Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Tắc thứ Bốn Mươi Tám: Vương Thái Phó Nấu Trà

21 Tháng Tư 201100:00(Xem: 15332)
Tắc thứ Bốn Mươi Tám: Vương Thái Phó Nấu Trà

BÍCH NHAM LỤC
(MỘT TRĂM CÔNG ÁN THIỀN TÔNG)
Thích Mãn Giác dịch
Chùa Việt Nam Trung Tâm Văn Hoá Phật Giáo Việt Nam tại Hoa Kỳ 1988

Phần 5

TẮC THỨ BỐN MƯƠI TÁM

VƯƠNG THÁI PHÓ NẤU TRÀ

 

CỬ: Vương Thái Phó vào Chiêu Khánh Tự để nấu trà. Lúc ấy Lăng Thượng Tọa đang cầm ấm trà cho Minh Chiêu. LãngThượng Tọa lật ấm trà. Thấy thế Vương Thái Phó hỏi Lãng Thượng Tọa,” Dưới lò trà có gì vậy?” Lãng Thượng Tọa nói, “ Thần hộ lò.” Vương Thái Phó nói, “Đã là thần hộ lò thì tại sao ấm trà lại lật?” Lãng Thượng Tọa nói, “ Làm quan trăm ngày, mất chức một buổi.” Vương Thái Phó rũ áo bỏ ra.

Minh Chiêu nói, “Lãng Thượng Tọa ăn cơm của Chiêu Khánh lại đi ra ngoài song mà nhặt củi.” Lãng Thượng Tọa nói, “Thế hòa thượng thì sao?” Minh Chiêu nói, “Thần được lợi.”

Tuyết Đậu nói, “Lúc ấy phải đạp đổ lò trà mới phải.”

BÌNH: Muốn hiểu Phật tính phải quán thời tiết nhân duyên. Vương Thái Phó làm tri châu ở Tuyên Châu, học Thiền với Chiêu Khánh từ lâu. Một hôm lúc vào tự viện nhân khi Lãng Thượng Tọa đang nấu trà, Lãng Thượng Tọa lật ấm trà. Thái Phó cũng là tay chuyên gia, cho nên vừa thấy Lãng Thượng Tọa lật ấm trà đã hỏi, “ Dưới lò nấu trà có gì vậy?” Khi Lãng Thượng Tọa nói, “ Có thần hộ lò,” quả thật trong lời ấy có âm vọng. song làm gì được khi mà đầu đuôi mâu thuẫn, đánh mất tông chỉ, để mũi nhọn đâm vào tay. Như thế không những đã tự cô phụ mình mà còn động chạm đến người khác.

Tuy rằng đây không phải là một việc có được thua, song một khi vừa nêu lên thì lại như cũ có thân sơ, có người trong kẻ ngoài. Nếu như luận về việc này thì nó chẳng ở nơi ngôn ngữ, song các ông vẫn cứ phải dựa vào ngôn ngữtìm ra chỗ sống động của nó. Cho nên mới có câu nói, “ Chỉ tham câu sống mà không tham câu chết.” Lãng Thượng Tọa nói như thế chẳng khác gì con chó điên đuổi theo cục đất. Vương Thái Phó rũ áo bỏ ra, tựa như không chấp nhận thầy ta.

Minh Chiêu nói, “Lãng Thượng Tọa ăn cơm của Chiêu Khánh lại đi ra ngoài song mà nhặt củi khô.” Củi khô đây tức là những nhánh cây bị lửa hoang đốt cháy. Minh Chiêu nói như thế là để giải minh rằng Lãng Thượng Tọa không đi đúng đường mà đi trệch lối. Lãng Thượng Tọa lại dồn thầy ta nói rằng, “Thế hòa thượng thì sao?” Minh Chiêu nói, “Thần được lời.” Minh Chiêu đã có xuất thân mà lại cũng không cô phụ câu hỏi của Lãng Thượng Tọa. Cho nên mới có câu nói rằng, “ Chó khôn cắn người không lộ răng.”

Qui Sơn Triết Hòa Thượng nói, “ Vương Thái Phó giống y như Lạn Tương Như đoạt ngọc, đến nỗi râu ria chĩa ra khỏi hai bên mũ.” Minh Chiêu khó giấu được cái thông minh của mình, cho nên khó gặp được điểm tiện lợi. Nếu như tôi là Lãng Thượng Tọa, vừa trông thấy Vương Thái Phó rũ áo bỏ ra, là lập tức buông ấm trà xuống rồi ha hã cười lớn. Tại sao vậy? Thấy mà không giữ , ngàn năm khó gặp.

Há không nghe Bảo Thọ hỏi Hồ Đinh Giảo, “Lâu nay vẫn nghe tiếng Hồ Đinh Giảo, phải chăng là người ấy?” Hồ nói, “Vâng” Bảo Thọ nói, “Thế có đóng đinh vào hư không được chăng?” Hồ nói, “Mời thầy đến phá cho.” Bảo Thọ bèn đánh. Hồ không chịu, Bảo Thọ nói, “Sau này sẽ có một ông thầy nói nhiều đến đã phá cho ông.” Sau đó Hồ gặp Triệu Châu, bèn thuật lại câu chuyện trên. Triệu Châu nói, “Tại sao ông lại bị thầy ta đánh?” Hồ nói, “Tôi không hiểu mình có lỗi ở chỗ nào?” Triệu Châu nói, “ chỉ có cái kẽ này mà ông cũng không làm gì được thì bảo thầy ta đến đánh phá hư không để làm gì?” Hồ bèn thôi không thắc mắc nữa. Triệu Châu bèn nói hộ, “Thử đóng đinh vào kẽ này xem.” Hồ bèn tĩnh ngộ.

Kinh Triệu Mễ Thất Sư đi hành cước về, có bậc lão túc kia hỏi rằng, “Giải lụa trong đêm trăng, ai cũng bảo là rắn. Không hiểu lúc Thất Sư thất Phật thì gọi là gì?” Thất Sư nói, “Nếu có chỗ thấy, thì đồng với chúng sinh. Vị lão túc kia nói, “Đây đúng là hột đào ngàn năm mới nẩy mầm.”

Trung Quốc Sư hỏi vị Tử Lân Cung Phụng, “Nghe nói Cung phụng có viết chú giải cho Kinh Tư Ích, phải vậy chăng?” Cung phụng nói, “Vâng”. Quốc Sư nói, “Phàm muốn chú kinh, trước tiên phải hiểu ý của Phật mới được.” Cung Phụng nói, “Nếu như tôi không hiểu ý Phật, làm sao tôi dám nói là tôi chú giải kinh?” Quốc Sư bèn dạy thị giả bưng vào một chén nước, bẩy hạt gạo, và một chiếc đũa. Quốc Sư bỏ cả vào chén rồi đưa tới cho Cung Phụng, hỏi rằng, “ Như vậy là nghĩa gì đây?” Cung Phụng nói, “Tôi không hiểu.” Quốc Sư nói, “Ý của lão sư mà thầy cũng không hiểu, thế mà đòi đi hiểu ý Phật. Không phải chỉ có Vương Thái Phó và Lãng Thượng Tọa là có những đối thoại như trên.

Cuối cùng Tuyết Đậu nói, “Lúc ấy phải đạp đổ lò nấu trà mới phải.” Minh Chiêu tuy rằng như thế song rốt cuộc vẫn không bằng được Tuyết Đậu.Tuyết Phong có dạo là, đuầ bếp trong chúng hội của Động Sơn.Một hôm lúc Tuyết Phong đang vo gạo, Động Sơn hỏi, “Vo gạo để khử cát hay là vo cát để khử gạo?” Tuyết Phong nói, “Khử cả cát lẫn gạo một lúc.” Động Sơn hỏi, “Vậy thì đại chúng ăn cái gì?” Tuyết Phong bèn lật úp cái rổ. Động Sơn nói, “Nhân duyên của ông không phải là ở đây.” Tuy thế làm sao có thể giống với Tuyết Đậu nói, “Lúc ấy phải đạp đổ lò nấu trà mới phải.” Đó là thời tiết gì vậy? Dụng xứ của thầy ta tự nhiênchói sáng cho các thế hệ sau này, có chỗ giải thoát sống động. Tụng rằng:

TỤNG

Đến hỏi như gió thổi,

Ứng cơ không thiện xảo.

Buồn thay Độc Nhãn Long!

Chưa phô bầy nanh vuốt.

Nanh vuốt mở,

Sinh sấm sét.

Con sóng ngược dòng mấy bận về.

BÌNH: “Đến hỏi như gió thổi, ứng cơ không thiện xảo.” Câu hỏi của Vương Thái Phó giống như thể múa rìu sinh gió. Tích này xuất phát từ sách Trang Tử: Có người ở Dĩnh đang xây tường đất, chỉ còn một lỗ hổng nhỏ, bèn vo mộtviên bùn để lấp đầy. Lúc ấy có một đốm bùn rơi trên đầu mũi người ấy. Bên cạnh có một tay múa rìu nói, “Ông xây tường khéo lắm, để tôi dùng búa lấy đốm bùn trên đầu mũi hộ cho ông.” Mặc dù đốm bùn trên mũi ông ta chỉ nhỏ như cánh con ruồi ông ta vẫn bằng lòng để cho người múa rìu kia lấy hộ. Người kia múa rìu, vun vút thành gió đánh bạt đốm bùn kia đi mà không làm tổn thương mũi. Người ở Dĩnh vẫn đứng thản nhiên. Đây chính là cái gọi là sự xảo diệu của cả hai bên. Lãng Thượng Tọa tuy có ứng cơ, song lời của ông ta không thiện xảo. Cho nên Tuyết Đậu mới nói, “Đến hỏi như gió thổi, ứng cơ không thiện xảo.”

“Buồn thay Độc Nhãn Long, chưa phô bày nanh vuốt.” Minh Chiêu cũng nói một cách hết sức kỳ đặc. Có điều chưa có được thứ nanh vuốt đủ để bắt mây chụp sương. Tuyết Đậu tuy là bàng quan song không nhịn được ra sức hộ cho Minh Chiêu.

Tuyết Đậu ngầm hợp với ý của Vương Thái Phó, tự tụng việc đạp đỗ lò nấu trà rằng, “Nanh vuốt mở, sinh sấm sét. Con sông ngược dòng mấy bận về.” Vân Môn nói, “Không mong ông có sóng ngược dòng, chỉ cần có cái ý xuôi dòng là được rồi. Cho nên mới có câu nói, “Nếu như hiểu được câu sống, mãi mãi sẽ không bao giờ quên.” Những lời nói của Lãng Thượng TọaMinh Chiêu tựa như chết. Nếu như các ông muốn thấy chỗ sống, cứ việc nhìn Tuyết Đậu đạp đổ lò nấu trà.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 29897)
Đây là những điều tôi được nghe hồi Đức Thế Tôn còn cư trú gần thành Xá Vệ, tại tu viện Cấp Cô Độc, trong vườn Kỳ Đà. Hôm đó, trời đã vào khuya...
(Xem: 27180)
Tương Ưng Bộ (Samyutta Nikàya) là bộ kinh thứ ba trong kinh tạng Pàli (Trường bộ, Trung bộ, Tương Ưng bộ, Tăng Chi bộ, và Tiểu bộ). Bộ kinh là một tập hợp các bài kinh dài ngắn không đều...
(Xem: 21770)
Khi chúng ta thẩm tra hoàn cảnh đôi khi buồn rầu, và thỉnh thoảng vui vẻ, chúng ta khám phá ra rằng có nhiều vấn đề liên hệ với điều ấy.
(Xem: 22233)
Ý nghĩa cận sự namcận sự nữ, cần được hiểu là những cư sĩniềm tin nơi Phật-Pháp-Tăng, trọn đời nguyện phụng sự Tam bảo, luôn luôn sống theo sự hướng dẫn của Tam bảo.
(Xem: 23605)
Đạo Phật được đưa vào nước ta vào khoảng cuối thế kỷ thứ hai do những vị tăng sĩ và những thương gia Ấn Độ và Trung Á tới Việt Nam bằng đường biển Ấn Độ Dương.
(Xem: 20430)
Phật Giáo là đạo Giải Thoát. Giải là cởi mở. Ở đây là "cởi mở" những trói buộc để "thoát" ra khỏi mọi hình thức đau khổ của đời sống.
(Xem: 20056)
Trong 45 năm hoằng pháp độ sinh, Đức Phật đã du hành khắp miền Bắc Ấn độ để giảng dạy con đường giải thoát mà Ngài đã tìm ra. Rất nhiều người đã quy y với Ngài...
(Xem: 21949)
Phật Giáo là một tôn giáo có khoảng 300 triệu tín đồ trên khắp thế giới. Danh từ Phật Giáo (Buddhism) phát nguồn từ chữ "buddhi", có nghĩa "giác ngộ", "thức tỉnh".
(Xem: 24757)
Mục tiêu của Kinh Bát Đại nhân Giác là phát triển trí tuệ, đoạn tận phiền não, ô nhiễm, lậu hoặc để chứng đắc quả vị giải thoát tối hậu. Như quán niệmđại nguyệntrí tuệ phát sanh.
(Xem: 18990)
Khi biên soạn tập sách này, chúng tôi đặc biệt nghĩ đến những Phật tử sơ phát tâmbước đầu tìm hiểu giáo lý của đạo Phật trong một bối cảnh đa văn hoá và nhiều truyền thống tôn giáo.
(Xem: 24767)
Trong nguyên bản tiếng Pāli, sách nói rằng những cuộc đối thoại giữa vua Milinda và ngài Nāgasena đã diễn ra năm trăm năm sau khi Đức Phật nhập Niết Bàn.
(Xem: 30977)
Tu Ðạo là cần phải "quay trở lại." Nghĩa là gì? Tức là phải nhường cho người việc tốt lành, còn mình thì nhận phần hư xấu--xả tiểu ngã để thành tựu đại ngã.
(Xem: 23992)
Quả khổ chuyển theo nghiệp. Nghiệp chuyển theo tâm. Chỉ cần soi sáng tâm là hết khổ. Vì thế, bức tranh của Vòng luân hồi hay Con quỷ vô thường này rất quan trọng...
(Xem: 27765)
Những gì xảy ra trong thế giới này đều bị qui luật Nhân quả chi phối. Mọi thứ xuất hiện ở đời đều có nhân duyên. Hạnh phúcthế gian hay Niết bàn của người tu đạo không ra ngoài qui luật ấy.
(Xem: 26517)
Tâm vốn không – lặng, nhơn pháp mà lập danh. Tịnh pháp là người, trời, Thanh văn, Duyên giác, Bố tát và Phật. Nhiễm phápA tu la, bàng sanh, địa ngục, quỉ thú.
(Xem: 21321)
Bộ kinh Milindapanha xuất hiện vào khoảng năm trăm năm sau Phật Niết bàn, do ngài Pitakaculàbhaya ở trung Ấn độ trước thuật bằng tiếng Pàli. Nội dung kể lại những câu hỏi, đáp giữa vua Milinda và tỳ kheo Nàgasena.
(Xem: 23231)
Quyển ''Na-Tiên Tì-kheo Kinh'' là một bộ Luận ghi bằng tiếng Pali, rất nổi danh, được phiên-dịch ra nhiều thứ tiếng: tiếng Hán, tiếng Việt, tiếng Miến, tiếng Thái, tiếng Tích-lan, tiếng Anh, tiếng Pháp, v.v.
(Xem: 38138)
Quyển sách nhỏ này được viết ra nhằm mục đích giới thiệu với quý độc giả đang đi tìm giải thoát và nhất là thích tu thiền, một phương pháp hành thiền mà ít người để ý, đó là pháp Tứ Niệm Xứ.
(Xem: 18803)
Khi mới đến một vùng đất hoang để khai khẩn, mảnh đất đó có thể làm cho ta nản lòng vì cỏ gai và chướng ngại vật đầy dẫy. Ta cần phải đào, phải bứng, phải chặt, phải cày, phải bừa.
(Xem: 18439)
Ma-ha-diễn là pháp tạng sâu xa của chư Phật mười phương ba đời, vì người lợi căn đại công đức mà nói... Thích Thanh Từ
(Xem: 19978)
Tổ Sư thiền Việt Nam đã thất truyền trên hai trăm năm. Đến năm 1977, Hòa thượng hoằng dương Tổ Sư thiền và tổ chức Thiền thất đầu tiên tại Việt Nam.
(Xem: 19050)
Bản văn này chỉ giới thiệu những điểm chủ yếu có liên quan đến triết học Trung Quán một cách hết sức đơn giản, dù vậy, vẫn bao hàm được tất cả mọi yếu điểm cốt lõi của hệ phái Triết học này.
(Xem: 23173)
Viết về một triết học là đặt ra các câu hỏi về những vấn đề được bàn đến trong triết học đó. Trong trường hợp này, chúng ta thử viết một bài nghiên cứu mang tính phê bình về triết học Thế Thân.
(Xem: 23887)
Ở đây, nội dung của tập sách này chỉ giới thiệu một cách khái quát về các thể loại văn học của kinh điển và một số thể loại ngôn ngữ được dùng trong kinh điển.
(Xem: 22816)
Toàn bộ kinh Đại Bát Niết-bàn dày hơn 4500 trang, riêng phần Việt dịch chiếm gần 1700 trang; mỗi đoạn mỗi câu trong đó đều hàm chứa những ý tứ sâu xa huyền diệu không dễ gì hiểu thấu qua một vài lần đọc.
(Xem: 22917)
Chúng sinh đau khổ, trôi lăn trong sinh tử luân hồi cũng chỉ vì cái Ta, cho cái Ta có thật rồi bám víu vào nó. Trong đạo Phật gọi đây là bệnh chấp Ngã.
(Xem: 29583)
Tập Kinh Trung Bộ (Majjhima Nikàya) gồm 152 kinh tất cả, chia thành 3 tập: tập I, gồm 50 Kinh đầu, tập II gồm 50 Kinh tiếp và tập III, gồm 52 Kinh chót.
(Xem: 20646)
Quá khứ không truy tìm Tương lai không ước vọng. Quá khứ đã đoạn tận, Tương lai lại chưa đến...
(Xem: 18711)
Thường thì những mối bận tâm thế tục sẽ chỉ mang lại đau khổthất vọng trong đời này và đời sau. Những sự xuất hiện của sinh tử thì chẳng có gì là bền vững, luôn luôn thay đổi và vô thường...
(Xem: 15848)
Kinh Bát Đại Nhân Giác bố cục thành ba phần: Phần mở đầu chỉ một câu đơn giản như là giới thiệu tám điều giác ngộ; Phần hai là nội dung tám điều giác ngộ ấy...
(Xem: 18863)
Sự tịnh hóa của Kim Cương thừa nói riêng và con đường Kim Cương thừa nói chung căn cứ vào trí huệ đại lạctrí huệ tánh Không. Nhờ và bằng trí huệ đại lạctrí huệ tánh Không mà tất cả nghiệp lực được tịnh hóa.
(Xem: 19685)
Phật giáo là một sự thực tập để đối trị khổ đau. Phật nói “ta chỉ dạy về khổ đau và vượt thoát khổ đau” [3] . Ðiều này đã được Phật phát biểu trong công thức của bốn sự thực thâm diệu [tứ diệu đế].
(Xem: 20159)
Thế nào gọi là Phật Lý Căn Bản? – Giáo lý chính yếu của Phật giáo, tóm lược các quan điểm trong ba tạng (Tripitaka).
(Xem: 19957)
Khi Đức Phật tỉnh thức bước ra khỏi cơn mê mà chúng ta vẫn còn đang chìm đắm, Ngài đã nhận thức được sự thực rốt ráo của muôn vật y như chân tướng của chúng.
(Xem: 18127)
Hãy dọn tâm trí vô tư để nhìn thấy khoa học, khoa học là đề tài thảo luận của chúng ta. Khoa học là nơi gặp gỡ của chúng ta.
(Xem: 22944)
Thấy chúng sinh phàm tình mãi trầm chìm trong phiền não, nhiễm ô, thiếu chính niệm và kiềm thúc thân tâm, Đức Như Lai từ bi trí tuệ đã khai thị rất nhiều phương cách...
(Xem: 34169)
Kinh Pháp Cú (Dhammapada) là một trong 15 quyển kinh thuộc Tiểu Bộ Kinh (Khuddaka Nikaya) trong Kinh tạng Pali (Suttanta Pitaka). Ðây là một quyển kinh Phật giáo phổ thông nhất...
(Xem: 16424)
Xuất bản lần đầu vào năm 1995 (tái bản 2001), “Phật Giáo và Đạo Đức Sinh Học” (Buddhism and Bioethics) là một đóng góp có ý nghĩa của Damien Keown* cho Phật giáo về một đề tài chưa được giới Phật giáo nghiên cứu nhiều trước đó.
(Xem: 16920)
Luận thuyết được trình bày ở đây, dành cho những người ước muốn rút ra tinh túy của đời người được phú bẩm những nhàn nhã và thuận lợi, là luận thuyết được gọi là Các Giai đoạn của Con Đường Giác ngộ (Lamrim).
(Xem: 39256)
"Con đường Thiền Chỉ Thiền Quán” đã được Ngài Guṇaratana trình bày một cách khúc chiết, rõ ràng có thể giúp cho những ai muốn nghiên cứu tường tận chỗ đồng dị, cộng biệt, sinh khắc của hai pháp môn này...
(Xem: 26080)
Tâm không có màu sắc hoặc hình tượng để nhận ra được nó, nhưng nó thì tuyệt đối trống rỗng và nhận biết sáng tỏ thấu suốt hoàn toàn. (= viên minh)- đó là tự tính của tâm bạn.
(Xem: 20099)
“Phật giáo khái luận” là một tác phẩm rất có giá trị của cư sĩ Huỳnh Sĩ Phục bên Trung Quốc, lời lẽ tuy vắn tắt, nhưng đã bao hàm tất cả yếu nghĩa của các Tôn hiện hànhTrung Quốc.
(Xem: 18859)
Kinh "Chiếc lưới ái ân" được dịch từ kinh Pháp Cú, Hán Tạng. Chữ "ái ân" nằm ngay trong bài kệ thứ ba của kinh, câu “Nhân vi ân ái hoặc”.
(Xem: 24066)
Có thể nói rằng "Tánh Không luận" là một hệ thống triết học đặc thù của Phật giáo trong thời kỳ phát triển. Sự xuất hiện của nó như là một dấu ngoặc vĩ đại...
(Xem: 29147)
Nếu một người thiện nam hay tín nữ thực hànhhoàn thành Năm Thực Tập Chính Niệm, người ấy cuối cùng sẽ đạt được sự vãng sinh về vùng đất Hòa Hòa Bình và An Lạc...
(Xem: 22904)
Trước khi thực sự bắt đầu nuôi dưỡng điều được gọi là Sáu Hạnh Ba-la-mật, bạn phải phát triển động thái vị tha của tâm thức hay là hành xử của bồ-tát. Bồ-tát là người mà đã hoàn toàn từ bỏ quyền lợi tự ngã của mình...
(Xem: 30967)
Bài văn này được thiền sư Quy Sơn Linh Hựu viết ra nhằm sách tấn việc tu học của đồ chúng, nên gọi là văn cảnh sách, và lấy tên ngài để làm tựa. Từ xưa nay vẫn gọi là “Quy Sơn cảnh sách văn”.
(Xem: 21012)
Chính bộ Kinh quý báu này mở rộng cửa giải thoát cho cả hai hạng người xuất giatại gia nhập vào Pháp Môn Bất Nhị, trở về Bản Tánh Không Hai.
(Xem: 26857)
Duy Ma Cật tức là tên của ông Duy Ma Cật. Mà Duy Ma Cật là chữ Phạn. Trung Hoa dịch là Tịnh Danh. Cũng dịch là Vô Cấu. Tịnh Danh: Chữ tịnh là trong sạch.
(Xem: 20679)
Như ta biết, Tứ diệu đế là bài thuyết pháp đầu tiên của Phật sau khi thành Đạo cho năm anh em A nhã Kiều Trần Như, diễn ra tại vườn Lộc Uyển, về phía bắc thành Ba la nại.
(Xem: 26268)
Thật ra, nếu các bạn không có sự hiểu biết về Tứ diệu đế cũng như chưa tự mình thể nghiệm chân lý của lời dạy này thì các bạn sẽ không thể thực hành Phật pháp.
(Xem: 23329)
Đọc “Tổng Quan Những Con Đường Của Phật Giáo Tây Tạng”, chúng ta sẽ thấy đức Dalai Lama là một bậc Đại Tri Viên, ngài chỉ rõ tất cả mọi con đường để chúng thấy rõ, nhất là con đường Tantra...
(Xem: 19820)
Muốn có sắc như là sắc, thì người ta phải cộng hay trừ đi sắc với không, chẳng hạn, 1 + 0 = 1. Như vậy không, tức là biệt thể để sắc như là sắc, để không như là không...
(Xem: 24685)
Kinh Duy Ma Cật bất khả tư nghì, tuyệt diệu cùng tột, ý chỉ thâm huyền, chẳng phải lời nói có thể diễn tả. Siêu việt tam không (Nhơn không, Pháp không, Không không)... Tỳ Kheo Thích Duy Lực
(Xem: 30047)
Ðọc vào kinh ta nhận thấy chẳng những hàng xuất gia mới thật hành được Phật đạo, mà Cư sĩ, Bà la môn cho đến mọi tầng lớp dân chúng cũng đều thật hành được Phật đạo.
(Xem: 20227)
“Hãy tu tập An-na-ban-na niệm. Nếu Tỳ-kheo tu tập An-na-ban-na niệm, tu tập nhiều, thân chỉ tức và tâm chỉ tức, có giác, có quán, tịch diệt, thuần nhất, phân minh tưởng, tu tập đầy đủ...
(Xem: 20408)
“Quý vị khất sĩ! Phép quán niệm hơi thở, nếu được phát triển và thực hiện liên tục, sẽ đem lại những thành quảlợi lạc lớn, có thể làm thành tựu bốn lĩnh vực quán niệm (Tứ Niệm Xứ)...
(Xem: 15145)
Kinh Niệm Xứ, Satipattthana Sutta, là một bài kinh vô cùng quan trọng vì kinh này đề cập đến những đề mục hành thiền nhằm phát triển cả hai, tâm Vắng Lặng (Samatha) và trí tuệ Minh Sát (Vipassana).
(Xem: 15840)
Có một thầy trẻ đến đặt một câu hỏi với Đức Thế Tôn liên quan tới vấn đề ái dục và đã được Đức Thế Tôn trả lời câu hỏi đó bằng tám bài kệ.
(Xem: 23903)
Kinh Bách Dụ, một bộ kinh trong Đại Tạng chuyển tải ý nghĩa thâm diệu bằng những câu chuyện thí dụ rất sâu sắc. Biên soạn: Pháp sư Thánh Pháp; Việt dịch: Thích Nữ Viên Thắng; Hiệu đính: Thiện Thuận
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant