Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Tắc thứ Mười Sáu: Người Trong Cỏ Của Kính Thanh

21 Tháng Tư 201100:00(Xem: 15794)
Tắc thứ Mười Sáu: Người Trong Cỏ Của Kính Thanh

BÍCH NHAM LỤC
(MỘT TRĂM CÔNG ÁN THIỀN TÔNG)
Thích Mãn Giác dịch
Chùa Việt Nam Trung Tâm Văn Hoá Phật Giáo Việt Nam tại Hoa Kỳ 1988

Phần 2

TẮC THỨ MƯỜI SÁU

NGƯỜI TRONG CỎ CỦA KÍNH THANH

 

THÙY: Đạo không có đường tẻ, đứng nơi đó (là đứng nơi) đơn độc và nguy hiểm. Pháp không thuộc nơi kiến văn, vượt ngoài ngôn ngữtư tưởng. Nếu như các ông có thể đi qua được rừng gai góc, giải được các hệ phược của Phật và Tổ, là các ông đã được nơi chốn an ổn, chỗ chư thiên không có lối để dâng hoa, ngoại đạo hết cửa để nhòm ngó. Lúc ấy suốt ngày đi mà không từng đi, suốt ngày nói mà không từng nói, tha hồ tự do tự tại mà khai triển phương tiện sử dụng sát hoạt kiếm. song dù có đạt được mức độ như vậy đi nữa các ông vẫn nên biết rằng bên trong cánh cửa phương tiện có một tay nâng lên một tay đè xuống. Tuy nhiên như thế hãy còn có chút (chấp trước). Nếu nói về sự việc căn bản, thì điều này chẳng có gì là nhằm nhò cả. Thế nào là sự việc căn bản? Xin thử nêu lên xem.

CỬ: Có ông tăng hỏi Kính Thanh, “Đệ tử cắn, xin thầy mổ.” Kính Thanh nói, “Còn sống được không?” Ông tăng nói, “Nếu không sống được thế nào cũng bị người ta chê cười.” Kính Thanh nói, “Ông cũng là một người trong cỏ.”

BÌNH: Kính Thanh thừa tự Tuyết Phong và sống đồng thời với Bổn Nhân, Huyền Sa, Túc Sơn , và Thái Nguyên Phù. Lúc đầu gặp Tuyết Phong đắc được tông chỉ, sau đó thường dùng phương tiện cắn mổ để khai thị những kẻ hậu học. Thầy ta rất khéo thuyết pháp hợp với căn cơ của người nghe.

Một lần kia Kính Thanh dạy chúng rằng, “Phàm những kẻ hành cước cần phải có đôi mắt “ cắn mổ” cùng với đại dụng “cắn mổ” thì mới xứng đáng để xưng mình là nạp tăng. Giống như lúc gà mẹ cắn thì gà con không thể mổ, lúc gà con mổ thì gà mẹ không thể không cắn”. Có ông tăng bước ra hỏi, “Lúc gà mẹ cắn gà con mổ, theo quan điểm của hòa thượng thì như thế nào?’ Kính Thanh nói, “ Tin lành thật.” Ông tăng nói, “ Lúc gà con mổ gà mẹ cắn theo quan điểm của người học thì như thế nào?” Kính Thanh nói, “Để lộ diện mục.” Cho nên mới nói là trong môn hạ của Kính Thanh có phương tiện “cắn mổ” là thế.

Ông tăng này cũng là khách của họ, cho nên mới hiểu sự việc trong nhà của họ. Vì vậy ông ta mới hỏi, “Đệ tử cắn , xin thầy mổ.” Trong dòng của Động Sơn loại câu hỏi này được gọi là mượn sự để hỏi về (tâm) cơ.Tại sao lại như vậy? Lúc gà con mổ gà mẹ cắn tự nhiênphù hợp đồng thời.Kính Thanh cũng rất hay, có thể nói là quyền cước tương ưng, tâm nhãn tương chiếu. Cho nên bèn đáp ngay rằng, “ Còn sống được không?” Ông tăng cũng hay, biết thay đổi theo tình huống. Trong một câu này của Kính Thanh có chủ có khách, có chiếu có dụng, có giết có cứu. Ông tăng nói, “Nếu không sống được thế nào cũng bị người ta cười chê.” Kính Thanh nói, “Ông cũng là một người trong cỏ.” Lúc nào cũng lội trong nước trong bùn, Kính Thanh rất khéo léo trong việc này.

Ông tăng đã biết hỏi như thế, tại sao Kính Thanh lại nói, “Ông cũng là một người trong cỏ.” Bởi vì đôi mắt của một tay thành thạo thì phải như thế, giống như ánh đá lửa, điện chớp. Có với được đến hay không cũng khó mà đừng tan thân mất mạng. Nếu như các ông như thế, các ông sẽ thấy rằng Kính Thanh gọi ông tăng kia là người trong cỏ.

Cho nên Nam Viện dạy chúng rằng, “Người các nơi chỉ có đôi mắt “cắn mổ” đồng thời chứ không có đại dụng “cắn mổ” đồng thời. Có ông tăng bước ra hỏi, “Thế nào là đại dụng “ cắn mổ” đồng thời?” Nam Viện nói, “Kẻ thành thạo không cắn mổ. Cả cắn lẫn mổ đều sai.” Ông tăng nói, “Đệ tử vẫn còn có chỗ nghi.” Nam Viện nói, “Chỗ nghi của ông là gì?” Ông tăng nói, “Sai”. Nam Viện bèn đánh. Ông tăng không đồng ý, Nam Viện bèn đuổi ông ta ra.

Sau ông tăng này đến nơi chúng hội của Vân Môn kể lại câu chuyện trên. Có ông tăng hỏi, “Thế gậy của Nam Viện có bị gãy không?” Ông tăng kia bèn hoát nhiên tỉnh ngộ. Thử nói xem, ý nghĩa của câu chuyện này là ở chỗ nào? Ông tăng kia bèn trở về để ra mắt Nam Viện , song Nam Viện đã mất, cho nên bèn vào gặp Phong Huyệt. Ông ta vừa cuối lạy, Phong Huyệt nói, “Ông có phải là ông tăng hỏi tiên sư về việc cắn mổ đồng thời không?” Ông tăng nói, “Vâng”. Phong Nguyệt nói, “Lúc ấy ông hiểu như thế nào?” Ông tăng nói, “ Lúc ấy kẻ hèn này giống như thể đi dưới bóng đèn.” Phong Huyệt bèn nói với ông tăng, “Ông hiểu rồi.” Thử nói xem như vầy là thế nào? Ông tăng kia chỉ đến mà nói rằng, “ Lúc ấy kẻ hèn này giống như thể đi dưới bóng đèn.” Tại sao Phong Huyệt lại nói với ông ta rằng, “Ông hiểu rồi”?

Sau này Thúy Nham niệm rằng, “Mặc dù Nam Viện bày vẽ kế hoạch trong trại của mình, song đất rộng người thưa, kẻ tri âm ít.” Thúy Nham bình rằng, “ Lúc ấy nếu như ông ta vừa mở miệng Nam Viện lập tức đánh, xem ông ta như thế nào?” Nếu như các ông thấy được công án này thì các ông sẽ thấy được chỗ ông tăng kia và Kiến Thanh gặp nhau. Làm thế nào để tránh khỏi bị Kính Thanh gọi là người trong cỏ? Cho nên Tuyết Đậu vì thích Kính Thanh nói “ người trong cỏ” mới tụng.

TỤNG: 

Cổ Phậtgia phong,

Đối đáp bị dè bỉu.

Mẹ con không biết nhau,

Hỏi ai cùng cắn mổ?

Cắn, tỉnh,

Còn trong vỏ.

Bị đánh thêm,

Thiên hạ nạp tăng mõ vô ích.

BÌNH: “Cổ Phật có gia phong”, chỉ một câu đó thôi Tuyết Đậu đã tụng hết “công án” này rồi. Những kẻ thò mặt ra chẳng thể nào đến gần được. Nếu như đến gần được thì sẽ bị rơi từ đỉnhcao vạn trượng. Ngay khi các ông vừa thò đầu ra , là các ông đã rơi vào cỏ. Dù cho các ông có tung hoành được đinữa, cũng chẳng đáng để ra sức. Tuyết Đậu nói, “ Cổ Phậtgia phong.” Không phải bây giờ mới như thế.Lúc đức Thích Ca mới sinh ra, một tay chỉ trời, một tay chỉ đất, mắt nhìn bốn phương nói, “ Thiên thượng thiên hạ duy ngã độc tôn.” Vân Môn nói, “ Nếu như lúc đó ta mà thấy ông ta, ta sẽ đập cho một gậy chết tốt rồi ném cho chó ăn, để mong cho thiên hạ được thái bình.” Chỉ như vậy người ta mới trả lời thích đáng được. Cho nên các phương tiện cắn mổ đều là gia phong của cổ Phật.

Nếu như các ông đạt được đạo này, các ông có thể một quyền đấm đổ Hoàng Hạc Lâu,một cước đá loạn Anh Vũ Châu[25].Giống như thể một khối lửa, ai đến gần sẽ bị cháy mặt. Giống như Thái A Kiếm, ai đùa rỡn với nó sẽ tang thân mất mạng. Việc này chỉ có những ai đã thấu thoát, đã được giải thoát mới có thể như thế được. Còn nếu như mê mờ căn nguồn vướng mắc ngôn ngữ thì không cách chi mà nắm bắt được cách nói chuyện này.

“Đối đáp bị dè bỉu.” Đây chính là một chủ một khách một vấn một đáp. Ngay trong vấn đáp đã có dè bỉu. Đó gọi là “đối đáp bị dè bỉu”. Tuyết Đậu thâm hiểu việc này, cho nên chỉ tụng tất cả trong hai câu.

Cuối cùng Tuyết Đậu đi vào bãi cỏ để giải thích thấu triệt cho các ông. “ Mẹ con không biết nhau, hỏi ai cũng cắn mổ?’ Tuy gà mẹ cắn, song cũng không thể khiến gà con mổ ra. Tuy gà con mổ ra, song cũng không thể khiến gà mẹ cắn. Gà mẹ gà con không biết nhau, vào lúc cắn mổ, ai đồng thời cắn mổ? Nếu hiểu như vậy cũng chưa thể thoát ra khỏi câu cuối cùng của Tuyết Đậu được. tại sao? Há không nghe Hương Nghiêm nói, “ Con được. Tại sao? Há không nghe Hương NGhiêm nói, “ Con mổ mẹ cắn, con tỉnh không vỡ. Mẹ con đều quên, ứng duyên không sai. Cùng đường xướng họa, huyền diệu độc hành.” Tuyết Đậu đúng là lạc vào bãi cỏ gây rắc rối nói rằng, “ Cắn” .Một chữ này tụng câu trả lời của Kính Thanh rằng, “ còn sống được không?” “Tỉnh” là để tụng câu trả lời của ông tăng rằng, “ Nếu không sống được thế nào cũng bị người ta chê cười.” Tại sao Tuyết Đậu lại nói, “ Còn trong vỏ”? Tuyết Đậu phân biệt được trắng đen trong ánh đá lửa, biện rõ được đầu mối của sự vật vớitâm cơ như điện chớp.

Kính Thanh nói, “Ông cũng là người trong cỏ” Tuyết Đậu nói, “ Bị đánh thêm.” Chỗ này có hơi khó Kính Thanh nói, “Ông cũng là người trong cỏ”. Có thể bảo là Kính Thanh móc mắt ông tăng kia đi được chăng? Câu này phải chăng nói rằng ông ta vẫn còn trong vỏ? Nhưng mà những điều này chẳng có gì là đúng cả. Tại sao lại thế? Nếu như hiểu được, người ta có thể đi hành cước khắp nơi mà vẫn báo ơn (cho thầy) được.Lúc sư núi tôi nói như thế, thì cũng hóa ra người trong cỏ rồi.

“Thiên hạ nạp tăng mồ vô ích.” Ai là kẻ không đặt tên và mô tả? Đến chổ này Tuyết Đậu không đặt tên hay mô tả được, song lại làm lụy người khác, các nạp tăng trong thiên hạ. Thử nói xem, đâu là chỗ Kính Thanh vì ông tăng kia? Các nạp tăng trong thiên hạ không ai nhảy ra khỏi được cả.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 29914)
Đây là những điều tôi được nghe hồi Đức Thế Tôn còn cư trú gần thành Xá Vệ, tại tu viện Cấp Cô Độc, trong vườn Kỳ Đà. Hôm đó, trời đã vào khuya...
(Xem: 27205)
Tương Ưng Bộ (Samyutta Nikàya) là bộ kinh thứ ba trong kinh tạng Pàli (Trường bộ, Trung bộ, Tương Ưng bộ, Tăng Chi bộ, và Tiểu bộ). Bộ kinh là một tập hợp các bài kinh dài ngắn không đều...
(Xem: 21799)
Khi chúng ta thẩm tra hoàn cảnh đôi khi buồn rầu, và thỉnh thoảng vui vẻ, chúng ta khám phá ra rằng có nhiều vấn đề liên hệ với điều ấy.
(Xem: 22263)
Ý nghĩa cận sự namcận sự nữ, cần được hiểu là những cư sĩniềm tin nơi Phật-Pháp-Tăng, trọn đời nguyện phụng sự Tam bảo, luôn luôn sống theo sự hướng dẫn của Tam bảo.
(Xem: 23644)
Đạo Phật được đưa vào nước ta vào khoảng cuối thế kỷ thứ hai do những vị tăng sĩ và những thương gia Ấn Độ và Trung Á tới Việt Nam bằng đường biển Ấn Độ Dương.
(Xem: 20467)
Phật Giáo là đạo Giải Thoát. Giải là cởi mở. Ở đây là "cởi mở" những trói buộc để "thoát" ra khỏi mọi hình thức đau khổ của đời sống.
(Xem: 20074)
Trong 45 năm hoằng pháp độ sinh, Đức Phật đã du hành khắp miền Bắc Ấn độ để giảng dạy con đường giải thoát mà Ngài đã tìm ra. Rất nhiều người đã quy y với Ngài...
(Xem: 21964)
Phật Giáo là một tôn giáo có khoảng 300 triệu tín đồ trên khắp thế giới. Danh từ Phật Giáo (Buddhism) phát nguồn từ chữ "buddhi", có nghĩa "giác ngộ", "thức tỉnh".
(Xem: 24782)
Mục tiêu của Kinh Bát Đại nhân Giác là phát triển trí tuệ, đoạn tận phiền não, ô nhiễm, lậu hoặc để chứng đắc quả vị giải thoát tối hậu. Như quán niệmđại nguyệntrí tuệ phát sanh.
(Xem: 19019)
Khi biên soạn tập sách này, chúng tôi đặc biệt nghĩ đến những Phật tử sơ phát tâmbước đầu tìm hiểu giáo lý của đạo Phật trong một bối cảnh đa văn hoá và nhiều truyền thống tôn giáo.
(Xem: 24795)
Trong nguyên bản tiếng Pāli, sách nói rằng những cuộc đối thoại giữa vua Milinda và ngài Nāgasena đã diễn ra năm trăm năm sau khi Đức Phật nhập Niết Bàn.
(Xem: 31013)
Tu Ðạo là cần phải "quay trở lại." Nghĩa là gì? Tức là phải nhường cho người việc tốt lành, còn mình thì nhận phần hư xấu--xả tiểu ngã để thành tựu đại ngã.
(Xem: 24016)
Quả khổ chuyển theo nghiệp. Nghiệp chuyển theo tâm. Chỉ cần soi sáng tâm là hết khổ. Vì thế, bức tranh của Vòng luân hồi hay Con quỷ vô thường này rất quan trọng...
(Xem: 27794)
Những gì xảy ra trong thế giới này đều bị qui luật Nhân quả chi phối. Mọi thứ xuất hiện ở đời đều có nhân duyên. Hạnh phúcthế gian hay Niết bàn của người tu đạo không ra ngoài qui luật ấy.
(Xem: 26559)
Tâm vốn không – lặng, nhơn pháp mà lập danh. Tịnh pháp là người, trời, Thanh văn, Duyên giác, Bố tát và Phật. Nhiễm phápA tu la, bàng sanh, địa ngục, quỉ thú.
(Xem: 21382)
Bộ kinh Milindapanha xuất hiện vào khoảng năm trăm năm sau Phật Niết bàn, do ngài Pitakaculàbhaya ở trung Ấn độ trước thuật bằng tiếng Pàli. Nội dung kể lại những câu hỏi, đáp giữa vua Milinda và tỳ kheo Nàgasena.
(Xem: 23251)
Quyển ''Na-Tiên Tì-kheo Kinh'' là một bộ Luận ghi bằng tiếng Pali, rất nổi danh, được phiên-dịch ra nhiều thứ tiếng: tiếng Hán, tiếng Việt, tiếng Miến, tiếng Thái, tiếng Tích-lan, tiếng Anh, tiếng Pháp, v.v.
(Xem: 38182)
Quyển sách nhỏ này được viết ra nhằm mục đích giới thiệu với quý độc giả đang đi tìm giải thoát và nhất là thích tu thiền, một phương pháp hành thiền mà ít người để ý, đó là pháp Tứ Niệm Xứ.
(Xem: 18818)
Khi mới đến một vùng đất hoang để khai khẩn, mảnh đất đó có thể làm cho ta nản lòng vì cỏ gai và chướng ngại vật đầy dẫy. Ta cần phải đào, phải bứng, phải chặt, phải cày, phải bừa.
(Xem: 18452)
Ma-ha-diễn là pháp tạng sâu xa của chư Phật mười phương ba đời, vì người lợi căn đại công đức mà nói... Thích Thanh Từ
(Xem: 20011)
Tổ Sư thiền Việt Nam đã thất truyền trên hai trăm năm. Đến năm 1977, Hòa thượng hoằng dương Tổ Sư thiền và tổ chức Thiền thất đầu tiên tại Việt Nam.
(Xem: 19071)
Bản văn này chỉ giới thiệu những điểm chủ yếu có liên quan đến triết học Trung Quán một cách hết sức đơn giản, dù vậy, vẫn bao hàm được tất cả mọi yếu điểm cốt lõi của hệ phái Triết học này.
(Xem: 23210)
Viết về một triết học là đặt ra các câu hỏi về những vấn đề được bàn đến trong triết học đó. Trong trường hợp này, chúng ta thử viết một bài nghiên cứu mang tính phê bình về triết học Thế Thân.
(Xem: 23918)
Ở đây, nội dung của tập sách này chỉ giới thiệu một cách khái quát về các thể loại văn học của kinh điển và một số thể loại ngôn ngữ được dùng trong kinh điển.
(Xem: 22846)
Toàn bộ kinh Đại Bát Niết-bàn dày hơn 4500 trang, riêng phần Việt dịch chiếm gần 1700 trang; mỗi đoạn mỗi câu trong đó đều hàm chứa những ý tứ sâu xa huyền diệu không dễ gì hiểu thấu qua một vài lần đọc.
(Xem: 22957)
Chúng sinh đau khổ, trôi lăn trong sinh tử luân hồi cũng chỉ vì cái Ta, cho cái Ta có thật rồi bám víu vào nó. Trong đạo Phật gọi đây là bệnh chấp Ngã.
(Xem: 29622)
Tập Kinh Trung Bộ (Majjhima Nikàya) gồm 152 kinh tất cả, chia thành 3 tập: tập I, gồm 50 Kinh đầu, tập II gồm 50 Kinh tiếp và tập III, gồm 52 Kinh chót.
(Xem: 20657)
Quá khứ không truy tìm Tương lai không ước vọng. Quá khứ đã đoạn tận, Tương lai lại chưa đến...
(Xem: 18740)
Thường thì những mối bận tâm thế tục sẽ chỉ mang lại đau khổthất vọng trong đời này và đời sau. Những sự xuất hiện của sinh tử thì chẳng có gì là bền vững, luôn luôn thay đổi và vô thường...
(Xem: 15870)
Kinh Bát Đại Nhân Giác bố cục thành ba phần: Phần mở đầu chỉ một câu đơn giản như là giới thiệu tám điều giác ngộ; Phần hai là nội dung tám điều giác ngộ ấy...
(Xem: 18878)
Sự tịnh hóa của Kim Cương thừa nói riêng và con đường Kim Cương thừa nói chung căn cứ vào trí huệ đại lạctrí huệ tánh Không. Nhờ và bằng trí huệ đại lạctrí huệ tánh Không mà tất cả nghiệp lực được tịnh hóa.
(Xem: 19709)
Phật giáo là một sự thực tập để đối trị khổ đau. Phật nói “ta chỉ dạy về khổ đau và vượt thoát khổ đau” [3] . Ðiều này đã được Phật phát biểu trong công thức của bốn sự thực thâm diệu [tứ diệu đế].
(Xem: 20190)
Thế nào gọi là Phật Lý Căn Bản? – Giáo lý chính yếu của Phật giáo, tóm lược các quan điểm trong ba tạng (Tripitaka).
(Xem: 19975)
Khi Đức Phật tỉnh thức bước ra khỏi cơn mê mà chúng ta vẫn còn đang chìm đắm, Ngài đã nhận thức được sự thực rốt ráo của muôn vật y như chân tướng của chúng.
(Xem: 18149)
Hãy dọn tâm trí vô tư để nhìn thấy khoa học, khoa học là đề tài thảo luận của chúng ta. Khoa học là nơi gặp gỡ của chúng ta.
(Xem: 22984)
Thấy chúng sinh phàm tình mãi trầm chìm trong phiền não, nhiễm ô, thiếu chính niệm và kiềm thúc thân tâm, Đức Như Lai từ bi trí tuệ đã khai thị rất nhiều phương cách...
(Xem: 34212)
Kinh Pháp Cú (Dhammapada) là một trong 15 quyển kinh thuộc Tiểu Bộ Kinh (Khuddaka Nikaya) trong Kinh tạng Pali (Suttanta Pitaka). Ðây là một quyển kinh Phật giáo phổ thông nhất...
(Xem: 16445)
Xuất bản lần đầu vào năm 1995 (tái bản 2001), “Phật Giáo và Đạo Đức Sinh Học” (Buddhism and Bioethics) là một đóng góp có ý nghĩa của Damien Keown* cho Phật giáo về một đề tài chưa được giới Phật giáo nghiên cứu nhiều trước đó.
(Xem: 16947)
Luận thuyết được trình bày ở đây, dành cho những người ước muốn rút ra tinh túy của đời người được phú bẩm những nhàn nhã và thuận lợi, là luận thuyết được gọi là Các Giai đoạn của Con Đường Giác ngộ (Lamrim).
(Xem: 39301)
"Con đường Thiền Chỉ Thiền Quán” đã được Ngài Guṇaratana trình bày một cách khúc chiết, rõ ràng có thể giúp cho những ai muốn nghiên cứu tường tận chỗ đồng dị, cộng biệt, sinh khắc của hai pháp môn này...
(Xem: 26122)
Tâm không có màu sắc hoặc hình tượng để nhận ra được nó, nhưng nó thì tuyệt đối trống rỗng và nhận biết sáng tỏ thấu suốt hoàn toàn. (= viên minh)- đó là tự tính của tâm bạn.
(Xem: 20132)
“Phật giáo khái luận” là một tác phẩm rất có giá trị của cư sĩ Huỳnh Sĩ Phục bên Trung Quốc, lời lẽ tuy vắn tắt, nhưng đã bao hàm tất cả yếu nghĩa của các Tôn hiện hànhTrung Quốc.
(Xem: 18880)
Kinh "Chiếc lưới ái ân" được dịch từ kinh Pháp Cú, Hán Tạng. Chữ "ái ân" nằm ngay trong bài kệ thứ ba của kinh, câu “Nhân vi ân ái hoặc”.
(Xem: 24100)
Có thể nói rằng "Tánh Không luận" là một hệ thống triết học đặc thù của Phật giáo trong thời kỳ phát triển. Sự xuất hiện của nó như là một dấu ngoặc vĩ đại...
(Xem: 29179)
Nếu một người thiện nam hay tín nữ thực hànhhoàn thành Năm Thực Tập Chính Niệm, người ấy cuối cùng sẽ đạt được sự vãng sinh về vùng đất Hòa Hòa Bình và An Lạc...
(Xem: 22928)
Trước khi thực sự bắt đầu nuôi dưỡng điều được gọi là Sáu Hạnh Ba-la-mật, bạn phải phát triển động thái vị tha của tâm thức hay là hành xử của bồ-tát. Bồ-tát là người mà đã hoàn toàn từ bỏ quyền lợi tự ngã của mình...
(Xem: 30997)
Bài văn này được thiền sư Quy Sơn Linh Hựu viết ra nhằm sách tấn việc tu học của đồ chúng, nên gọi là văn cảnh sách, và lấy tên ngài để làm tựa. Từ xưa nay vẫn gọi là “Quy Sơn cảnh sách văn”.
(Xem: 21045)
Chính bộ Kinh quý báu này mở rộng cửa giải thoát cho cả hai hạng người xuất giatại gia nhập vào Pháp Môn Bất Nhị, trở về Bản Tánh Không Hai.
(Xem: 26889)
Duy Ma Cật tức là tên của ông Duy Ma Cật. Mà Duy Ma Cật là chữ Phạn. Trung Hoa dịch là Tịnh Danh. Cũng dịch là Vô Cấu. Tịnh Danh: Chữ tịnh là trong sạch.
(Xem: 20710)
Như ta biết, Tứ diệu đế là bài thuyết pháp đầu tiên của Phật sau khi thành Đạo cho năm anh em A nhã Kiều Trần Như, diễn ra tại vườn Lộc Uyển, về phía bắc thành Ba la nại.
(Xem: 26289)
Thật ra, nếu các bạn không có sự hiểu biết về Tứ diệu đế cũng như chưa tự mình thể nghiệm chân lý của lời dạy này thì các bạn sẽ không thể thực hành Phật pháp.
(Xem: 23360)
Đọc “Tổng Quan Những Con Đường Của Phật Giáo Tây Tạng”, chúng ta sẽ thấy đức Dalai Lama là một bậc Đại Tri Viên, ngài chỉ rõ tất cả mọi con đường để chúng thấy rõ, nhất là con đường Tantra...
(Xem: 19841)
Muốn có sắc như là sắc, thì người ta phải cộng hay trừ đi sắc với không, chẳng hạn, 1 + 0 = 1. Như vậy không, tức là biệt thể để sắc như là sắc, để không như là không...
(Xem: 24705)
Kinh Duy Ma Cật bất khả tư nghì, tuyệt diệu cùng tột, ý chỉ thâm huyền, chẳng phải lời nói có thể diễn tả. Siêu việt tam không (Nhơn không, Pháp không, Không không)... Tỳ Kheo Thích Duy Lực
(Xem: 30056)
Ðọc vào kinh ta nhận thấy chẳng những hàng xuất gia mới thật hành được Phật đạo, mà Cư sĩ, Bà la môn cho đến mọi tầng lớp dân chúng cũng đều thật hành được Phật đạo.
(Xem: 20248)
“Hãy tu tập An-na-ban-na niệm. Nếu Tỳ-kheo tu tập An-na-ban-na niệm, tu tập nhiều, thân chỉ tức và tâm chỉ tức, có giác, có quán, tịch diệt, thuần nhất, phân minh tưởng, tu tập đầy đủ...
(Xem: 20437)
“Quý vị khất sĩ! Phép quán niệm hơi thở, nếu được phát triển và thực hiện liên tục, sẽ đem lại những thành quảlợi lạc lớn, có thể làm thành tựu bốn lĩnh vực quán niệm (Tứ Niệm Xứ)...
(Xem: 15166)
Kinh Niệm Xứ, Satipattthana Sutta, là một bài kinh vô cùng quan trọng vì kinh này đề cập đến những đề mục hành thiền nhằm phát triển cả hai, tâm Vắng Lặng (Samatha) và trí tuệ Minh Sát (Vipassana).
(Xem: 15852)
Có một thầy trẻ đến đặt một câu hỏi với Đức Thế Tôn liên quan tới vấn đề ái dục và đã được Đức Thế Tôn trả lời câu hỏi đó bằng tám bài kệ.
(Xem: 23933)
Kinh Bách Dụ, một bộ kinh trong Đại Tạng chuyển tải ý nghĩa thâm diệu bằng những câu chuyện thí dụ rất sâu sắc. Biên soạn: Pháp sư Thánh Pháp; Việt dịch: Thích Nữ Viên Thắng; Hiệu đính: Thiện Thuận
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant