Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Bích Nham Lục

21 Tháng Tư 201100:00(Xem: 33184)
Bích Nham Lục

BÍCH NHAM LỤC

(MỘT TRĂM CÔNG ÁN THIỀN TÔNG)
Thích Mãn Giác dịch
Chùa Việt Nam Trung Tâm Văn Hoá Phật Giáo Việt Nam tại Hoa Kỳ 1988

blank



blankVÀI NÉT VỀ DỊCH GIẢ 

HT Thích Mãn Giác, sanh năm Kỷ Tỵ tại Cố Đố Huế. Nguyên quán Làng Phương Lang, Quận Hải Lăng, tỉnh Quảng Trị. Xuất gia nhập đạo năm 11 tuổi. Thọ Đại Giới năm 1948 cùng một lần với Hòa Thượng Thiện Siêu, cố Hòa Thượng Thiện Minh, cố Hòa Thượng Thiên Ân…

Về Giáo Dục:

-Tốt nghiệp Đại Học Phật Giáo tại Phật Học Đường Báo Quốc Huế 1952.
-Du học Tokyo Nhựt Bổn 1960.
-Đỗ văn bằng Cao Học Văn HỌc toyo University, Tokyo,1962.
-Tùng học ban Cao Học Triết Học Ấn Độ (Faculty of Letters, University of Tokyo) 1964-1965.
-Tốt nghiệp Văn Học Bác Sĩ tại Toyo University 1968.
-Đỗ Tiến Sĩ Triết Học, University of Oriental Studies 1979.
Về Giáo Hội, Giáo DụcXã Hội
-Giảng Sư Hội Phật Học Lâm Đồng (Dalat) 1953.
-Hội Trưởng Hội Phật Học Lâm Viên Dalat 55-60.
-Bộ Giáo Dục tuyển dụng làm Giáo Sư Đại Học Văn Khoa Saigon và Huế cuối năm 1965.
-Hội Trưởng Hội Bảo Tồn Cố Đố Huế 1973-1975.
-Tổng Vụ Trưởng Tổng Vụ Thanh Niên 1966-1969.
-Tổng Vụ Trưởng Tổng Vụ Văn Hóa 1969-1975.
-Khoa Trưởng Phân Khoa Phật HọcTriết Học Đông Phương, Viện Đại Học Vạn hạnh 1965-1969.
-Phó Viện Trưởng Viện Đại Học Vạn Hạnh Đặc Trách Điều Hành 1971-1975.
-Giáo Sư Đại Học Văn Khoa Saigon và Huế 1965-1975.

Sinh Hoạt Hiện Tại

-Đồng Tổng Thư Ký Hội Đồng Giáo Phẩm Lãnh Đạo GHPGVNTN tại Hải Ngoại
-Hội Viên Hội Đồng Quản Trị tái Thiết Vườn Lâm Tì Ni tại Hoa Kỳ
-Hội Viên Hội Đồng Tái Thiết Vườn Lâm Tì Ni của Hội Phật Giáo Thế Giới.
-Chứng Minh Đạo Sư của Buddhist Sangha Council of Southern California
-Viện Chủ Giáo Hội PGVNTN tại Los Angeles
-Hội Chủ Tổng Hội PGVN tại Hoa Kỳ

MỤC LỤC

Vài nét về dịch giả
Lời Giới Thiệu
Phần 1
Tắc thứ Nhứt: Cái Trống Không Của Đạt Ma
Tắc thứ Nhì: Đạo Vô Nan Của Triệu Châu
Tắc thứ Ba:Mã Sư Bất An
Tắc thứ Tư: Đức Sơn Mang Bao Hành Trang
Tắc thứ Năm: Hạt Gạo Của Tuyết Phong
Tắc thứ Sáu: Một Ngày Đẹp Của Vân Môn
Tắc thứ Bảy: Huệ Siêu Hỏi Về Phật
Tắc thứ Tám: Thúy Nham Dạy Đồ Chúng Cuối Hạ
Tắc thứ Chín: Bốn Cửa Của Triệu Châu
Tắc thứ Mười: Ba Tiếng Hét Của Mục Châu
Phần 2
Tắc thứ Mười Một: Kẻ Uống Cặn Rượu Của Hoàng Bá
Tắc thứ Mười Hai: Ba Cân Gai Của Động Sơn
Tắc thứ Mười Ba:Chén Bạc Của Ba Lăng
Tắc thứ Mười Bốn: Một Lời Đúng Của Vân Môn 
Tắc thứ Mười Lăm:Một Câu Nói Ngược Của Vân Môn
Tắc thứ Mười Sáu: Người Trong Cỏ Của Kính Thanh
Tắc thứ Mười Bảy: Hương Lâm Ngồi Lâu
Tắc thứ Mười Tám: Túc Tông Thỉnh Pháp
Tắc thứ Mười Chín: Ngón Tay Thiên Của Câu Chi
Tắc thứ Hai Mươi: Long Nha và Ý Của Tổ Sư Từ Tây Thiên Qua
Phần 3
Tắc thứ Hai Mươi Mốt: Hoa Sen Của Trí Môn
Tắc thứ Hai Mươi Hai: Con Rắn Mũi Rùa Của Tuyết Phong
Tắc thứ Hai Mươi Ba: Diệu Phong Đỉnh Của Bảo Phúc
Tắc thứ Hai Mươi Bốn: Qui Sơn Và Lưu Thiết Ma
Tắc thứ Hai Mươi Lăm: Liên Hoa Trụ Trượng
Tắc thứ Hai Mươi Sáu: Bác Trượng Ngồi Một Mình Trên Đỉnh Đại Hùng
Tắc thứ Hai Mươi Bảy: Thể Lộ Kim Phong Của Vân Môn
Tắc thứ Hai Mươi Tám: Chư Thánh Của Niết Bàn Hòa Thượng
Tắc thứ Hai Mươi Chín: Hỏa Kiếp Của Đại Tùy
Tắc thứ Ba Mươi: Củ Cải Của Triệu Châu
Phần 4
Tắc thứ Ba Mươi Mốt: Ma Cốc Chống Gậy
Tắc thứ Ba Mươi Hai: Phật Pháp Đại Ý Của Lâm Tế
Tắc thứ Ba Mươi Ba: Trần Thượng Thư Viếng Từ Phúc
Tắc thứ Ba Mươi Bốn: Ngưỡng Sơn Hỏi Từ Đâu Đến
Tắc thứ Ba Mươi Lăm: Văn ThùVô Trước
Tắc thứ Ba Mươi Sáu: Trường Sa Một Hôm Đi Chơi Núi
Tắc thứ Ba Mươi Bảy: Tam Giới Vô Pháp Của Bản Sơn
Tắc thứ Ba Mươi Tám: Trâu Sắt Của Phong Huyệt
Tắc thứ Ba Mươi Chín: Kim Mao Sư Tử Của Vân Môn
Tắc thứ Bốn Mươi: “Giống Như Mộng” Của Nam Tuyền
Phần 5
Tắc thứ Bốn Mươi Mốt: Người Chết Lớn Của Triệu Châu
Tắc thứ Bốn Mươi Hai:Từng Phiến Tuyết Của Bàng Cư Sĩ
Tắc thứ Bốn Mươi Ba: Không Nóng Không Lạnh Của Động Sơn
Tắc thứ Bốn Mươi Bốn: Hòa Sơn Biết Đánh Trống
Tắc thứ Bốn Mươi Lăm: Vạn Pháp Qui Nhất Của Triệu Châu
Tắc thứ Bốn Mươi Sáu: Tiếng Mưa Rơi Của Kính Thanh
Tắc thứ Bốn Mươi Bảy: Sáu Không Thu Của Vân Môn
Tắc thứ Bốn Mươi Tám: Vương Thái Phó Nấu Trà 
Tắc thứ Bốn Mươi Chín: Tam Thánh Lấy Gì Để Ăn
Tắc thứ Năm Mươi: Trần Trần Tam Muội Của Vân Môn
Phần 6
Tắc thứ Năm Mươi Mốt: “Cái Gì Đây” Của Tuyết Phong
Tắc thứ Năm Mươi Hai: Cầu Đá Của Triệu Châu
Tắc thứ Năm Mươi Ba: Vịt Trời Của Mã Đại Sư
Tắc thứ Năm Mươi Bốn: “ Mới Ở Đâu Tới” Của Vân Môn
Tắc thứ Năm Mươi Lăm: Đạo NgôTiệm Nguyên Đi Điếu Tang
Tắc thứ Năm Mươi Sáu: Một Mũi Tên Phá Ba Ải Của Vân Môn
Tắc thứ Năm Mươi Bảy: Chí Đạo Vô Nam Của Triệu Châu
Tắc thứ Năm Mươi Tám: Triệu Châu Và Khuôn Sáo Thời Thượng
Tắc thứ Năm Mươi Chín: Triệu Châu Và Đừng So Đo
Tắc thứ Sáu Mươi: Cây Gậy Của Vân Môn
Phần 7
Tắc thứ Sáu Mươi Mốt: Một Hạt Bụi Của Phong Huyệt
Tắc thứ Sáu Mươi Hai: Viên Ngọc Của Vân Môn
Tắc thứ Sáu Mươi Ba: Nam Tuyền Giết Mèo
Tắc thứ Sáu Mươi Bốn: Nam Tuyền Hỏi Triệu Châu
Tắc thứ Sáu Mươi Lăm: Ngoại Đạo Hỏi Phật Về Hữu Vô
Tắc thứ Sáu Mươi Sáu: Nham Đầu Và “Từ Đâu Tới”
Tắc thứ Sáu Mươi Bảy: Lương Vũ Đế Mời Giảng Kinh
Tắc thứ Sáu Mươi Tám: Ngưỡng Sơn Hỏi Tam Thánh
Tắc thứ Sáu Mươi Chín: Nam Tuyền Bái Trung Quốc Sư
Tắc thứ Bảy Mươi :Qui Sơn Đứng Hầu Bách Trượng
Phần 8
Tắc thứ Bảy Mươi Mốt: Bách Trượng Và không Với Cổ Họng Với Miệng Môi
Tắc thứ Bảy Mươi Hai: Bách Trượng Hỏi Vân Nham
Tắc thứ Bảy Mươi Ba: Tứ Cú Bách Phi Của Mã Đại Sư
Tắc thứ Bảy Mươi Bốn: Kim Ngưu Hòa Thượng Cười Ha Ha
Tắc thứ Bảy Mươi Lăm: Ô Cữu Hỏi Pháp Đạo
Tắc thứ Bảy Mươi Sáu: Đan Hà Hỏi Từ Đâu Tới
Tắc thứ Bảy Mươi Bảy: Bánh Của Vân Môn
Tắc thứ Bảy Mươi Tám:Mười Sáu Bồ Tát Đi Tắm
Tắc thứ Bảy Mươi Chín:Tất Cả Các Âm Thanh Của Đầu Tử
Tắc thứ Tám Mươi: Hài Từ Thức Của Triệu Châu
Phần 9
Tắc thứ Tám Mươi Mốt:Dược Sơn Bắn Nai
Tắc thứ Tám Mươi Hai: Kiên Cố Pháp Thân Của Đại Long
Tắc thứ Tám Mươi Ba: Cổ Phật Và Cột Trụ Của Vân Môn 
Tắc thứ Tám Mươi Bốn: Bất Nhị Pháp Môn Của Duy Ma cật
Tắc thứ Tám Mươi Lăm:Con Cọp Của Đồng Phong Am Chủ
Tắc thứ Tám Mươi Sáu: Quang Minh Của Vân Môn
Tắc thứ Tám Mươi Bảy: Bệnh Và Thuốc Trị Lẫn Nhau Của Vân Môn
Tắc thứ Tám Mươi Tám: Huyền Sa Tiếp Vật Lợi Sinh
Tắc thứ Tám Mươi Chín: Tay Và Mắt Của Đại Bi Bồ Tát
Tắc thứ Chín Mươi: Bát Nhã Thể Của Trí Môn
Phần 10
Tắc thứ Chín Mươi Mốt: Tê Giác Của Diêm Quan
Tắc thứ Chín Mươi Hai: Thế Tôn Một Hôm Thăng Tòa
Tắc thứ Chín Mươi Ba: Đại Quang Sư Nhảy Múa
Tắc thứ Chín Mươi Bốn: Thấy Cái Không Thấy Trong Kinh Lăng Nghiêm
Tắc thứ Chín Mươi Lăm: Tam Độc Của Trường Khánh
Tắc thứ Chín Mươi Sáu: Ba Chuyển Ngữ Của Triệu Châu
Tắc thứ Chín Mươi Bảy: Kim Cương Kinh Khinh Tiện
Tắc thứ Chín Mươi Tám: Hai Cái Sai Của Thiên Bình Hòa Thượng
Tắc thứ Chín Mươi Chín: Thập Thân Điều Ngự Của Túc Tông
Tắc thứ Một Trăm: Kiếm Sắc Của Ba Lăng 

Đọc Thêm:
Bích Nham Lục, HT. Thích Thanh Từ dịch

Source: thuvienhoasen

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 27180)
Tương Ưng Bộ (Samyutta Nikàya) là bộ kinh thứ ba trong kinh tạng Pàli (Trường bộ, Trung bộ, Tương Ưng bộ, Tăng Chi bộ, và Tiểu bộ). Bộ kinh là một tập hợp các bài kinh dài ngắn không đều...
(Xem: 21767)
Khi chúng ta thẩm tra hoàn cảnh đôi khi buồn rầu, và thỉnh thoảng vui vẻ, chúng ta khám phá ra rằng có nhiều vấn đề liên hệ với điều ấy.
(Xem: 22233)
Ý nghĩa cận sự namcận sự nữ, cần được hiểu là những cư sĩniềm tin nơi Phật-Pháp-Tăng, trọn đời nguyện phụng sự Tam bảo, luôn luôn sống theo sự hướng dẫn của Tam bảo.
(Xem: 23603)
Đạo Phật được đưa vào nước ta vào khoảng cuối thế kỷ thứ hai do những vị tăng sĩ và những thương gia Ấn Độ và Trung Á tới Việt Nam bằng đường biển Ấn Độ Dương.
(Xem: 20430)
Phật Giáo là đạo Giải Thoát. Giải là cởi mở. Ở đây là "cởi mở" những trói buộc để "thoát" ra khỏi mọi hình thức đau khổ của đời sống.
(Xem: 20056)
Trong 45 năm hoằng pháp độ sinh, Đức Phật đã du hành khắp miền Bắc Ấn độ để giảng dạy con đường giải thoát mà Ngài đã tìm ra. Rất nhiều người đã quy y với Ngài...
(Xem: 21949)
Phật Giáo là một tôn giáo có khoảng 300 triệu tín đồ trên khắp thế giới. Danh từ Phật Giáo (Buddhism) phát nguồn từ chữ "buddhi", có nghĩa "giác ngộ", "thức tỉnh".
(Xem: 24754)
Mục tiêu của Kinh Bát Đại nhân Giác là phát triển trí tuệ, đoạn tận phiền não, ô nhiễm, lậu hoặc để chứng đắc quả vị giải thoát tối hậu. Như quán niệmđại nguyệntrí tuệ phát sanh.
(Xem: 18989)
Khi biên soạn tập sách này, chúng tôi đặc biệt nghĩ đến những Phật tử sơ phát tâmbước đầu tìm hiểu giáo lý của đạo Phật trong một bối cảnh đa văn hoá và nhiều truyền thống tôn giáo.
(Xem: 24763)
Trong nguyên bản tiếng Pāli, sách nói rằng những cuộc đối thoại giữa vua Milinda và ngài Nāgasena đã diễn ra năm trăm năm sau khi Đức Phật nhập Niết Bàn.
(Xem: 30975)
Tu Ðạo là cần phải "quay trở lại." Nghĩa là gì? Tức là phải nhường cho người việc tốt lành, còn mình thì nhận phần hư xấu--xả tiểu ngã để thành tựu đại ngã.
(Xem: 23990)
Quả khổ chuyển theo nghiệp. Nghiệp chuyển theo tâm. Chỉ cần soi sáng tâm là hết khổ. Vì thế, bức tranh của Vòng luân hồi hay Con quỷ vô thường này rất quan trọng...
(Xem: 27765)
Những gì xảy ra trong thế giới này đều bị qui luật Nhân quả chi phối. Mọi thứ xuất hiện ở đời đều có nhân duyên. Hạnh phúcthế gian hay Niết bàn của người tu đạo không ra ngoài qui luật ấy.
(Xem: 26513)
Tâm vốn không – lặng, nhơn pháp mà lập danh. Tịnh pháp là người, trời, Thanh văn, Duyên giác, Bố tát và Phật. Nhiễm phápA tu la, bàng sanh, địa ngục, quỉ thú.
(Xem: 21316)
Bộ kinh Milindapanha xuất hiện vào khoảng năm trăm năm sau Phật Niết bàn, do ngài Pitakaculàbhaya ở trung Ấn độ trước thuật bằng tiếng Pàli. Nội dung kể lại những câu hỏi, đáp giữa vua Milinda và tỳ kheo Nàgasena.
(Xem: 23227)
Quyển ''Na-Tiên Tì-kheo Kinh'' là một bộ Luận ghi bằng tiếng Pali, rất nổi danh, được phiên-dịch ra nhiều thứ tiếng: tiếng Hán, tiếng Việt, tiếng Miến, tiếng Thái, tiếng Tích-lan, tiếng Anh, tiếng Pháp, v.v.
(Xem: 38133)
Quyển sách nhỏ này được viết ra nhằm mục đích giới thiệu với quý độc giả đang đi tìm giải thoát và nhất là thích tu thiền, một phương pháp hành thiền mà ít người để ý, đó là pháp Tứ Niệm Xứ.
(Xem: 18799)
Khi mới đến một vùng đất hoang để khai khẩn, mảnh đất đó có thể làm cho ta nản lòng vì cỏ gai và chướng ngại vật đầy dẫy. Ta cần phải đào, phải bứng, phải chặt, phải cày, phải bừa.
(Xem: 18439)
Ma-ha-diễn là pháp tạng sâu xa của chư Phật mười phương ba đời, vì người lợi căn đại công đức mà nói... Thích Thanh Từ
(Xem: 19976)
Tổ Sư thiền Việt Nam đã thất truyền trên hai trăm năm. Đến năm 1977, Hòa thượng hoằng dương Tổ Sư thiền và tổ chức Thiền thất đầu tiên tại Việt Nam.
(Xem: 19048)
Bản văn này chỉ giới thiệu những điểm chủ yếu có liên quan đến triết học Trung Quán một cách hết sức đơn giản, dù vậy, vẫn bao hàm được tất cả mọi yếu điểm cốt lõi của hệ phái Triết học này.
(Xem: 23172)
Viết về một triết học là đặt ra các câu hỏi về những vấn đề được bàn đến trong triết học đó. Trong trường hợp này, chúng ta thử viết một bài nghiên cứu mang tính phê bình về triết học Thế Thân.
(Xem: 23879)
Ở đây, nội dung của tập sách này chỉ giới thiệu một cách khái quát về các thể loại văn học của kinh điển và một số thể loại ngôn ngữ được dùng trong kinh điển.
(Xem: 22803)
Toàn bộ kinh Đại Bát Niết-bàn dày hơn 4500 trang, riêng phần Việt dịch chiếm gần 1700 trang; mỗi đoạn mỗi câu trong đó đều hàm chứa những ý tứ sâu xa huyền diệu không dễ gì hiểu thấu qua một vài lần đọc.
(Xem: 22912)
Chúng sinh đau khổ, trôi lăn trong sinh tử luân hồi cũng chỉ vì cái Ta, cho cái Ta có thật rồi bám víu vào nó. Trong đạo Phật gọi đây là bệnh chấp Ngã.
(Xem: 29574)
Tập Kinh Trung Bộ (Majjhima Nikàya) gồm 152 kinh tất cả, chia thành 3 tập: tập I, gồm 50 Kinh đầu, tập II gồm 50 Kinh tiếp và tập III, gồm 52 Kinh chót.
(Xem: 20641)
Quá khứ không truy tìm Tương lai không ước vọng. Quá khứ đã đoạn tận, Tương lai lại chưa đến...
(Xem: 18710)
Thường thì những mối bận tâm thế tục sẽ chỉ mang lại đau khổthất vọng trong đời này và đời sau. Những sự xuất hiện của sinh tử thì chẳng có gì là bền vững, luôn luôn thay đổi và vô thường...
(Xem: 15847)
Kinh Bát Đại Nhân Giác bố cục thành ba phần: Phần mở đầu chỉ một câu đơn giản như là giới thiệu tám điều giác ngộ; Phần hai là nội dung tám điều giác ngộ ấy...
(Xem: 18858)
Sự tịnh hóa của Kim Cương thừa nói riêng và con đường Kim Cương thừa nói chung căn cứ vào trí huệ đại lạctrí huệ tánh Không. Nhờ và bằng trí huệ đại lạctrí huệ tánh Không mà tất cả nghiệp lực được tịnh hóa.
(Xem: 19681)
Phật giáo là một sự thực tập để đối trị khổ đau. Phật nói “ta chỉ dạy về khổ đau và vượt thoát khổ đau” [3] . Ðiều này đã được Phật phát biểu trong công thức của bốn sự thực thâm diệu [tứ diệu đế].
(Xem: 20155)
Thế nào gọi là Phật Lý Căn Bản? – Giáo lý chính yếu của Phật giáo, tóm lược các quan điểm trong ba tạng (Tripitaka).
(Xem: 19954)
Khi Đức Phật tỉnh thức bước ra khỏi cơn mê mà chúng ta vẫn còn đang chìm đắm, Ngài đã nhận thức được sự thực rốt ráo của muôn vật y như chân tướng của chúng.
(Xem: 18118)
Hãy dọn tâm trí vô tư để nhìn thấy khoa học, khoa học là đề tài thảo luận của chúng ta. Khoa học là nơi gặp gỡ của chúng ta.
(Xem: 22941)
Thấy chúng sinh phàm tình mãi trầm chìm trong phiền não, nhiễm ô, thiếu chính niệm và kiềm thúc thân tâm, Đức Như Lai từ bi trí tuệ đã khai thị rất nhiều phương cách...
(Xem: 34167)
Kinh Pháp Cú (Dhammapada) là một trong 15 quyển kinh thuộc Tiểu Bộ Kinh (Khuddaka Nikaya) trong Kinh tạng Pali (Suttanta Pitaka). Ðây là một quyển kinh Phật giáo phổ thông nhất...
(Xem: 16424)
Xuất bản lần đầu vào năm 1995 (tái bản 2001), “Phật Giáo và Đạo Đức Sinh Học” (Buddhism and Bioethics) là một đóng góp có ý nghĩa của Damien Keown* cho Phật giáo về một đề tài chưa được giới Phật giáo nghiên cứu nhiều trước đó.
(Xem: 16918)
Luận thuyết được trình bày ở đây, dành cho những người ước muốn rút ra tinh túy của đời người được phú bẩm những nhàn nhã và thuận lợi, là luận thuyết được gọi là Các Giai đoạn của Con Đường Giác ngộ (Lamrim).
(Xem: 39247)
"Con đường Thiền Chỉ Thiền Quán” đã được Ngài Guṇaratana trình bày một cách khúc chiết, rõ ràng có thể giúp cho những ai muốn nghiên cứu tường tận chỗ đồng dị, cộng biệt, sinh khắc của hai pháp môn này...
(Xem: 26074)
Tâm không có màu sắc hoặc hình tượng để nhận ra được nó, nhưng nó thì tuyệt đối trống rỗng và nhận biết sáng tỏ thấu suốt hoàn toàn. (= viên minh)- đó là tự tính của tâm bạn.
(Xem: 20098)
“Phật giáo khái luận” là một tác phẩm rất có giá trị của cư sĩ Huỳnh Sĩ Phục bên Trung Quốc, lời lẽ tuy vắn tắt, nhưng đã bao hàm tất cả yếu nghĩa của các Tôn hiện hànhTrung Quốc.
(Xem: 18858)
Kinh "Chiếc lưới ái ân" được dịch từ kinh Pháp Cú, Hán Tạng. Chữ "ái ân" nằm ngay trong bài kệ thứ ba của kinh, câu “Nhân vi ân ái hoặc”.
(Xem: 24062)
Có thể nói rằng "Tánh Không luận" là một hệ thống triết học đặc thù của Phật giáo trong thời kỳ phát triển. Sự xuất hiện của nó như là một dấu ngoặc vĩ đại...
(Xem: 29144)
Nếu một người thiện nam hay tín nữ thực hànhhoàn thành Năm Thực Tập Chính Niệm, người ấy cuối cùng sẽ đạt được sự vãng sinh về vùng đất Hòa Hòa Bình và An Lạc...
(Xem: 22903)
Trước khi thực sự bắt đầu nuôi dưỡng điều được gọi là Sáu Hạnh Ba-la-mật, bạn phải phát triển động thái vị tha của tâm thức hay là hành xử của bồ-tát. Bồ-tát là người mà đã hoàn toàn từ bỏ quyền lợi tự ngã của mình...
(Xem: 30964)
Bài văn này được thiền sư Quy Sơn Linh Hựu viết ra nhằm sách tấn việc tu học của đồ chúng, nên gọi là văn cảnh sách, và lấy tên ngài để làm tựa. Từ xưa nay vẫn gọi là “Quy Sơn cảnh sách văn”.
(Xem: 21010)
Chính bộ Kinh quý báu này mở rộng cửa giải thoát cho cả hai hạng người xuất giatại gia nhập vào Pháp Môn Bất Nhị, trở về Bản Tánh Không Hai.
(Xem: 26853)
Duy Ma Cật tức là tên của ông Duy Ma Cật. Mà Duy Ma Cật là chữ Phạn. Trung Hoa dịch là Tịnh Danh. Cũng dịch là Vô Cấu. Tịnh Danh: Chữ tịnh là trong sạch.
(Xem: 20678)
Như ta biết, Tứ diệu đế là bài thuyết pháp đầu tiên của Phật sau khi thành Đạo cho năm anh em A nhã Kiều Trần Như, diễn ra tại vườn Lộc Uyển, về phía bắc thành Ba la nại.
(Xem: 26266)
Thật ra, nếu các bạn không có sự hiểu biết về Tứ diệu đế cũng như chưa tự mình thể nghiệm chân lý của lời dạy này thì các bạn sẽ không thể thực hành Phật pháp.
(Xem: 23325)
Đọc “Tổng Quan Những Con Đường Của Phật Giáo Tây Tạng”, chúng ta sẽ thấy đức Dalai Lama là một bậc Đại Tri Viên, ngài chỉ rõ tất cả mọi con đường để chúng thấy rõ, nhất là con đường Tantra...
(Xem: 19818)
Muốn có sắc như là sắc, thì người ta phải cộng hay trừ đi sắc với không, chẳng hạn, 1 + 0 = 1. Như vậy không, tức là biệt thể để sắc như là sắc, để không như là không...
(Xem: 24676)
Kinh Duy Ma Cật bất khả tư nghì, tuyệt diệu cùng tột, ý chỉ thâm huyền, chẳng phải lời nói có thể diễn tả. Siêu việt tam không (Nhơn không, Pháp không, Không không)... Tỳ Kheo Thích Duy Lực
(Xem: 30047)
Ðọc vào kinh ta nhận thấy chẳng những hàng xuất gia mới thật hành được Phật đạo, mà Cư sĩ, Bà la môn cho đến mọi tầng lớp dân chúng cũng đều thật hành được Phật đạo.
(Xem: 20223)
“Hãy tu tập An-na-ban-na niệm. Nếu Tỳ-kheo tu tập An-na-ban-na niệm, tu tập nhiều, thân chỉ tức và tâm chỉ tức, có giác, có quán, tịch diệt, thuần nhất, phân minh tưởng, tu tập đầy đủ...
(Xem: 20404)
“Quý vị khất sĩ! Phép quán niệm hơi thở, nếu được phát triển và thực hiện liên tục, sẽ đem lại những thành quảlợi lạc lớn, có thể làm thành tựu bốn lĩnh vực quán niệm (Tứ Niệm Xứ)...
(Xem: 15145)
Kinh Niệm Xứ, Satipattthana Sutta, là một bài kinh vô cùng quan trọng vì kinh này đề cập đến những đề mục hành thiền nhằm phát triển cả hai, tâm Vắng Lặng (Samatha) và trí tuệ Minh Sát (Vipassana).
(Xem: 15839)
Có một thầy trẻ đến đặt một câu hỏi với Đức Thế Tôn liên quan tới vấn đề ái dục và đã được Đức Thế Tôn trả lời câu hỏi đó bằng tám bài kệ.
(Xem: 23900)
Kinh Bách Dụ, một bộ kinh trong Đại Tạng chuyển tải ý nghĩa thâm diệu bằng những câu chuyện thí dụ rất sâu sắc. Biên soạn: Pháp sư Thánh Pháp; Việt dịch: Thích Nữ Viên Thắng; Hiệu đính: Thiện Thuận
(Xem: 19860)
Chân lý tự chứng (bản thân của Thực Tại) thì không phải một, không phải hai (bất nhị). Do năng lực tự chứng này mà (Thực Tại) là khả năng làm ích lợi bình đẳng cho tất cả kẻ khác...
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant