Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Tắc thứ Bảy Mươi Sáu: Đan Hà Hỏi Từ Đâu Tới

21 Tháng Tư 201100:00(Xem: 15354)
Tắc thứ Bảy Mươi Sáu: Đan Hà Hỏi Từ Đâu Tới

BÍCH NHAM LỤC
(MỘT TRĂM CÔNG ÁN THIỀN TÔNG)
Thích Mãn Giác dịch
Chùa Việt Nam Trung Tâm Văn Hoá Phật Giáo Việt Nam tại Hoa Kỳ 1988

Phần 8

TẮC THỨ BẢY MƯƠI SÁU

ĐAN HÀ HỎI TỪ ĐÂU TỚI

 

THÙY: Nhuyễn như bột gạo,lạnh như băng sương, chắn ngại trời đất,lìa sáng tuyệt tối. Quán nó nơi chỗ thấp thì có thừa, bình nó nơi chỗ cao thì không đủ. Nắm giữ buông bỏ đều ở đây cả, song còn có chỗ xuất thân chăng? Thử nêu lên xem.

CỬ: Đan Hà hỏi một ông tăng, “Từ đâu tới?” Ông tăng nói, “Từ dưới chân núi.” Đan Hà hỏi, “Ăn cơm chưa?” Ông tăng nói, “Ăn rồi.” Đan Hà nói, “ Người mang cơm đến cho thầy ăn có mắt hay không?” Ông tăng không nói gì được.

Trường Khánh hỏi Bảo Phúc, “Đem cơm đến cho người khác ăn, kể như là biết trả ơn. Tại sao lại không có mắt được?” Bảo Phúc nói, “Người cho và kẻ nhận cả hai đều mù cả.” Trường Khánh nói, “Nếu như họ vận dụng hết cả tâm cơ ra thì có còn mù chăng?” Bảo Phúc nói, “Chẳng lẽ tôi mù sao?”

BÌNH: Đăng Châu Đan Hà Thiên Nhiên thiền sư không biết là người gốc ở đâu. Thoạt đầu chuyên về Nho học, trên đường vào Trường An để ứng thí. Lúc nghĩ đêm ở khách điếm nằm mơ thấy ánh sáng trắng tràn đầy cả phòng. Có vị tầy bói nói rằng, “Đây là điềm lành của việc không hiểu tính không.” Ngẫu nhiên có một Thiền Khách hỏi, “Bậc nhân giả này chẳng hay đi đâu thế?” Đan Hà nói, “Đi thi để ra làm quan.” Thiền khách nói, “ Thi làm quan sao bằng thi làm Phật được?” Đan Hà hỏi, “Muốn thi làm Phật phải đi đâu cơ?” Thiền khách nói, “Giang Tây Mã Đại Sư xuất thế, đó chính là nơi để thi làm Phật, người nhân nên đến đó đi.”

Đan Hà bèn đi thẳng đến Giang Tây. Lúc thấy Mã Đãi Sư, Đan Hà nhấc khăn che ađ62u ra nhìn. Mã Đại Sư quan sát Đan Hà rồi nói, “Tôi không phải là thầy ông nên đi đến nơi của Thạch ĐầuNam Nhạc ấy.” Đan Hà bèn đến nơi của Thạch Đầu rồi cùng qui phụ Thạch Đầu với cái ý trên. Thạch Đầu bảo Đan Hà đi xuống chuồng ngựa, Đan Hà cúi lậy. Sau đó vào hành giả đường cùng với chúng tăng làm việc suốt ba năm.

Một hôm Thạch Đầu nói với đại chúng, “Ngày mai sẽ trừ cỏ dại trước Phật điện.” Hôm sau đại chúng ai nấy cũng đem theo cái xuổng để cào cỏ. Chỉ có Đan Hà lấy một chậu nước đầy rửa đầu rồi quì xuống trước Thạch Đầu. Thạch Đầu thấy thế bật cười, song cũng cạo đầu cho Đan Hà. Lúc Thạch Đầu bắt đầu giảng giới luật cho Đan Hà, Đan Hà bèn bịt tai bỏ đi.

Sau đó lại đến Giang Tây yết iến Mã Tổ. Trước khi ra mắt Mã Tổ, Đan Hà vào Tăng đường rồi cưỡi trên cổ tượng của một thánh tăng. Đại chúng kinh hãi vội vàng vào báo cho Mã Tổ. Mã Tổ đích thân vào tăng đường nhìn Đan Hà rồi nói, “Con ta thiên nhiên thật.” Đan Hà bèn leo xuống rồi cúi lạy nói, “Cám ơn thầy cho con Pháp hiệu.” Vì thế mà có tên là Thiên Nhiên. Vị cổ nhân Thiên Nhiên này mới thánh thoát làm sao. Đúng như câu nói rằng, “Thi làm quan sao bằng thi làm Phật.” Những lời dạy của Đan Hà có ghi trong sách Truyền Đăng Lục.

Những lời dạy của Đan Hà thường lừng lững như vách đá vạn trượng, mỗi câu đều có khả năng nhổ đinh bạt chốt cho thiên hạ. Giống như lúc hỏi ông tăng kia, "Từ đâu tới?” Ông tăng nói, “Từ dưới chân núi.” Song ông ta lại chẳng hề nói rõ từ chỗ nào. Giống như thể ông ta là một tay có mắt định lật ngược thế cờ lại mà thử thách chủ nhân. Nếu lúc ấy không phải là Đan Hà hẳn là ai cũng khó mà giữ vững được thế đứng. Song Đan Hà lại nói, “Ăn cơm chưa?” Thoạt đầu Đan Hà chưa nhìn ra ông tăng này, đây chính là lần thứ hai thử thách ông ta. Ông tăng nói, “Ăn rồi.” Gã mê mờ này hóa ra lại chẳng hiuể. Đan Hà nói, “Người mang cơm cho thầy ăn có mắt hay không?” Ông tăng không nói gì được. Ý Đan Hà muốn nói rằng, “Người như ông thì ăn cơm để làm gì?” Nếu như ông tăng kia là một kẻ có mắt thử khích Đan Hà một cái xem thầy ta làm thế nào. Tuy là thế, song Đan Hà vẫn chưa buông tha, cho nên ông tăng vẫn cứ đứng đó chớp mắt lặng thinh.

Bảo Phúc và Trường Khánh cùng ở trong chúng hội của Tuyết Phong. Hai người thường đem cái công án của cô nhân ra bàn luận với nhau. Trường Khánh hỏi Bảo Phúc, “Đem cơm đến cho người khác ăn, kể như là biết trả ơn. Tại sao lại không có mắt được?” Trường Khánh không hỏi hết các sự việc trong công án mà chỉ đại cương mượn những lời ấy làm thoại đầu mà thôi. Thầy ta vốn muốn thử thách sự thật của Bảo Phúc. Bảo Phúc nói, “Người cho và kẻ nhận cả hai đều mù cả.” Nhanh nhẹn thật! Đến chỗ này thầy ta chỉ thảo luận về cơ biến trực tiếp mà thôi. Trong dòng của họ, Bảo Phúc đúng là có chỗ xuất thân.

Khi Trường Khánh nói, “Nếu như họ vận dụng hết cả tâm cơ ra thì có còn mù chăng?” Bảo Phúc nói, “Chẳng lẽ tôi mù sao?” Ý Bảo Phúc muốn nói rằng, “tôi có mắt như vầy để nói hết ra cho thầy, thầy còn nói là tôi mù được sao?” Tuy là thế, song (đôi mắt của Bảo Phúc) hãy còn nửa mở nửa nhắm. Lúc ấy nếu như là sư núi tôi thì khi Trường Khánh nói, “Nếu như họ vện dụng hết cả tâm cơ ra thì có còn mù chăng?” Hẳn là tôi đã chỉ nói với thầy ta rằng, “Mù”. Đáng tiếc thật! Phải chi lúc ấy mà Bảo Phúc nói được chữ “mù” này thì hẳn đã tránh được biết bao nhiêu là dây dưa này của Tuyết Đậu. Tuyết Đậu cũng dùng ý này để tụng:

TỤNG

Hết cơ không thành mù,

Ấn đầu bò ăn cỏ.

Hăm tám và sáu bậc Tổ Sư,

Đem đồ quí đến thành có lỗi.

Lỗi quá nặng,

Không chỗ tìm.

Thiên thượng nhân gian chìm dưới dất.

BÌNH: “Hết cơ không thành mù.” Trường Khánh nói, “Nếu như họ vận dụng hết tâm cơ ra thì có còn mù chăng?” Bảo Phúc nói, “Chẳng lẽ tôi mù sao?” Đây cũng giống như thể ấn đầu con bò xuống cho nó ăn cỏ. Lẽ ra thì mình phải đợi cho nó tự ăn mới phải. Làm sao mà mình có thể ấn đầu nó xuống bắt nó ăn được? Tuyết Đậu tụng như thế này tự nhiênchúng ta hiểu được ý của Đan Hà.

“Hăm tám và sáu bậc tổ sư. Đem đô quí đến thành có lỗi.” (Tuyết Đậu) không những chỉ làm lụy Trường Khánh mà còn làm mai một luôn cả hăm tám vị Tổ bên Thiên Trúcsáu vị Tổ trên đất này (Trung Hoa). Đức Thích Ca Mâu Ni suốt bốn mươi chín năm dạy một đại tạng giáo, cuối cùng chỉ truyền một vật quí kia. Vĩnh Gia nói, “Đây không phải là sự phô bầy hình tướng rỗng tuếch mà là tung tích của cây gậy quí của Như Lai.” Nếu như các ông theo kiến giải của Bảo Phúc, thì có đem của quí đến đi nữa cũng thành có lỗi.

“Lỗi quá nặng, không chỗ tìm.” Điều này không thể nói cho các ông được, các ông cần phải đi tĩnh tọa rồi chiêm nghiệm lời ấy xem sao. Lỗi đã quá nặng, tại sao lại không có chỗ để tìm? Đây không phải là một lỗi nhẹ: đem đại sự của Tổ sư mà chôn cả trên đất bằng. Tuyết Đậu nói, “Thiên thượng nhân gian chìm dưới đất.”

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 29917)
Đây là những điều tôi được nghe hồi Đức Thế Tôn còn cư trú gần thành Xá Vệ, tại tu viện Cấp Cô Độc, trong vườn Kỳ Đà. Hôm đó, trời đã vào khuya...
(Xem: 27206)
Tương Ưng Bộ (Samyutta Nikàya) là bộ kinh thứ ba trong kinh tạng Pàli (Trường bộ, Trung bộ, Tương Ưng bộ, Tăng Chi bộ, và Tiểu bộ). Bộ kinh là một tập hợp các bài kinh dài ngắn không đều...
(Xem: 21804)
Khi chúng ta thẩm tra hoàn cảnh đôi khi buồn rầu, và thỉnh thoảng vui vẻ, chúng ta khám phá ra rằng có nhiều vấn đề liên hệ với điều ấy.
(Xem: 22267)
Ý nghĩa cận sự namcận sự nữ, cần được hiểu là những cư sĩniềm tin nơi Phật-Pháp-Tăng, trọn đời nguyện phụng sự Tam bảo, luôn luôn sống theo sự hướng dẫn của Tam bảo.
(Xem: 23646)
Đạo Phật được đưa vào nước ta vào khoảng cuối thế kỷ thứ hai do những vị tăng sĩ và những thương gia Ấn Độ và Trung Á tới Việt Nam bằng đường biển Ấn Độ Dương.
(Xem: 20469)
Phật Giáo là đạo Giải Thoát. Giải là cởi mở. Ở đây là "cởi mở" những trói buộc để "thoát" ra khỏi mọi hình thức đau khổ của đời sống.
(Xem: 20080)
Trong 45 năm hoằng pháp độ sinh, Đức Phật đã du hành khắp miền Bắc Ấn độ để giảng dạy con đường giải thoát mà Ngài đã tìm ra. Rất nhiều người đã quy y với Ngài...
(Xem: 21970)
Phật Giáo là một tôn giáo có khoảng 300 triệu tín đồ trên khắp thế giới. Danh từ Phật Giáo (Buddhism) phát nguồn từ chữ "buddhi", có nghĩa "giác ngộ", "thức tỉnh".
(Xem: 24787)
Mục tiêu của Kinh Bát Đại nhân Giác là phát triển trí tuệ, đoạn tận phiền não, ô nhiễm, lậu hoặc để chứng đắc quả vị giải thoát tối hậu. Như quán niệmđại nguyệntrí tuệ phát sanh.
(Xem: 19024)
Khi biên soạn tập sách này, chúng tôi đặc biệt nghĩ đến những Phật tử sơ phát tâmbước đầu tìm hiểu giáo lý của đạo Phật trong một bối cảnh đa văn hoá và nhiều truyền thống tôn giáo.
(Xem: 24797)
Trong nguyên bản tiếng Pāli, sách nói rằng những cuộc đối thoại giữa vua Milinda và ngài Nāgasena đã diễn ra năm trăm năm sau khi Đức Phật nhập Niết Bàn.
(Xem: 31013)
Tu Ðạo là cần phải "quay trở lại." Nghĩa là gì? Tức là phải nhường cho người việc tốt lành, còn mình thì nhận phần hư xấu--xả tiểu ngã để thành tựu đại ngã.
(Xem: 24020)
Quả khổ chuyển theo nghiệp. Nghiệp chuyển theo tâm. Chỉ cần soi sáng tâm là hết khổ. Vì thế, bức tranh của Vòng luân hồi hay Con quỷ vô thường này rất quan trọng...
(Xem: 27797)
Những gì xảy ra trong thế giới này đều bị qui luật Nhân quả chi phối. Mọi thứ xuất hiện ở đời đều có nhân duyên. Hạnh phúcthế gian hay Niết bàn của người tu đạo không ra ngoài qui luật ấy.
(Xem: 26564)
Tâm vốn không – lặng, nhơn pháp mà lập danh. Tịnh pháp là người, trời, Thanh văn, Duyên giác, Bố tát và Phật. Nhiễm phápA tu la, bàng sanh, địa ngục, quỉ thú.
(Xem: 21384)
Bộ kinh Milindapanha xuất hiện vào khoảng năm trăm năm sau Phật Niết bàn, do ngài Pitakaculàbhaya ở trung Ấn độ trước thuật bằng tiếng Pàli. Nội dung kể lại những câu hỏi, đáp giữa vua Milinda và tỳ kheo Nàgasena.
(Xem: 23251)
Quyển ''Na-Tiên Tì-kheo Kinh'' là một bộ Luận ghi bằng tiếng Pali, rất nổi danh, được phiên-dịch ra nhiều thứ tiếng: tiếng Hán, tiếng Việt, tiếng Miến, tiếng Thái, tiếng Tích-lan, tiếng Anh, tiếng Pháp, v.v.
(Xem: 38187)
Quyển sách nhỏ này được viết ra nhằm mục đích giới thiệu với quý độc giả đang đi tìm giải thoát và nhất là thích tu thiền, một phương pháp hành thiền mà ít người để ý, đó là pháp Tứ Niệm Xứ.
(Xem: 18820)
Khi mới đến một vùng đất hoang để khai khẩn, mảnh đất đó có thể làm cho ta nản lòng vì cỏ gai và chướng ngại vật đầy dẫy. Ta cần phải đào, phải bứng, phải chặt, phải cày, phải bừa.
(Xem: 18454)
Ma-ha-diễn là pháp tạng sâu xa của chư Phật mười phương ba đời, vì người lợi căn đại công đức mà nói... Thích Thanh Từ
(Xem: 20013)
Tổ Sư thiền Việt Nam đã thất truyền trên hai trăm năm. Đến năm 1977, Hòa thượng hoằng dương Tổ Sư thiền và tổ chức Thiền thất đầu tiên tại Việt Nam.
(Xem: 19075)
Bản văn này chỉ giới thiệu những điểm chủ yếu có liên quan đến triết học Trung Quán một cách hết sức đơn giản, dù vậy, vẫn bao hàm được tất cả mọi yếu điểm cốt lõi của hệ phái Triết học này.
(Xem: 23212)
Viết về một triết học là đặt ra các câu hỏi về những vấn đề được bàn đến trong triết học đó. Trong trường hợp này, chúng ta thử viết một bài nghiên cứu mang tính phê bình về triết học Thế Thân.
(Xem: 23919)
Ở đây, nội dung của tập sách này chỉ giới thiệu một cách khái quát về các thể loại văn học của kinh điển và một số thể loại ngôn ngữ được dùng trong kinh điển.
(Xem: 22848)
Toàn bộ kinh Đại Bát Niết-bàn dày hơn 4500 trang, riêng phần Việt dịch chiếm gần 1700 trang; mỗi đoạn mỗi câu trong đó đều hàm chứa những ý tứ sâu xa huyền diệu không dễ gì hiểu thấu qua một vài lần đọc.
(Xem: 22960)
Chúng sinh đau khổ, trôi lăn trong sinh tử luân hồi cũng chỉ vì cái Ta, cho cái Ta có thật rồi bám víu vào nó. Trong đạo Phật gọi đây là bệnh chấp Ngã.
(Xem: 29622)
Tập Kinh Trung Bộ (Majjhima Nikàya) gồm 152 kinh tất cả, chia thành 3 tập: tập I, gồm 50 Kinh đầu, tập II gồm 50 Kinh tiếp và tập III, gồm 52 Kinh chót.
(Xem: 20659)
Quá khứ không truy tìm Tương lai không ước vọng. Quá khứ đã đoạn tận, Tương lai lại chưa đến...
(Xem: 18746)
Thường thì những mối bận tâm thế tục sẽ chỉ mang lại đau khổthất vọng trong đời này và đời sau. Những sự xuất hiện của sinh tử thì chẳng có gì là bền vững, luôn luôn thay đổi và vô thường...
(Xem: 15873)
Kinh Bát Đại Nhân Giác bố cục thành ba phần: Phần mở đầu chỉ một câu đơn giản như là giới thiệu tám điều giác ngộ; Phần hai là nội dung tám điều giác ngộ ấy...
(Xem: 18881)
Sự tịnh hóa của Kim Cương thừa nói riêng và con đường Kim Cương thừa nói chung căn cứ vào trí huệ đại lạctrí huệ tánh Không. Nhờ và bằng trí huệ đại lạctrí huệ tánh Không mà tất cả nghiệp lực được tịnh hóa.
(Xem: 19710)
Phật giáo là một sự thực tập để đối trị khổ đau. Phật nói “ta chỉ dạy về khổ đau và vượt thoát khổ đau” [3] . Ðiều này đã được Phật phát biểu trong công thức của bốn sự thực thâm diệu [tứ diệu đế].
(Xem: 20196)
Thế nào gọi là Phật Lý Căn Bản? – Giáo lý chính yếu của Phật giáo, tóm lược các quan điểm trong ba tạng (Tripitaka).
(Xem: 19979)
Khi Đức Phật tỉnh thức bước ra khỏi cơn mê mà chúng ta vẫn còn đang chìm đắm, Ngài đã nhận thức được sự thực rốt ráo của muôn vật y như chân tướng của chúng.
(Xem: 18150)
Hãy dọn tâm trí vô tư để nhìn thấy khoa học, khoa học là đề tài thảo luận của chúng ta. Khoa học là nơi gặp gỡ của chúng ta.
(Xem: 22984)
Thấy chúng sinh phàm tình mãi trầm chìm trong phiền não, nhiễm ô, thiếu chính niệm và kiềm thúc thân tâm, Đức Như Lai từ bi trí tuệ đã khai thị rất nhiều phương cách...
(Xem: 34214)
Kinh Pháp Cú (Dhammapada) là một trong 15 quyển kinh thuộc Tiểu Bộ Kinh (Khuddaka Nikaya) trong Kinh tạng Pali (Suttanta Pitaka). Ðây là một quyển kinh Phật giáo phổ thông nhất...
(Xem: 16449)
Xuất bản lần đầu vào năm 1995 (tái bản 2001), “Phật Giáo và Đạo Đức Sinh Học” (Buddhism and Bioethics) là một đóng góp có ý nghĩa của Damien Keown* cho Phật giáo về một đề tài chưa được giới Phật giáo nghiên cứu nhiều trước đó.
(Xem: 16950)
Luận thuyết được trình bày ở đây, dành cho những người ước muốn rút ra tinh túy của đời người được phú bẩm những nhàn nhã và thuận lợi, là luận thuyết được gọi là Các Giai đoạn của Con Đường Giác ngộ (Lamrim).
(Xem: 39302)
"Con đường Thiền Chỉ Thiền Quán” đã được Ngài Guṇaratana trình bày một cách khúc chiết, rõ ràng có thể giúp cho những ai muốn nghiên cứu tường tận chỗ đồng dị, cộng biệt, sinh khắc của hai pháp môn này...
(Xem: 26125)
Tâm không có màu sắc hoặc hình tượng để nhận ra được nó, nhưng nó thì tuyệt đối trống rỗng và nhận biết sáng tỏ thấu suốt hoàn toàn. (= viên minh)- đó là tự tính của tâm bạn.
(Xem: 20136)
“Phật giáo khái luận” là một tác phẩm rất có giá trị của cư sĩ Huỳnh Sĩ Phục bên Trung Quốc, lời lẽ tuy vắn tắt, nhưng đã bao hàm tất cả yếu nghĩa của các Tôn hiện hànhTrung Quốc.
(Xem: 18881)
Kinh "Chiếc lưới ái ân" được dịch từ kinh Pháp Cú, Hán Tạng. Chữ "ái ân" nằm ngay trong bài kệ thứ ba của kinh, câu “Nhân vi ân ái hoặc”.
(Xem: 24104)
Có thể nói rằng "Tánh Không luận" là một hệ thống triết học đặc thù của Phật giáo trong thời kỳ phát triển. Sự xuất hiện của nó như là một dấu ngoặc vĩ đại...
(Xem: 29181)
Nếu một người thiện nam hay tín nữ thực hànhhoàn thành Năm Thực Tập Chính Niệm, người ấy cuối cùng sẽ đạt được sự vãng sinh về vùng đất Hòa Hòa Bình và An Lạc...
(Xem: 22931)
Trước khi thực sự bắt đầu nuôi dưỡng điều được gọi là Sáu Hạnh Ba-la-mật, bạn phải phát triển động thái vị tha của tâm thức hay là hành xử của bồ-tát. Bồ-tát là người mà đã hoàn toàn từ bỏ quyền lợi tự ngã của mình...
(Xem: 31003)
Bài văn này được thiền sư Quy Sơn Linh Hựu viết ra nhằm sách tấn việc tu học của đồ chúng, nên gọi là văn cảnh sách, và lấy tên ngài để làm tựa. Từ xưa nay vẫn gọi là “Quy Sơn cảnh sách văn”.
(Xem: 21045)
Chính bộ Kinh quý báu này mở rộng cửa giải thoát cho cả hai hạng người xuất giatại gia nhập vào Pháp Môn Bất Nhị, trở về Bản Tánh Không Hai.
(Xem: 26891)
Duy Ma Cật tức là tên của ông Duy Ma Cật. Mà Duy Ma Cật là chữ Phạn. Trung Hoa dịch là Tịnh Danh. Cũng dịch là Vô Cấu. Tịnh Danh: Chữ tịnh là trong sạch.
(Xem: 20713)
Như ta biết, Tứ diệu đế là bài thuyết pháp đầu tiên của Phật sau khi thành Đạo cho năm anh em A nhã Kiều Trần Như, diễn ra tại vườn Lộc Uyển, về phía bắc thành Ba la nại.
(Xem: 26292)
Thật ra, nếu các bạn không có sự hiểu biết về Tứ diệu đế cũng như chưa tự mình thể nghiệm chân lý của lời dạy này thì các bạn sẽ không thể thực hành Phật pháp.
(Xem: 23362)
Đọc “Tổng Quan Những Con Đường Của Phật Giáo Tây Tạng”, chúng ta sẽ thấy đức Dalai Lama là một bậc Đại Tri Viên, ngài chỉ rõ tất cả mọi con đường để chúng thấy rõ, nhất là con đường Tantra...
(Xem: 19844)
Muốn có sắc như là sắc, thì người ta phải cộng hay trừ đi sắc với không, chẳng hạn, 1 + 0 = 1. Như vậy không, tức là biệt thể để sắc như là sắc, để không như là không...
(Xem: 24707)
Kinh Duy Ma Cật bất khả tư nghì, tuyệt diệu cùng tột, ý chỉ thâm huyền, chẳng phải lời nói có thể diễn tả. Siêu việt tam không (Nhơn không, Pháp không, Không không)... Tỳ Kheo Thích Duy Lực
(Xem: 30056)
Ðọc vào kinh ta nhận thấy chẳng những hàng xuất gia mới thật hành được Phật đạo, mà Cư sĩ, Bà la môn cho đến mọi tầng lớp dân chúng cũng đều thật hành được Phật đạo.
(Xem: 20248)
“Hãy tu tập An-na-ban-na niệm. Nếu Tỳ-kheo tu tập An-na-ban-na niệm, tu tập nhiều, thân chỉ tức và tâm chỉ tức, có giác, có quán, tịch diệt, thuần nhất, phân minh tưởng, tu tập đầy đủ...
(Xem: 20438)
“Quý vị khất sĩ! Phép quán niệm hơi thở, nếu được phát triển và thực hiện liên tục, sẽ đem lại những thành quảlợi lạc lớn, có thể làm thành tựu bốn lĩnh vực quán niệm (Tứ Niệm Xứ)...
(Xem: 15169)
Kinh Niệm Xứ, Satipattthana Sutta, là một bài kinh vô cùng quan trọng vì kinh này đề cập đến những đề mục hành thiền nhằm phát triển cả hai, tâm Vắng Lặng (Samatha) và trí tuệ Minh Sát (Vipassana).
(Xem: 15854)
Có một thầy trẻ đến đặt một câu hỏi với Đức Thế Tôn liên quan tới vấn đề ái dục và đã được Đức Thế Tôn trả lời câu hỏi đó bằng tám bài kệ.
(Xem: 23935)
Kinh Bách Dụ, một bộ kinh trong Đại Tạng chuyển tải ý nghĩa thâm diệu bằng những câu chuyện thí dụ rất sâu sắc. Biên soạn: Pháp sư Thánh Pháp; Việt dịch: Thích Nữ Viên Thắng; Hiệu đính: Thiện Thuận
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant