tranh công đoạt chức và làm nô lệ cho thân mà tạo ra trăm điều phiền não nghiệp chướng để phải chịu quả khổ đời đời. Nhưng họ quên đi một điều là khi xuôi tay nhắm mắt, thân này phải bỏ lại, tiền tài công danh cũng chẳng thể mang theo. Ngay cả cha mẹ, vợ chồng, con cái, anh em cũng phải xa lìa. Như thế cái gì là chắc thật?


Còn đối với con mắt trí tuệ của người đệ tử Phật, thì tất cả cái có đó chỉ là vọng kiến nghĩa là cái có cũng như bóng trăng dưới nước và hoa đóm trong hư không. Cái thấy này cũng giống như cái thấy của người bệnh lòa mắt khi nhìn bóng bèn ban đêm mà thấy vầng tròn ngũ sắc. Do đó chỉ có người bệnh lòa mắt mới thấy hiện tượng sai lầm này thì nhà Phật gọi là biệt nghiệp vọng kiến. Trong những năm gần đây có những hiện tượng như sao chổi mọc lên ở Trung Hoa rồi làm cho tin rằng đây là dấu hiệu của những điềm xấu sắp xảy ra. Những người Trung Hoa cùng thấy và tin như thế thì gọi là đồng phần vọng kiến.

Nhiều đệ tử Phật sau khi đọc tụng câu : ”Sắc tức là Không và Không tức là Sắc” trong Bát Nhã Tâm Kinh thì nghi vấn rằng thân xác của mình là thật, rờ thấy biết, đánh thấy đau, không ăn thì đói thế thì tại sao tâm kinh nói nó là không. Nếu một người quan niệm sai lầm như thế thì gọi là biệt nghiệp vọng kiến. Còn nếu cả đạo tràngsuy nghĩ sai lầm như thế thì gọi là đồng phần vọng kiến. Nói tóm lại, biệt nghiệp chính là chánh báo của chúng sinh, là thân tâm ngũ uẩn của mỗi chúng sinh, là do nghiệp riêng của mỗi người tạo tác. Đồng phầnthế giới y báo của chúng sinh, là do nghiệp chung của nhiều người chiêu cảm. Nói tóm lại, biệt nghiệp chính là chánh báo của chúng sinh, là thân tâm ngũ uẩn của mỗi chúng sinh, là do nghiệp riêng của mỗi người tạo tác. Đồng phầnthế giới y báo của chúng sinh, là do nghiệp chung của nhiều người chiêu cảm.


Nói chung cho dù là nghiệp chung hay nghiệp riêng thì chung quy đều là do nhận thức sai lầm từ vô thỉ đến nay. Khi chúng sinh sống được với tánh thấy chân thật của mình tức là họ có được Pháp nhãn thanh tịnh thì những vật chất trên thế gian này không làm ngăn cách được tánh thấy đó cho nên họ có thể thấy được tam thiên đại thiên thế giới như thấy quả quít trên bàn tay như ngày xưa tôn giả A Na Luật đã thấy vậy. Thâm ý của đoạn kinh này là nếu chúng sinh biết hồi đầu thị ngạn để quay thuyền trở lại bến xưa mà sống với chơn tâm, với bản tâm thanh tịnh thường trú của mình để thấy biết thấu suốt cũng như người hết bệnh lòa, khi nhìn bóng đèn thì thấy ánh sáng chớ không còn thấy vòng tròn ngũ sắc hoặc là khi nhìn lên trời thì chỉ thấy một mặt trăng mà không còn sống trong ảo giác mê mờ, vô minh vọng chấp.
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 11645)
Bài kinh không những chỉ dành riêng cho người cao tuổi mà cho tất cả những ai muốn tu tập, nhằm mang lại cho mình một tâm thức an bìnhtrong sáng.
(Xem: 11971)
Bài kinh được xem là tinh hoa tâm linh của người xuất gia, như ngón tay chỉ mặt trăng và như chiếc bè đưa sang bờ giải thoát.
(Xem: 11122)
Quá khứ không truy tìm Tương lai không ước vọng. Quá khứ đã đoạn tận, Tương lai lại chưa đến...
(Xem: 11359)
Trong bài kinh nầy, Đức Phật giảng về đời sống tốt đẹp cần phải có của một cư sĩ Phật tử.
(Xem: 12076)
Kinh này được dịch từ Tương Ưng Bộ của tạng Pali (Samyutta Nikàya IV, 380). Kinh tương đương trong tạng Hán là kinh số 106 của bộ Tạp A Hàm.
(Xem: 12570)
Đây là một bài kinh rất phổ thông tại các quốc gia Phật giáo Nam truyền và thường được chư Tăng tụng và thuyết giảng trong các dịp lễ.
(Xem: 10775)
Trong bản kinh này Đức Phật thuyết giảng về bản chất vô thường và vô thực thể của năm thứ cấu hợp gọi là ngũ uẩn tạo ra một cá thể con người.
(Xem: 17995)
"Chiếc bè này lợi ích nhiều cho ta, nhờ chiếc bè này, ta tinh tấn dùng tay chân để vượt qua bờ bên kia một cách an toàn"
(Xem: 11738)
Tánh không không nhất thiết chỉ là một luận thuyết đơn thuần triết học mà còn mang tính cách vô cùng thực dụngthiết thực, ứng dụng trực tiếp vào sự tu tập nhằm mang lại sự giải thoát.
(Xem: 9960)
Của cải kếch xù của một người như thế nếu không biết sử dụng thích đáng thì cũng sẽ bị vua chúa tịch thu, bị trộm cắp vơ vét, bị thiêu hủy vì hỏa hoạn...
(Xem: 10181)
Bồ Tát Thiện Giới, hiểu theo nghĩa Việt là những giới tốt lành, hay kheo, chơn chánh của Bồ tát.
(Xem: 12360)
Kinh Kim Cang thuộc hệ Bát Nhã, một trong ngũ thời giáođức Phật đã thuyết, và là quyển thứ 577 trong bộ kinh Đại Bát Nhã gồm 600 quyển.
(Xem: 15355)
Kinh Di Giáo là một tác phẩm đúc kết những gì cần thiết nhất cho người xuất gia. Đây là những lời dạy sau cùng của Đức Phật, đầy tình thương và sự khích lệ.
(Xem: 11256)
Kinh Đại Bát Niết Bàn (Maha-parinirvana-sutra), cũng được gọi tắt là Kinh Đại Niết Bàn, hoặc ngắn hơn là Kinh Niết Bàn
(Xem: 14339)
Đức Phật A Di Đà do lòng Đại từ bi, Đại nguyện lực, như nam châm hút sắt, nhiếp thọ hết tất cả chúng sanh trong mười phương vào trong cõi nước Tịnh độ của Ngài,
(Xem: 12119)
Kinh Sa-môn quả đã được đức Phật dạy cách đây trên hai mươi lăm thế kỷ. Nội dung tất cả các phương pháp Phật trình bày trong kinh này đều xoáy sâu vào ba vô lậu học là giới – định – tuệ.
(Xem: 15380)
Sáu chữ BÁT NHÃ BA LA MẬT ĐA sẽ được giải ở câu đầu tiên của phần nội văn, bây giờ giải đề Kinh chỉ giải hai chữ TÂM KINH
(Xem: 12012)
Đề cương kinh Pháp Hoa là học phần cương yếu, Thượng nhân Minh Chánh nêu lên cốt lõi của kinh qua cái nhìn của thiền sư Việt Nam...
(Xem: 12424)
Tên của bộ Kinh này là Kinh Lục Tổ Pháp Bảo Đàn, tên riêng là "Lục Tổ Pháp Bảo Đàn." "Kinh" là tên chung của các bộ Kinh
(Xem: 11195)
Duy ma trọng nhất là bồ đề tâmthâm tâm. Bồ đề tâm thì vừa cầu mong vừa phát huy tuệ giác của Phật. Thâm tâmchân thành sâu xa trong việc gánh vác chúng sinh đau khổ và hội nhập bản thể siêu việt.
(Xem: 12097)
Bài Bát-nhã Tâm kinh do ngài Huyền Trang đời Đường dịch vào năm 649 dương lịch, tại chùa Từ Ân. Toàn bài kinh gồm 260 chữ.
(Xem: 10627)
Thế Tôn đã để lại cho chúng ta một phương pháp để thẩm định đâu là giáo lý Phật Giáo, đâu không phải là những lời dạy của đức Phật.
(Xem: 12567)
Quyển Pháp Hoa Đề Cương là một tác phẩm thật có giá trị của một Thiền sư Việt Nam gần thời đại chúng ta.
(Xem: 13180)
Hội Phật Học Nam Việt - Chùa Xá Lợi Saigon Xuất Bản 1964, Trung Tâm Văn Hóa Phật Giáo Việt Nam-Hoa Kỳ Chùa Huệ Quang Tái Xuất Bản
(Xem: 14849)
Phật pháp không phải là một, không phải là hai, từ lâu truyền lại, ngoài tâm có pháp tức ngoại đạo. Người học đạo Phật ai ai cũng biết như thế.
(Xem: 12699)
Kinh Đại Bát Niết Bànbài kinh nói về giai đoạn cuối đời của đức Phật Thích Ca, từ sáu tháng trước cho tới khi ngài viên tịch, tức là nhập Bát Niết Bàn.
(Xem: 16588)
Nghĩa lý kinh Kim cương là ngoài tầm nghĩ bàn, phước đức kinh Kim cương cũng siêu việt như vậy.
(Xem: 19679)
Phật dạy tất cả chúng sanh đều sẵn có Trí huệ Bát Nhã (Trí huệ Phật) từ vô thỉ đến nay. Trí huệ Bát Nhã rất là quý báu và cứng bén, như ngọc Kim cương hay chất thép.
(Xem: 13117)
Giới bản tân tu này tuy cũng có 348 giới điều như giới bản cổ truyền nhưng đáp ứng được một cách thỏa đáng cho nhu yếu thực tập của người xuất gia trong thời đại hiện tại.
(Xem: 12676)
Giới bản tân tu này tuy cũng có 250 giới điều như giới bản cổ truyền nhưng đáp ứng được một cách thỏa đáng cho nhu yếu thực tập của người xuất gia trong thời đại hiện tại.
(Xem: 12274)
Tạng Kinh là bản sưu tập gồm tất cả những bài Kinh đều do Đức Phật thuyết vào những lúc khác nhau.
(Xem: 11866)
Bài kinh được bắt đầu bằng những điều ta cần làm để được bình an. Không phải là những điều ta cần làm cho tha nhân.
(Xem: 10909)
Pháp ấn này chính là ba cánh cửa đi vào giải thoát, là giáo lý căn bản của chư Phật, là con mắt của chư Phật, là chỗ đi về của chư Phật.
(Xem: 13544)
Thích Đức Nhuận, Viện Triết Lý Việt Nam & Triết Học Thế Giới California, USA Xuất bản 2000
(Xem: 11963)
Tam Tạng Pháp sư Cưu Ma La Thập, đời Dao Tần dịch. Sa môn Hám Sơn Thích Đức ThanhTào Khê, đời Minh soạn - Việt Dịch: Hạnh Huệ
(Xem: 11852)
Hán dịch: Thiên Trúc Tam Tạng Pháp Sư Bồ Đề Lưu Chi - Đời Nguyên Ngụy, Việt dịch: Tuệ Khai cư sĩ - Phan Rang - Chứng nghĩa: Tỳ Kheo Thích Đỗng Minh
(Xem: 11646)
Bồ tát Long Thọ ra đời khi các cánh cửa của Phật giáo Đại thừa được bắt đầu mở rộng.
(Xem: 12776)
Kinh Căn Bản Pháp Môn nêu lên hai cách tu tập: Chỉ (samātha) và Quán (vipassana). Đây là hai cách tu tập cần yếu trong hành trình dẫn đến giác ngộ.
(Xem: 14530)
Trong tác phẩm này, chúng tôi đã cố gắng giới thiệu một phần quan trọng của tạng kinh thuộc Nhất thiết hữu bộ (Sarv.) là kinh Trung A-hàm (Madhyama Àgama) trong hình thức toàn vẹn của nó.
(Xem: 12626)
Hòa thượng Tịnh Không giảng tại Tịnh Tông Học Hội Tân Gia Ba, bắt đầu từ ngày 28/5/1998, tổng cộng gồm năm mươi mốt tập (buổi giảng).
(Xem: 15671)
Bộ kinh này có mặt ở Trung Quốc từ đời nhà Đường (618-907). Ngài Bát Lạt Mật ĐếDi Già Thích Ca dịch từ Phạn văn ra Hán văn.
(Xem: 13636)
Kinh Pháp Cú là một trong 15 quyển kinh thuộc Tiểu Bộ Kinh trong Kinh tạng Pali. Đây là một quyển kinh Phật giáo phổ thông nhất và đã được dịch ra rất nhiều thứ tiếng trên thế giới.
(Xem: 12912)
Diệu Pháp Liên Hoa có thể nói là bộ kinh nổi tiếng nhất trong khu vườn kinh điển Phật giáo Đại thừa.
(Xem: 9883)
Phật pháp dạy mọi người lìa khổ được vui, điều này ai cũng đều biết. Nếu như Phật pháp dạy mọi người lìa vui được khổ thì có lẽ không có ai học.
(Xem: 18025)
Thế Tôn đã từng dạy, chỉ có từ bi mới có thể hóa giải được gốc rễ hận thù, tranh chấp, đối kháng và loại trừ lẫn nhau, ngoài từ bi không có con đường nào khác.
(Xem: 11181)
Kinh Kim Cương là một bộ kinh có một vị trí đặc biệt trong lịch sử học tập và tu luyện của Phật giáo nước ta. Từ giữa thế kỷ thứ 7, trước cả Lục tổ Huệ Năng, thiền sư Thanh Biện của dòng thiền Pháp Vân đã nhờ đọc kinh này mà giác ngộ.
(Xem: 9088)
“Ư bỉ nhị thập nhất câu chi Phật độ, công đức trang nghiêm chi sự, minh liễu thông đạt, như nhất Phật sát, sở nhiếp Phật quốc, siêu quá ư bỉ.” Chỉ một câu văn trong kinh Vô Lượng Thọ mà ta đã có ba chữ nói về cõi Phật.
(Xem: 12190)
Chúng ta biết rằng, lý do tồn tại của Thiền cốt ở tâm chứng, không phải ở triết luận có hệ thống. Thiền chỉ có một khi mọi suy luận được nghiền nát thành sự kiện sống hàng ngày và trực tiếp thể hiện sinh hoạt tâm linh của con người.
(Xem: 13063)
Bài kinh này được chọn trong bộ kinh Theragatha mà kinh sách Hán ngữ gọi là Trưởng Lão Tăng Kệ, thuộc Tiểu Bộ Kinh (Khuddaka).
(Xem: 10321)
Này người Bả-la-môn, ngay cả trước khi việc hiến sinh bắt đầu thì người đốt lửa, dựng đàn hiến sinh cũng đã vung lên ba thanh kiếm bất hạnh...
(Xem: 12205)
Mettâ-sutta là một bản kinh ngắn rất phổ biến trong các quốc gia theo Phật Giáo Nguyên Thủy cũng như các quốc gia theo Phật Giáo Đại Thừa. Tên quen thuộc bằng tiếng Việt của bản kinh này là "Kinh Từ Bi"
(Xem: 15326)
Câu “Ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm” không chỉ là yếu chỉ tu hành của những người tu Phật mà còn có công năng chuyển hóa những tâm hồn bi quan, khổ đau trong cuộc đời, giúp họ sống tỉnh giác và xả ly, tự tin, làm chủ bản thân trước mọi hoàn cảnh sống.
(Xem: 16617)
BÁT NHÃ TÂM KINH (Prajnaparamitahridaya Sùtra) là một bản văn ngắn nhất về Bát nhã ba la mật (Prajnaparamità).
(Xem: 12230)
Bát-nhã là tiếng Phạn, dịch sang tiếng Trung-hoa có nghĩa là trí-huệ, tiếng Việt-nam mình cũng giữ chữ đó là trí-huệ.
(Xem: 11493)
Giáo lý Tứ diệu đế với bốn chân lý vượt lên trên mọi tác động của điều kiện bên ngoài, bàn về bản chất của kiếp nhân sinh và khả năng vượt thắng mọi nỗi khổ niềm đau của con người đã trở thành động lựcniềm tin của nhân loại.
(Xem: 14281)
Đại Thừa Khởi Tín Luận - Con đường đưa đến giác ngộ, Tác Giả: Mã Minh - Dịch & Giải: Chân Hiền Tâm.
(Xem: 19716)
Tỳ Kheo GiớiTỳ Kheo Ni Giới do HT Thích Trí Quang dịch và giải
(Xem: 14161)
Hán dịch: Tam tạng Phật-đà Da-xá và Trúc-phật-niệm. Việt dịch: Tỳ-kheo Thích Đỗng Minh và Thích Đức Thắng. Hiệu chính và chú thích: Tỳ-kheo Thích Nguyên Chứng
(Xem: 24621)
600 câu hỏi và trả lời liên quan đến giáo lý, hành trì, sự phát triển của Phật Giáo; đến lịch sử, văn hóa của các nước thọ nhận Phật Giáo; đến các vấn đề văn hóa, xã hội, chính trị thời đại.
(Xem: 10702)
Kinh 42 Bài là dịch từ chữ Hán Tứ Thập Nhị Chương. Kinh nầy có nhiều bản chữ Hán. Bản lưu hành cho đến gần đây, theo sự ước đoán của Hòa Thượng Trí Quang
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant