Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Tắc thứ Mười Chín: Ngón Tay Thiên Của Câu Chi

21 Tháng Tư 201100:00(Xem: 15459)
Tắc thứ Mười Chín: Ngón Tay Thiên Của Câu Chi

BÍCH NHAM LỤC
(MỘT TRĂM CÔNG ÁN THIỀN TÔNG)
Thích Mãn Giác dịch
Chùa Việt Nam Trung Tâm Văn Hoá Phật Giáo Việt Nam tại Hoa Kỳ 1988

Phần 2

TẮC THỨ MƯỜI CHÍN

NGÓN TAY THIỀN CỦA CÂU CHI

 

THÙY: Một hạt bụi bay gom cả trời đất, một đóa hoa nở cả thế giới mở. Có điều trước khi hạt bụi bay lên và đóa hoa nở ra thì người ta phải nhìn như thế nào? Cho nên mới có câu nói, “Như cắt một cuộn chỉ, một sợi bị cắt là cả cuộn bị cắt. Như nhuộm một cuộn chỉ, một sợi bị nhuộm là cả cuộn bị nhuộm.”

Hiện giờ phải cắt đứt hết các dây dưa. Sử dụng hết gia tài trong nhà ra mà ứng với hoàn cảnh, cao thấp trước sau không hề sai biệt. Lúc ấy mọi cái sẽ hiện thành, thảng hoặc chưa được như thế, xin xem văn dưới đây.

CỬ: Câu Chi hòa thượng mỗi khi có ai hỏi gì chỉ dơ một ngón tay lên.

BÌNH: Nếu như dựa vào ngón tay mà hiểu là phụ lòng Câu Chi; còn nếu không dựa vào ngón tay mà hiểu thì cũng tựa như đục sắt vậy. Hiểu cũng thế mà không hiểu cũng thế, cao cũng thế mà thấp cũng thế, đúng cũng thế mà sai cũng thế. Cho nên mới có câu nói, “Một hạt bụi bay gom cả trời đất, một đóa hoa nở cả thế giới khởi, một con sư tử trên đầu một sợi lông hiện ra trên hàng tỉ sợi lông.”[28]

Viên Minh nói, “Lạnh thì cả trời đất lạnh, nóng thì cả trời đất nóng.” Sơn hà đại địa xuống tận suối vàng, sâm la vạn tượng lên tận trời cao. Thử nói xem, đây là cái gì và có gì là kỳ quái? Nếu như hiểu được thì chẳng có gì đáng ra sức, nếu như không hiểu được thì sẽ bị tắc nghẽn cả.

Câu Chi hòa thượng là người Kim Hoa Sơn thuộc Vụ Châu. Thuở xưa lúc Sư còn ở trong thảo am có một bà ni tên là Thực Tế đến nơi am của Sư. Vào thẳng bên trong, khnôg buồn cởi nón ra mà chỉ cầm tích trượng đi quanh giường Thiền ba vòng nói, “Nếu thầy nói được thì tôi cởi nón.” Hỏi như thế ba lần, Câu Chi không trả lời được. Bà ni bèn bỏ đi. Câu Chi nói, “ Trời cũng đã tối rồi, cô nghỉ lại một đêm cũng được.” Bà ni lại nói, “ Nếu thầy nói được thì tôi sẽ nghĩ lại.” Câu Chi thở dài nói, “ Ta tuy ở trong thân thể của bậc trượng phu, mà thiếu mất cái khí khái của bậc trượng phu.” Rồi phát phẫn nhất định phải tìm hiểu vấn đề này.

Sau đó Sư bèn nghĩ đến việc bỏ am mà đi các nơi để tham vấn các thiện tri thức, cho nên chuẩn bị sẵn sàng để hành cước. Đêm ấy sơn thần nói với Sư rằng, “ Thầy không cần phải rời nơi này, ngày mai sẽ có vị nhục thân Bồ tát đến đây thuyết pháp cho thầy, thầy không cần phải đi đâu cả.” Hôm sau quả nhiên Thiên Long hòa thượng đến am của sư. Câu Chi bèn tiếp đón với đầy đủ nghi lễ và kể lại chuyện hôm trước. Thiên Long chỉ dơ một ngón tay lên cho Câu Chi. Câu Chi hốt nhiên đại ngộ. Vì lúc ấytrịnh trọngchuyên chú cho nên đáy thùng mới dễ rơi ra như thế. Sau này bất cứ có ai hỏi gì Câu Chi cũng chỉ dơ một ngón tay lên.

BÌNH: Nếu như dựa vào ngón tay mà hiểu là phụ lòng Câu Chi; còn nếu không dựa vào ngón tay mà hiểu thì cũng tựa như đục sắt vậy. Hiểu cũng thế mà không hiểu cũng thế, cao cũng thế mà sai cũng thế. Cho nên mới có câu nói, “Một hạt bụi bay gom cả trời đất, một đóa hoa nở cả thế giới khởi, một con sư tử trên đầu một sợi lông hiện ra trên hàng tỉ sợi lông.”[29]

Viên Minh nói, “ Lạnh thì cả trời đất lạnh, nóng thì cả trời đất nóng.” Sơn hà đại địa xuống tận suối vàng, sâm la vạn tượng lên tận trời cao. thử nói xem, đây là cái gì và có gì là kỳ quái? Nếu như hiểu được thì chẳng có gì đáng ra sức, nếu như không hiểu được thì sẽ bị tắc nghẽn cả.

Câu Chi hòa thượng là người Kim Hoa Sơn thuộc Vụ Châu. Thuở xưa lúc Sư còn ở trong thảo am có một bà ni tên là Thực Tế đến nơi am của Sư. Vào thẳng bên trong , không buồn cởi nón ra mà chỉ cầm tích trượng đi quanh giường Thiền ba vòng nói, “ Nếu thầy nói được thì tôi cởi nón.” Hỏi như thế ba lần, Câu Chi không trả lời được. Bà ni bèn bỏ đi.Câu Chi nói, “ Trời cũng đã tối rồi, cô nghỉ lại một đêm cũng được.” Bà ni lại nói, “ Nếu thầy nói được thì tôi sẽ nghĩ lại.” Câu Chi lại cũng không nói gì được. Bà ni bỏ đi. Câu Chi thở dài nói, “ Ta tuy ở trong thân thể của bậc trượng phu, mà thiếu mất cái khí khái của bậc trượng phu.” Rồi phát phẫn nhất định phải tìm hiểu vấn đền này.

Sau đó Sư bèn nghĩ đến việc bỏ am mà đi các nơi đế tham vấn các thiện tri thức, cho nên chuẩn bị sẵn sàng để hành cước. Đêm ấy sơn thần nói với Sư rằng, “ Thầy không cần phải rời nơi này, ngày mai sẽ có vị phục thân Bồ Tát đến đây thuyết pháp cho thầy, thầy không cần phải đi đâu cả.” Hôm sau quả nhiên Thiên Long hòa thượng đến am của Sư. Câu Chi bèn tiếp đón với đầy đủ nghi lễ và kể lại chuyện hôm trước. Thiên Long chỉ dơ một ngón tay lên cho Câu Chi. Câu Chi hốt nhiên đại ngộ. Vì lúc ấytrịnh trọngchuyên chú cho nên đáy thùng mới dễ rơi ra như thế. Sau này bất cứ có ai hỏi Câu Chi cũng chỉ dơ một ngón tay lên.

Trường Khánh nói, “Đồ ăn ngon không để nuôi người no.” Huyền Giác nói, “ Huyền Sa nói như thế có nghĩa là gì?” Vân Cư Tích nói, “ Huyền sa nói như thế là chấp nhận hay không chấp nhận Câu Chi? Nếu chấp nhận tại sao lại nói là sẽ bẻ gãy ngón tay? Nếu không chấp nhận, thì Câu Chi lầm ở chỗ nào?” Tào sơn Bổn Tịch nói, “ Chỗ tiếp thu của Câu Chi có hơi sơ sài. Chỉ hiểu được một phương tiện một viễn cảnh mà thôi. Thầy ta chỉ biết vỗ tay xoa tay, ta thấy Tây Viên mới là đặc biệt.”[30] Huyền Giác lại nói, “ Thử nói xem, Câu Chi có ngộ hay không? Tại sao lại nói là chỗ tiếp thu của thầy ta có hơi sơ sài?” Nếu như chưa ngộ thì tại sao thầy ta lại nói, “ Ta bình sinh chỉ dùng một ngón tay Thiền mãi không hết.” Thử nói xem, ý của Tào Sơn là gì?

Lúc ấy đương nhiên Câu Chi không hiểu, đến lúc sau khi thầy ta ngộ rồi, bất cứ có ai hỏi gì Câu Chi cũng chìa đưa một ngón tay lên. Tại sao mà ngàn người vạn người không bẫy thầy ta hay không đập tan được (phương tiện) của thầy ta? Nếu như các ông hiểu theo ngón tay, nhất định là các ông không hiểu được ý của cổ nhân. Loại Thiền này dễ tham song khó hiểu. Người thời buổi này vừa bị hỏi đã dơ ngón tay dơ nắm tay, ấy chỉ là dở trò ma quỉ mà thôi. Cần phải thấu xương thấu tủy nhìn tận vào (vấn đề) thì mới hiểu được.

Trong am của Câu Chi có một đồng tử. Lúc ra ngoài có người hỏi, “ Bình thường hòa thượng của chú dùng phương pháp gì để dạy thiên hạ?” Đồng tử do ngón tay lên. Lúc về thuật lại cho Câu Chi, Câu Chi lấy dao cắt ngón tay đồng tử. Đồng tử vừa kêu ầm ĩ vừa chạy, Câu Chi gọi đồng tử. Đồng tử quay lại, Câu Chi bèn dơ ngón tay lên. đồng tử thoát nhiên hiểu thấu. Thử nói xem, đồng tử thấy được đạo lý gì vậy? Lúc sắp mất, Câu Chi dạy chúng rằng, “ Ta đắc được nơi Thiên long một ngón tay Thiền cả đời dùng không hết. Các ông có muốn hiểu chăng? Rồi dơ ngón tay lên mà mất.

Sau này độc Nhãn Long Minh chiếu hỏi sư thúc là Quốc Thái Thâm rằng, “ Cổ nhân nói Câu Chi chỉ đọc ba dòng chữ mà được tiếng vượt hơn mọi người. Làm thế nào có thể nêu ba dòng chữ kia lên cho thiên hạ được?” Thâm cũng dơ một ngón tay lên. Minh Chiếu nói, “ Nếu không nhân ngày hôm nay , làm sao tôi quen được người khách Qua Châu?” Thử nói xem, ý thầy ta muốn nói gì?

Bí Ma bình sinh chỉ dùng một cái chỉa ba. Đả Địa hòa thượng bình sinh bất cứ có ai hỏi gì cũng chỉ đầp xuống đất một cái. Sau này có người giấu mất cái gậy của thầy ta đi rồi hỏi, “ Phật là gì?” Đả Địa chỉ há to miệng ra . Đây cũng là những phương pháp mà cả đời dùng không hết.

Vô Nghiệp nói, “ Tổ Đạt Ma quán thấy đất này (Trung Hoa) có căn khí đại thừa, nên truyền tâm ấn để chỉ dạy những kẻ lạc nẻo mê. Những người đắc được (tâm ấn) chẳng còn phải so đo giữa ngu với trí, phàm với thánh. Nhiều giả không bằng một chút thật. Kẻ đại trượng phu hẳn sẽ lập tức ngơi nghỉ ngay, dứt bặt vạn duyên, vượt qua dòng sinh tử, thoát ra ngoài các khuôn khổ bình thường. Dù có quyến thuộc trang nghiêm đi nữa, không cần cầy mà tự nhiên đắc. “ Vô nghiệp bình sinh bất cứ có ai hỏi gì cũng chỉ nói, “Đừng vọng tưởng.” Cho nên mới có câu nói, “ Thầu được một đối tượng thì ngàn vạn đối tượng trong một lúc thấu được cà. Hiểu được một phương tiện, thì đột nhiên hiểu được ngàn vạn phương tiện.”

Người bây giờ thì không như thế, chỉ chìm đắm trong ý niệmkiến chấp, không hiểu được chỗ giác ngộ của cổ nhân. Câu Chi há không có phương pháp nào để thay đổi sao? Tại sao lại chỉ dùng một ngón tay? Cần phải biết rằng chính ở chỗ này mà Câu Chi vì người khác một cách sâu xa mật thiết làm sao!

Các ông có muốn biết phương pháp giữ gìn sức lực không? Trở lại với câu nói của Viên Minh, “Lạnh thì cả trời đất lạnh, nóng thì cả trời đất nóng.” Sơn hà đại địa vượt lên lừng lững, sâm la vạn tượng trườn xuống gập ghềnh. Biết tìm một ngón tay Thiền ở đâu đây?

TỤNG: 

Thâm ái Câu Chi khéo dạy người

Vũ trụ vốn không nào có ai?

Từng thả nhánh bè trong biển lớn,

Sóng đêm đẩy tới con rùa mù.

BÌNH: Tuyết Đậu rất là thông thạo văn chương. Thầy rất thích tụng các công án bí hiểm.” Thâm ái Câu Chi khéo dạy người,vũ trụ vốn không nào có ai?” Học giả ngày nay khen chê cổ nhân, hoặc chủ hoặc khách, một vấn một đáp, Tuyết Đậu nêu lên ngay cả, đó chính là cách giúp người khác của thầy ta. Cho nên mới nói, “ Thâm ái Câu Chi khéo dạy người.” Thử nói xem, tại sao Tuyết Đậu lại thương mến Câu Chi? kể từ tạo thiên lập địa đến nay từng có ai? Chỉ có một mình lão Câu Chi mà thôi. Nếu như là người khác thế nào cũng ôm đồm, chỉ có mình Câu Chi là có thể dùng một ngón tay Thiền cho đến khi già chết.

Người ta thường giải thích lầm lạc rằng, “ Sơn hà đại địa cũng không, nhân cũng không, pháp cũng không. Dù cho vũ trụ đột nhiên biến thánh không thì cũng chỉ còn một mình lão Câu Chi này mà thôi.” Song chẳng có gì nhằm nhò đến công án này cả.

“Từng thả nhánh bè trong biển lớn.” Ngày nay người ta gọi đó là biển sinh tử. Chúng sinh ngụp lặn trong biển nghiệp, không hiểu rõ chính mình, chẳng bao giờ thoát khỏi được. câu Chi dùng từ bi mà tiếp vật, ở trong biển sinh tử dùng một ngón tay Thiền mà cứu thiên hạ, giống như thể ném nhánh cây nổi xuống để cứu con rùa mù, khiến chúng sinh qua được bờ bến kia.

“Sóng đêm đẩy tới con rùa mù.” Kinh Pháp Hoa nói, “Như con rùa chột bám vào nhánh cây nổi mà thoát khỏi chết chìm.” Khi bậc thiện tri thức tiếp được một kẻ như rồng như cọp, khiến gã hướng về thế giới có Phật để cùng làm chủ khách, về thế giới không có Phật để cắt đoạn đường nối. Tiếp được con rùa mù thì làm được gì?

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 29901)
Đây là những điều tôi được nghe hồi Đức Thế Tôn còn cư trú gần thành Xá Vệ, tại tu viện Cấp Cô Độc, trong vườn Kỳ Đà. Hôm đó, trời đã vào khuya...
(Xem: 27182)
Tương Ưng Bộ (Samyutta Nikàya) là bộ kinh thứ ba trong kinh tạng Pàli (Trường bộ, Trung bộ, Tương Ưng bộ, Tăng Chi bộ, và Tiểu bộ). Bộ kinh là một tập hợp các bài kinh dài ngắn không đều...
(Xem: 21774)
Khi chúng ta thẩm tra hoàn cảnh đôi khi buồn rầu, và thỉnh thoảng vui vẻ, chúng ta khám phá ra rằng có nhiều vấn đề liên hệ với điều ấy.
(Xem: 22239)
Ý nghĩa cận sự namcận sự nữ, cần được hiểu là những cư sĩniềm tin nơi Phật-Pháp-Tăng, trọn đời nguyện phụng sự Tam bảo, luôn luôn sống theo sự hướng dẫn của Tam bảo.
(Xem: 23615)
Đạo Phật được đưa vào nước ta vào khoảng cuối thế kỷ thứ hai do những vị tăng sĩ và những thương gia Ấn Độ và Trung Á tới Việt Nam bằng đường biển Ấn Độ Dương.
(Xem: 20433)
Phật Giáo là đạo Giải Thoát. Giải là cởi mở. Ở đây là "cởi mở" những trói buộc để "thoát" ra khỏi mọi hình thức đau khổ của đời sống.
(Xem: 20056)
Trong 45 năm hoằng pháp độ sinh, Đức Phật đã du hành khắp miền Bắc Ấn độ để giảng dạy con đường giải thoát mà Ngài đã tìm ra. Rất nhiều người đã quy y với Ngài...
(Xem: 21951)
Phật Giáo là một tôn giáo có khoảng 300 triệu tín đồ trên khắp thế giới. Danh từ Phật Giáo (Buddhism) phát nguồn từ chữ "buddhi", có nghĩa "giác ngộ", "thức tỉnh".
(Xem: 24760)
Mục tiêu của Kinh Bát Đại nhân Giác là phát triển trí tuệ, đoạn tận phiền não, ô nhiễm, lậu hoặc để chứng đắc quả vị giải thoát tối hậu. Như quán niệmđại nguyệntrí tuệ phát sanh.
(Xem: 18995)
Khi biên soạn tập sách này, chúng tôi đặc biệt nghĩ đến những Phật tử sơ phát tâmbước đầu tìm hiểu giáo lý của đạo Phật trong một bối cảnh đa văn hoá và nhiều truyền thống tôn giáo.
(Xem: 24772)
Trong nguyên bản tiếng Pāli, sách nói rằng những cuộc đối thoại giữa vua Milinda và ngài Nāgasena đã diễn ra năm trăm năm sau khi Đức Phật nhập Niết Bàn.
(Xem: 30988)
Tu Ðạo là cần phải "quay trở lại." Nghĩa là gì? Tức là phải nhường cho người việc tốt lành, còn mình thì nhận phần hư xấu--xả tiểu ngã để thành tựu đại ngã.
(Xem: 23998)
Quả khổ chuyển theo nghiệp. Nghiệp chuyển theo tâm. Chỉ cần soi sáng tâm là hết khổ. Vì thế, bức tranh của Vòng luân hồi hay Con quỷ vô thường này rất quan trọng...
(Xem: 27766)
Những gì xảy ra trong thế giới này đều bị qui luật Nhân quả chi phối. Mọi thứ xuất hiện ở đời đều có nhân duyên. Hạnh phúcthế gian hay Niết bàn của người tu đạo không ra ngoài qui luật ấy.
(Xem: 26530)
Tâm vốn không – lặng, nhơn pháp mà lập danh. Tịnh pháp là người, trời, Thanh văn, Duyên giác, Bố tát và Phật. Nhiễm phápA tu la, bàng sanh, địa ngục, quỉ thú.
(Xem: 21331)
Bộ kinh Milindapanha xuất hiện vào khoảng năm trăm năm sau Phật Niết bàn, do ngài Pitakaculàbhaya ở trung Ấn độ trước thuật bằng tiếng Pàli. Nội dung kể lại những câu hỏi, đáp giữa vua Milinda và tỳ kheo Nàgasena.
(Xem: 23234)
Quyển ''Na-Tiên Tì-kheo Kinh'' là một bộ Luận ghi bằng tiếng Pali, rất nổi danh, được phiên-dịch ra nhiều thứ tiếng: tiếng Hán, tiếng Việt, tiếng Miến, tiếng Thái, tiếng Tích-lan, tiếng Anh, tiếng Pháp, v.v.
(Xem: 38146)
Quyển sách nhỏ này được viết ra nhằm mục đích giới thiệu với quý độc giả đang đi tìm giải thoát và nhất là thích tu thiền, một phương pháp hành thiền mà ít người để ý, đó là pháp Tứ Niệm Xứ.
(Xem: 18807)
Khi mới đến một vùng đất hoang để khai khẩn, mảnh đất đó có thể làm cho ta nản lòng vì cỏ gai và chướng ngại vật đầy dẫy. Ta cần phải đào, phải bứng, phải chặt, phải cày, phải bừa.
(Xem: 18439)
Ma-ha-diễn là pháp tạng sâu xa của chư Phật mười phương ba đời, vì người lợi căn đại công đức mà nói... Thích Thanh Từ
(Xem: 19994)
Tổ Sư thiền Việt Nam đã thất truyền trên hai trăm năm. Đến năm 1977, Hòa thượng hoằng dương Tổ Sư thiền và tổ chức Thiền thất đầu tiên tại Việt Nam.
(Xem: 19055)
Bản văn này chỉ giới thiệu những điểm chủ yếu có liên quan đến triết học Trung Quán một cách hết sức đơn giản, dù vậy, vẫn bao hàm được tất cả mọi yếu điểm cốt lõi của hệ phái Triết học này.
(Xem: 23182)
Viết về một triết học là đặt ra các câu hỏi về những vấn đề được bàn đến trong triết học đó. Trong trường hợp này, chúng ta thử viết một bài nghiên cứu mang tính phê bình về triết học Thế Thân.
(Xem: 23894)
Ở đây, nội dung của tập sách này chỉ giới thiệu một cách khái quát về các thể loại văn học của kinh điển và một số thể loại ngôn ngữ được dùng trong kinh điển.
(Xem: 22822)
Toàn bộ kinh Đại Bát Niết-bàn dày hơn 4500 trang, riêng phần Việt dịch chiếm gần 1700 trang; mỗi đoạn mỗi câu trong đó đều hàm chứa những ý tứ sâu xa huyền diệu không dễ gì hiểu thấu qua một vài lần đọc.
(Xem: 22932)
Chúng sinh đau khổ, trôi lăn trong sinh tử luân hồi cũng chỉ vì cái Ta, cho cái Ta có thật rồi bám víu vào nó. Trong đạo Phật gọi đây là bệnh chấp Ngã.
(Xem: 29593)
Tập Kinh Trung Bộ (Majjhima Nikàya) gồm 152 kinh tất cả, chia thành 3 tập: tập I, gồm 50 Kinh đầu, tập II gồm 50 Kinh tiếp và tập III, gồm 52 Kinh chót.
(Xem: 20650)
Quá khứ không truy tìm Tương lai không ước vọng. Quá khứ đã đoạn tận, Tương lai lại chưa đến...
(Xem: 18718)
Thường thì những mối bận tâm thế tục sẽ chỉ mang lại đau khổthất vọng trong đời này và đời sau. Những sự xuất hiện của sinh tử thì chẳng có gì là bền vững, luôn luôn thay đổi và vô thường...
(Xem: 15851)
Kinh Bát Đại Nhân Giác bố cục thành ba phần: Phần mở đầu chỉ một câu đơn giản như là giới thiệu tám điều giác ngộ; Phần hai là nội dung tám điều giác ngộ ấy...
(Xem: 18865)
Sự tịnh hóa của Kim Cương thừa nói riêng và con đường Kim Cương thừa nói chung căn cứ vào trí huệ đại lạctrí huệ tánh Không. Nhờ và bằng trí huệ đại lạctrí huệ tánh Không mà tất cả nghiệp lực được tịnh hóa.
(Xem: 19693)
Phật giáo là một sự thực tập để đối trị khổ đau. Phật nói “ta chỉ dạy về khổ đau và vượt thoát khổ đau” [3] . Ðiều này đã được Phật phát biểu trong công thức của bốn sự thực thâm diệu [tứ diệu đế].
(Xem: 20169)
Thế nào gọi là Phật Lý Căn Bản? – Giáo lý chính yếu của Phật giáo, tóm lược các quan điểm trong ba tạng (Tripitaka).
(Xem: 19959)
Khi Đức Phật tỉnh thức bước ra khỏi cơn mê mà chúng ta vẫn còn đang chìm đắm, Ngài đã nhận thức được sự thực rốt ráo của muôn vật y như chân tướng của chúng.
(Xem: 18130)
Hãy dọn tâm trí vô tư để nhìn thấy khoa học, khoa học là đề tài thảo luận của chúng ta. Khoa học là nơi gặp gỡ của chúng ta.
(Xem: 22958)
Thấy chúng sinh phàm tình mãi trầm chìm trong phiền não, nhiễm ô, thiếu chính niệm và kiềm thúc thân tâm, Đức Như Lai từ bi trí tuệ đã khai thị rất nhiều phương cách...
(Xem: 34187)
Kinh Pháp Cú (Dhammapada) là một trong 15 quyển kinh thuộc Tiểu Bộ Kinh (Khuddaka Nikaya) trong Kinh tạng Pali (Suttanta Pitaka). Ðây là một quyển kinh Phật giáo phổ thông nhất...
(Xem: 16427)
Xuất bản lần đầu vào năm 1995 (tái bản 2001), “Phật Giáo và Đạo Đức Sinh Học” (Buddhism and Bioethics) là một đóng góp có ý nghĩa của Damien Keown* cho Phật giáo về một đề tài chưa được giới Phật giáo nghiên cứu nhiều trước đó.
(Xem: 16927)
Luận thuyết được trình bày ở đây, dành cho những người ước muốn rút ra tinh túy của đời người được phú bẩm những nhàn nhã và thuận lợi, là luận thuyết được gọi là Các Giai đoạn của Con Đường Giác ngộ (Lamrim).
(Xem: 39270)
"Con đường Thiền Chỉ Thiền Quán” đã được Ngài Guṇaratana trình bày một cách khúc chiết, rõ ràng có thể giúp cho những ai muốn nghiên cứu tường tận chỗ đồng dị, cộng biệt, sinh khắc của hai pháp môn này...
(Xem: 26086)
Tâm không có màu sắc hoặc hình tượng để nhận ra được nó, nhưng nó thì tuyệt đối trống rỗng và nhận biết sáng tỏ thấu suốt hoàn toàn. (= viên minh)- đó là tự tính của tâm bạn.
(Xem: 20110)
“Phật giáo khái luận” là một tác phẩm rất có giá trị của cư sĩ Huỳnh Sĩ Phục bên Trung Quốc, lời lẽ tuy vắn tắt, nhưng đã bao hàm tất cả yếu nghĩa của các Tôn hiện hànhTrung Quốc.
(Xem: 18865)
Kinh "Chiếc lưới ái ân" được dịch từ kinh Pháp Cú, Hán Tạng. Chữ "ái ân" nằm ngay trong bài kệ thứ ba của kinh, câu “Nhân vi ân ái hoặc”.
(Xem: 24074)
Có thể nói rằng "Tánh Không luận" là một hệ thống triết học đặc thù của Phật giáo trong thời kỳ phát triển. Sự xuất hiện của nó như là một dấu ngoặc vĩ đại...
(Xem: 29155)
Nếu một người thiện nam hay tín nữ thực hànhhoàn thành Năm Thực Tập Chính Niệm, người ấy cuối cùng sẽ đạt được sự vãng sinh về vùng đất Hòa Hòa Bình và An Lạc...
(Xem: 22907)
Trước khi thực sự bắt đầu nuôi dưỡng điều được gọi là Sáu Hạnh Ba-la-mật, bạn phải phát triển động thái vị tha của tâm thức hay là hành xử của bồ-tát. Bồ-tát là người mà đã hoàn toàn từ bỏ quyền lợi tự ngã của mình...
(Xem: 30971)
Bài văn này được thiền sư Quy Sơn Linh Hựu viết ra nhằm sách tấn việc tu học của đồ chúng, nên gọi là văn cảnh sách, và lấy tên ngài để làm tựa. Từ xưa nay vẫn gọi là “Quy Sơn cảnh sách văn”.
(Xem: 21017)
Chính bộ Kinh quý báu này mở rộng cửa giải thoát cho cả hai hạng người xuất giatại gia nhập vào Pháp Môn Bất Nhị, trở về Bản Tánh Không Hai.
(Xem: 26869)
Duy Ma Cật tức là tên của ông Duy Ma Cật. Mà Duy Ma Cật là chữ Phạn. Trung Hoa dịch là Tịnh Danh. Cũng dịch là Vô Cấu. Tịnh Danh: Chữ tịnh là trong sạch.
(Xem: 20679)
Như ta biết, Tứ diệu đế là bài thuyết pháp đầu tiên của Phật sau khi thành Đạo cho năm anh em A nhã Kiều Trần Như, diễn ra tại vườn Lộc Uyển, về phía bắc thành Ba la nại.
(Xem: 26270)
Thật ra, nếu các bạn không có sự hiểu biết về Tứ diệu đế cũng như chưa tự mình thể nghiệm chân lý của lời dạy này thì các bạn sẽ không thể thực hành Phật pháp.
(Xem: 23347)
Đọc “Tổng Quan Những Con Đường Của Phật Giáo Tây Tạng”, chúng ta sẽ thấy đức Dalai Lama là một bậc Đại Tri Viên, ngài chỉ rõ tất cả mọi con đường để chúng thấy rõ, nhất là con đường Tantra...
(Xem: 19825)
Muốn có sắc như là sắc, thì người ta phải cộng hay trừ đi sắc với không, chẳng hạn, 1 + 0 = 1. Như vậy không, tức là biệt thể để sắc như là sắc, để không như là không...
(Xem: 24691)
Kinh Duy Ma Cật bất khả tư nghì, tuyệt diệu cùng tột, ý chỉ thâm huyền, chẳng phải lời nói có thể diễn tả. Siêu việt tam không (Nhơn không, Pháp không, Không không)... Tỳ Kheo Thích Duy Lực
(Xem: 30050)
Ðọc vào kinh ta nhận thấy chẳng những hàng xuất gia mới thật hành được Phật đạo, mà Cư sĩ, Bà la môn cho đến mọi tầng lớp dân chúng cũng đều thật hành được Phật đạo.
(Xem: 20233)
“Hãy tu tập An-na-ban-na niệm. Nếu Tỳ-kheo tu tập An-na-ban-na niệm, tu tập nhiều, thân chỉ tức và tâm chỉ tức, có giác, có quán, tịch diệt, thuần nhất, phân minh tưởng, tu tập đầy đủ...
(Xem: 20415)
“Quý vị khất sĩ! Phép quán niệm hơi thở, nếu được phát triển và thực hiện liên tục, sẽ đem lại những thành quảlợi lạc lớn, có thể làm thành tựu bốn lĩnh vực quán niệm (Tứ Niệm Xứ)...
(Xem: 15149)
Kinh Niệm Xứ, Satipattthana Sutta, là một bài kinh vô cùng quan trọng vì kinh này đề cập đến những đề mục hành thiền nhằm phát triển cả hai, tâm Vắng Lặng (Samatha) và trí tuệ Minh Sát (Vipassana).
(Xem: 15843)
Có một thầy trẻ đến đặt một câu hỏi với Đức Thế Tôn liên quan tới vấn đề ái dục và đã được Đức Thế Tôn trả lời câu hỏi đó bằng tám bài kệ.
(Xem: 23915)
Kinh Bách Dụ, một bộ kinh trong Đại Tạng chuyển tải ý nghĩa thâm diệu bằng những câu chuyện thí dụ rất sâu sắc. Biên soạn: Pháp sư Thánh Pháp; Việt dịch: Thích Nữ Viên Thắng; Hiệu đính: Thiện Thuận
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant