Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Tắc thứ Hai Mươi Bốn: Qui Sơn Và Lưu Thiết Ma

21 Tháng Tư 201100:00(Xem: 16082)
Tắc thứ Hai Mươi Bốn: Qui Sơn Và Lưu Thiết Ma

BÍCH NHAM LỤC
(MỘT TRĂM CÔNG ÁN THIỀN TÔNG)
Thích Mãn Giác dịch
Chùa Việt Nam Trung Tâm Văn Hoá Phật Giáo Việt Nam tại Hoa Kỳ 1988

Phần 3

TẮC THỨ HAI MƯƠI BỐN

QUI SƠN VÀ LƯU THIẾT MA

 

THÙY: Đứng trên đỉnh cao vút, ngoại ma không thấy được. Đi dưới đáy biển sâu, mắt Phật nhìn không ra. Dù cho là có mắt như sao rơi, có trí như điện chớp, cũng khó mà tránh được khỏi giống con rùa thiếng kéo đuôi. Đến chỗ này rồi phải làm gì mới khế hợp. Xin nêu lên thử xem.

CỪ: Lưu thiết Ma đến gặp Qui Sơn. Qui Sơn nói, “Con bò cái kia đến đó hả!” Lưu Thiết Ma nói, “Ngày mai trên Đài Sơn[10] có trai hội lớn, hòa thượng có đi không?” Qui Sơn nằm xuống, Lưu Thiết Ma bèn bỏ đi.

BÌNH: Ni lưu Thiết Ma như đá lửa như điện chớp. Vừa toan nghị luận là (các ông lập tức) tang thân thất mạng ngay. Trong đạo Thiền một khi đã đến chỗ khẩn yếu, đâu còn có nhiều việc gì nữa? Các tay chuyên gia gặp nhau, giống y như thể thấy sừng bên kia tường biết ngay là có bò, thấy khói bên kia núi biết ngay có lửa. Khi đẩy thì họ động, khi dồn thì họ xoay quanh.

Qui Sơn nói, “Trăm năm sau, ta sẽ xuống núi làm con trâu trong nhà vị thí chủ kia. Bên hông trái sẽ có viết năm chữ, “ Qui Sơn tăng, tôi đây.” Đúng vào lúc ấy, gọi là Qui Sơn tăng mới đúng hay gọi là trâu mới đúng?”Người bây giờ mà bị hỏi như thế, lập tức lúng túng không biết phải làm thế nào.

Lưu Thiết Ma tham Thiền đã lâu, cơ trí sắc bén, cho nên người ta mới đặc biệt hiệu cho là Lưu Thiết Ma. Lưu Thiết Ma dựng một thảo am cách nơi của qui Sơn mười dặm. Một hôm đến thăm Qui Sơn. Qui Sơn thấy Ni đến bèn hỏi, “Con bò cái kia đến đó hả.” Lưu Thiết Ma nói, “Ngày mai trên Đài Sơn có trai hội lớn,hòa thượng có đi không?” Qui Sơn nằm xuống. Lưu Thiết Ma bèn bỏ đi. Các ông thử nhìn xem, họ giống như thể đối thoại, song đã không phải là Thiền tại cũng chẳng phải là đạo. có thể gọi là vô sự được chăng?

Qui Sơn cách xa Đài Sơn có đến mấy ngàn dặm. Lưu Thiết Ma tại sao lại muốn Qui Sơn đi dự trai hội? Thử nói xem ý của Ni là gì? Bà lão này hiểu lối nói chuyện của Qui Sơn, tơ đến sợi đi, một buông một nắm, hỗ tương xướng họa như thể hai tấm gương phản chiếu nhau, mà không có hình ảnh gì để quán cả. tiếp nhau từng phương tiện, phù hợp nhau từng câu nói.

Người thời nay bị thúc ba lần mà cũng chẳng quay đầu, song bà lão này chẳng hề bị lừa chút nào. Đây tuyệt nhiên không phải là thiên kiến nằm trong sự thật công ước, giống như gương sáng trên khung, ngọc sáng trong tay, Hồ đến Hồ hiện, Hán đến Hán hiện. Bởi vì Lưu Thiết Ma biết rằng có sự việc hướng thượng trong ấy, cho nên bà ta mới hành sự như vậy,

Hiện giờ chỉ nên hiểu đó là vô sự. Ngũ Tổ Pháp Diễn hòa thượng nói, “Đừng coi hữu sự là vô sự, hữu sự thường thường do nơi vô sự mà nẩy sinh.” Nếu như các ông tham thấu được, các ông sẽ thấy rằng họ nói chuyện với nhau như thể những người bình thường vậy. Đa số người ta thường bị trở ngại bởi ngôn ngữ, cho nên mới không hiểu. Chỉ có kẻ tri âm mới có thể hiểu họ được.

Giống như Càn Phong dạy chúng rằng, “Nêu lên thì không được nêu lên hai, buông bỏ một cái là các ông sẽ rơi vào cái thứ hai”. Vân Môn bước ra khỏi đồ chúng nói, “ Hôm qua có một ông tăng từ Thiên Thai đến song lại đi về Nam Nhạc.” Càn Phong nói, “Điển tòa hôm nay không được tụ tập tăng chúng nữa.”

Quan sát xem Qui Sơn và Lưu Thiết Ma, lúc buông thì cùng buông, lúc nắm thì cùng nắm. Trong tông môn của Qui Ngưỡng đây gọi là phương pháp “cảnh trí”. Gió thổi bụi bay, tất thấy được đầu mối. Đây cũng gọi là “cách thân cú”. Có nghĩa là ý thông mà ngôn ngữ bị gián cách. Đến chỗ này rồi thì các ông phải biết xoay trở phải trái, như thế thì mới là tay chuyên gia.

TỤNG

Từng cưỡi ngựa sắt vào thành cao,

Chiếu xuống truyền rằng sáu nước yên.

Vẫn cầm roi vàng hỏi khách về,

Đêm sâu ai cùng đi lối vua?

BÌNH: Tụng của Tuyết Đậu các nơi đều cho là cực tắc. Trong một năm bài tụng ,bài này là đầy đủ luận lý nhất, và cũng là bài có thể cách phân minh tuyệt diệu nhất. “Từng cưỡi ngựa sắt vào thành cao” là để tụng việc Lưu Thiết Ma đến. “ Chiều xuống truyền rằng sáu nước yên,” là để tụng việc Qui Sơn hỏi. “Vẫn cầm roi vàng hỏi khách về”, là để tụng lời Lưu Tuyết Ma nói rằng, “Ngày mai ở Đài Sơn có trai hội lớn, hòa thượng có đi dự không?” “Đêm sâu ai cũng đi lối vua,” là để tụng việc Qui Sơn nằm xuống, Lưu Tuyết Ma bỏ đi.

Tuyết Đậu có cái tài này, chỗ cấp thiết thì tụng cấp thiết, chỗ hòa hoãn thì tụng hòa hoãn. Phong Huyệt cũng đã từng bình (công án này), và cũng cùng một ý với Tuyết Đậu. Bài tụng này được người các nơi ca ngợi: “Đứng trên đỉnh núi cao, ngoại ma không thấy được. Đi dưới đáy biển sâu, mắt Phật nhìn không ra.”

Nhìn họ xem, một người nằm xuống một người liền bỏ đi. Nếu vẫn cứ loanh quanh thì chẳng bao giờ tìm ra lối. Ý của bài tụng của Tuyết Đậu thật là tuyệt. Đúng là đã từng cưỡi ngựa sắt vào thánh cao. Nếu như thầy ta không có chỗ chứng đắc ( giống như họ) làm sao thầy ta có thể như thế được? Thử nói xem, thầy ta đắc được ý gì? Há không nghe chuyện có ông tăng hỏi Phong Huyệt,“ Qui Sơn nói, “Con bò cái kia đến đó hả?” có nghĩa là gì?” Phong Huyệt nói, “Trên từng mây trắng rồng vàng nhảy.” Ông tăng hỏi, “Lúc Lưu Thiết Ma nói, “Ngày mai trên Đài Sơn có trai hội lớn, hòa thượng có đi dự không?” có nghĩa là gì?” Phong Huyệt nói, “Giữa lòng sóng biếc ngọc thỏ kinh” Ông tăng hỏi, “Lúc Qui Sơn nằm xuống có nghĩa là gì?” Phong Huyệt nói, “ Già nua lụ khụ ngày vô sự, nằm yên ngon giấc với núi xanh.” Ý này cũng giống với ý của Tuyết Đậu.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 29892)
Đây là những điều tôi được nghe hồi Đức Thế Tôn còn cư trú gần thành Xá Vệ, tại tu viện Cấp Cô Độc, trong vườn Kỳ Đà. Hôm đó, trời đã vào khuya...
(Xem: 27178)
Tương Ưng Bộ (Samyutta Nikàya) là bộ kinh thứ ba trong kinh tạng Pàli (Trường bộ, Trung bộ, Tương Ưng bộ, Tăng Chi bộ, và Tiểu bộ). Bộ kinh là một tập hợp các bài kinh dài ngắn không đều...
(Xem: 21767)
Khi chúng ta thẩm tra hoàn cảnh đôi khi buồn rầu, và thỉnh thoảng vui vẻ, chúng ta khám phá ra rằng có nhiều vấn đề liên hệ với điều ấy.
(Xem: 22232)
Ý nghĩa cận sự namcận sự nữ, cần được hiểu là những cư sĩniềm tin nơi Phật-Pháp-Tăng, trọn đời nguyện phụng sự Tam bảo, luôn luôn sống theo sự hướng dẫn của Tam bảo.
(Xem: 23602)
Đạo Phật được đưa vào nước ta vào khoảng cuối thế kỷ thứ hai do những vị tăng sĩ và những thương gia Ấn Độ và Trung Á tới Việt Nam bằng đường biển Ấn Độ Dương.
(Xem: 20430)
Phật Giáo là đạo Giải Thoát. Giải là cởi mở. Ở đây là "cởi mở" những trói buộc để "thoát" ra khỏi mọi hình thức đau khổ của đời sống.
(Xem: 20054)
Trong 45 năm hoằng pháp độ sinh, Đức Phật đã du hành khắp miền Bắc Ấn độ để giảng dạy con đường giải thoát mà Ngài đã tìm ra. Rất nhiều người đã quy y với Ngài...
(Xem: 21948)
Phật Giáo là một tôn giáo có khoảng 300 triệu tín đồ trên khắp thế giới. Danh từ Phật Giáo (Buddhism) phát nguồn từ chữ "buddhi", có nghĩa "giác ngộ", "thức tỉnh".
(Xem: 24750)
Mục tiêu của Kinh Bát Đại nhân Giác là phát triển trí tuệ, đoạn tận phiền não, ô nhiễm, lậu hoặc để chứng đắc quả vị giải thoát tối hậu. Như quán niệmđại nguyệntrí tuệ phát sanh.
(Xem: 18988)
Khi biên soạn tập sách này, chúng tôi đặc biệt nghĩ đến những Phật tử sơ phát tâmbước đầu tìm hiểu giáo lý của đạo Phật trong một bối cảnh đa văn hoá và nhiều truyền thống tôn giáo.
(Xem: 24761)
Trong nguyên bản tiếng Pāli, sách nói rằng những cuộc đối thoại giữa vua Milinda và ngài Nāgasena đã diễn ra năm trăm năm sau khi Đức Phật nhập Niết Bàn.
(Xem: 30974)
Tu Ðạo là cần phải "quay trở lại." Nghĩa là gì? Tức là phải nhường cho người việc tốt lành, còn mình thì nhận phần hư xấu--xả tiểu ngã để thành tựu đại ngã.
(Xem: 23987)
Quả khổ chuyển theo nghiệp. Nghiệp chuyển theo tâm. Chỉ cần soi sáng tâm là hết khổ. Vì thế, bức tranh của Vòng luân hồi hay Con quỷ vô thường này rất quan trọng...
(Xem: 27764)
Những gì xảy ra trong thế giới này đều bị qui luật Nhân quả chi phối. Mọi thứ xuất hiện ở đời đều có nhân duyên. Hạnh phúcthế gian hay Niết bàn của người tu đạo không ra ngoài qui luật ấy.
(Xem: 26511)
Tâm vốn không – lặng, nhơn pháp mà lập danh. Tịnh pháp là người, trời, Thanh văn, Duyên giác, Bố tát và Phật. Nhiễm phápA tu la, bàng sanh, địa ngục, quỉ thú.
(Xem: 21314)
Bộ kinh Milindapanha xuất hiện vào khoảng năm trăm năm sau Phật Niết bàn, do ngài Pitakaculàbhaya ở trung Ấn độ trước thuật bằng tiếng Pàli. Nội dung kể lại những câu hỏi, đáp giữa vua Milinda và tỳ kheo Nàgasena.
(Xem: 23224)
Quyển ''Na-Tiên Tì-kheo Kinh'' là một bộ Luận ghi bằng tiếng Pali, rất nổi danh, được phiên-dịch ra nhiều thứ tiếng: tiếng Hán, tiếng Việt, tiếng Miến, tiếng Thái, tiếng Tích-lan, tiếng Anh, tiếng Pháp, v.v.
(Xem: 38127)
Quyển sách nhỏ này được viết ra nhằm mục đích giới thiệu với quý độc giả đang đi tìm giải thoát và nhất là thích tu thiền, một phương pháp hành thiền mà ít người để ý, đó là pháp Tứ Niệm Xứ.
(Xem: 18799)
Khi mới đến một vùng đất hoang để khai khẩn, mảnh đất đó có thể làm cho ta nản lòng vì cỏ gai và chướng ngại vật đầy dẫy. Ta cần phải đào, phải bứng, phải chặt, phải cày, phải bừa.
(Xem: 18439)
Ma-ha-diễn là pháp tạng sâu xa của chư Phật mười phương ba đời, vì người lợi căn đại công đức mà nói... Thích Thanh Từ
(Xem: 19976)
Tổ Sư thiền Việt Nam đã thất truyền trên hai trăm năm. Đến năm 1977, Hòa thượng hoằng dương Tổ Sư thiền và tổ chức Thiền thất đầu tiên tại Việt Nam.
(Xem: 19044)
Bản văn này chỉ giới thiệu những điểm chủ yếu có liên quan đến triết học Trung Quán một cách hết sức đơn giản, dù vậy, vẫn bao hàm được tất cả mọi yếu điểm cốt lõi của hệ phái Triết học này.
(Xem: 23168)
Viết về một triết học là đặt ra các câu hỏi về những vấn đề được bàn đến trong triết học đó. Trong trường hợp này, chúng ta thử viết một bài nghiên cứu mang tính phê bình về triết học Thế Thân.
(Xem: 23879)
Ở đây, nội dung của tập sách này chỉ giới thiệu một cách khái quát về các thể loại văn học của kinh điển và một số thể loại ngôn ngữ được dùng trong kinh điển.
(Xem: 22800)
Toàn bộ kinh Đại Bát Niết-bàn dày hơn 4500 trang, riêng phần Việt dịch chiếm gần 1700 trang; mỗi đoạn mỗi câu trong đó đều hàm chứa những ý tứ sâu xa huyền diệu không dễ gì hiểu thấu qua một vài lần đọc.
(Xem: 22910)
Chúng sinh đau khổ, trôi lăn trong sinh tử luân hồi cũng chỉ vì cái Ta, cho cái Ta có thật rồi bám víu vào nó. Trong đạo Phật gọi đây là bệnh chấp Ngã.
(Xem: 29572)
Tập Kinh Trung Bộ (Majjhima Nikàya) gồm 152 kinh tất cả, chia thành 3 tập: tập I, gồm 50 Kinh đầu, tập II gồm 50 Kinh tiếp và tập III, gồm 52 Kinh chót.
(Xem: 20641)
Quá khứ không truy tìm Tương lai không ước vọng. Quá khứ đã đoạn tận, Tương lai lại chưa đến...
(Xem: 18709)
Thường thì những mối bận tâm thế tục sẽ chỉ mang lại đau khổthất vọng trong đời này và đời sau. Những sự xuất hiện của sinh tử thì chẳng có gì là bền vững, luôn luôn thay đổi và vô thường...
(Xem: 15847)
Kinh Bát Đại Nhân Giác bố cục thành ba phần: Phần mở đầu chỉ một câu đơn giản như là giới thiệu tám điều giác ngộ; Phần hai là nội dung tám điều giác ngộ ấy...
(Xem: 18857)
Sự tịnh hóa của Kim Cương thừa nói riêng và con đường Kim Cương thừa nói chung căn cứ vào trí huệ đại lạctrí huệ tánh Không. Nhờ và bằng trí huệ đại lạctrí huệ tánh Không mà tất cả nghiệp lực được tịnh hóa.
(Xem: 19678)
Phật giáo là một sự thực tập để đối trị khổ đau. Phật nói “ta chỉ dạy về khổ đau và vượt thoát khổ đau” [3] . Ðiều này đã được Phật phát biểu trong công thức của bốn sự thực thâm diệu [tứ diệu đế].
(Xem: 20153)
Thế nào gọi là Phật Lý Căn Bản? – Giáo lý chính yếu của Phật giáo, tóm lược các quan điểm trong ba tạng (Tripitaka).
(Xem: 19954)
Khi Đức Phật tỉnh thức bước ra khỏi cơn mê mà chúng ta vẫn còn đang chìm đắm, Ngài đã nhận thức được sự thực rốt ráo của muôn vật y như chân tướng của chúng.
(Xem: 18117)
Hãy dọn tâm trí vô tư để nhìn thấy khoa học, khoa học là đề tài thảo luận của chúng ta. Khoa học là nơi gặp gỡ của chúng ta.
(Xem: 22932)
Thấy chúng sinh phàm tình mãi trầm chìm trong phiền não, nhiễm ô, thiếu chính niệm và kiềm thúc thân tâm, Đức Như Lai từ bi trí tuệ đã khai thị rất nhiều phương cách...
(Xem: 34166)
Kinh Pháp Cú (Dhammapada) là một trong 15 quyển kinh thuộc Tiểu Bộ Kinh (Khuddaka Nikaya) trong Kinh tạng Pali (Suttanta Pitaka). Ðây là một quyển kinh Phật giáo phổ thông nhất...
(Xem: 16418)
Xuất bản lần đầu vào năm 1995 (tái bản 2001), “Phật Giáo và Đạo Đức Sinh Học” (Buddhism and Bioethics) là một đóng góp có ý nghĩa của Damien Keown* cho Phật giáo về một đề tài chưa được giới Phật giáo nghiên cứu nhiều trước đó.
(Xem: 16917)
Luận thuyết được trình bày ở đây, dành cho những người ước muốn rút ra tinh túy của đời người được phú bẩm những nhàn nhã và thuận lợi, là luận thuyết được gọi là Các Giai đoạn của Con Đường Giác ngộ (Lamrim).
(Xem: 39245)
"Con đường Thiền Chỉ Thiền Quán” đã được Ngài Guṇaratana trình bày một cách khúc chiết, rõ ràng có thể giúp cho những ai muốn nghiên cứu tường tận chỗ đồng dị, cộng biệt, sinh khắc của hai pháp môn này...
(Xem: 26068)
Tâm không có màu sắc hoặc hình tượng để nhận ra được nó, nhưng nó thì tuyệt đối trống rỗng và nhận biết sáng tỏ thấu suốt hoàn toàn. (= viên minh)- đó là tự tính của tâm bạn.
(Xem: 20098)
“Phật giáo khái luận” là một tác phẩm rất có giá trị của cư sĩ Huỳnh Sĩ Phục bên Trung Quốc, lời lẽ tuy vắn tắt, nhưng đã bao hàm tất cả yếu nghĩa của các Tôn hiện hànhTrung Quốc.
(Xem: 18850)
Kinh "Chiếc lưới ái ân" được dịch từ kinh Pháp Cú, Hán Tạng. Chữ "ái ân" nằm ngay trong bài kệ thứ ba của kinh, câu “Nhân vi ân ái hoặc”.
(Xem: 24060)
Có thể nói rằng "Tánh Không luận" là một hệ thống triết học đặc thù của Phật giáo trong thời kỳ phát triển. Sự xuất hiện của nó như là một dấu ngoặc vĩ đại...
(Xem: 29140)
Nếu một người thiện nam hay tín nữ thực hànhhoàn thành Năm Thực Tập Chính Niệm, người ấy cuối cùng sẽ đạt được sự vãng sinh về vùng đất Hòa Hòa Bình và An Lạc...
(Xem: 22902)
Trước khi thực sự bắt đầu nuôi dưỡng điều được gọi là Sáu Hạnh Ba-la-mật, bạn phải phát triển động thái vị tha của tâm thức hay là hành xử của bồ-tát. Bồ-tát là người mà đã hoàn toàn từ bỏ quyền lợi tự ngã của mình...
(Xem: 30957)
Bài văn này được thiền sư Quy Sơn Linh Hựu viết ra nhằm sách tấn việc tu học của đồ chúng, nên gọi là văn cảnh sách, và lấy tên ngài để làm tựa. Từ xưa nay vẫn gọi là “Quy Sơn cảnh sách văn”.
(Xem: 21008)
Chính bộ Kinh quý báu này mở rộng cửa giải thoát cho cả hai hạng người xuất giatại gia nhập vào Pháp Môn Bất Nhị, trở về Bản Tánh Không Hai.
(Xem: 26851)
Duy Ma Cật tức là tên của ông Duy Ma Cật. Mà Duy Ma Cật là chữ Phạn. Trung Hoa dịch là Tịnh Danh. Cũng dịch là Vô Cấu. Tịnh Danh: Chữ tịnh là trong sạch.
(Xem: 20678)
Như ta biết, Tứ diệu đế là bài thuyết pháp đầu tiên của Phật sau khi thành Đạo cho năm anh em A nhã Kiều Trần Như, diễn ra tại vườn Lộc Uyển, về phía bắc thành Ba la nại.
(Xem: 26266)
Thật ra, nếu các bạn không có sự hiểu biết về Tứ diệu đế cũng như chưa tự mình thể nghiệm chân lý của lời dạy này thì các bạn sẽ không thể thực hành Phật pháp.
(Xem: 23324)
Đọc “Tổng Quan Những Con Đường Của Phật Giáo Tây Tạng”, chúng ta sẽ thấy đức Dalai Lama là một bậc Đại Tri Viên, ngài chỉ rõ tất cả mọi con đường để chúng thấy rõ, nhất là con đường Tantra...
(Xem: 19817)
Muốn có sắc như là sắc, thì người ta phải cộng hay trừ đi sắc với không, chẳng hạn, 1 + 0 = 1. Như vậy không, tức là biệt thể để sắc như là sắc, để không như là không...
(Xem: 24675)
Kinh Duy Ma Cật bất khả tư nghì, tuyệt diệu cùng tột, ý chỉ thâm huyền, chẳng phải lời nói có thể diễn tả. Siêu việt tam không (Nhơn không, Pháp không, Không không)... Tỳ Kheo Thích Duy Lực
(Xem: 30036)
Ðọc vào kinh ta nhận thấy chẳng những hàng xuất gia mới thật hành được Phật đạo, mà Cư sĩ, Bà la môn cho đến mọi tầng lớp dân chúng cũng đều thật hành được Phật đạo.
(Xem: 20221)
“Hãy tu tập An-na-ban-na niệm. Nếu Tỳ-kheo tu tập An-na-ban-na niệm, tu tập nhiều, thân chỉ tức và tâm chỉ tức, có giác, có quán, tịch diệt, thuần nhất, phân minh tưởng, tu tập đầy đủ...
(Xem: 20404)
“Quý vị khất sĩ! Phép quán niệm hơi thở, nếu được phát triển và thực hiện liên tục, sẽ đem lại những thành quảlợi lạc lớn, có thể làm thành tựu bốn lĩnh vực quán niệm (Tứ Niệm Xứ)...
(Xem: 15145)
Kinh Niệm Xứ, Satipattthana Sutta, là một bài kinh vô cùng quan trọng vì kinh này đề cập đến những đề mục hành thiền nhằm phát triển cả hai, tâm Vắng Lặng (Samatha) và trí tuệ Minh Sát (Vipassana).
(Xem: 15829)
Có một thầy trẻ đến đặt một câu hỏi với Đức Thế Tôn liên quan tới vấn đề ái dục và đã được Đức Thế Tôn trả lời câu hỏi đó bằng tám bài kệ.
(Xem: 23890)
Kinh Bách Dụ, một bộ kinh trong Đại Tạng chuyển tải ý nghĩa thâm diệu bằng những câu chuyện thí dụ rất sâu sắc. Biên soạn: Pháp sư Thánh Pháp; Việt dịch: Thích Nữ Viên Thắng; Hiệu đính: Thiện Thuận
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant