Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Tắc thứ Ba Mươi Tám: Trâu Sắt Của Phong Huyệt

21 Tháng Tư 201100:00(Xem: 15568)
Tắc thứ Ba Mươi Tám: Trâu Sắt Của Phong Huyệt

BÍCH NHAM LỤC
(MỘT TRĂM CÔNG ÁN THIỀN TÔNG)
Thích Mãn Giác dịch
Chùa Việt Nam Trung Tâm Văn Hoá Phật Giáo Việt Nam tại Hoa Kỳ 1988

Phần 4

TẮC THỨ BA MƯƠI TÁM

TRÂU SẮT CỦA PHONG HUYỆT

 

THÙY: Nếu luận về tiệm, tức đi ngược lại cái thường hợp với đạo. Xoay trở lung tung trong chốn chợ ồn ào. Nếu luận về đốn, thì không để lại dấu vết, ngàn thánh cũng không biết đâu mà rờ. Thảng hoặc không lập đốn tiệm thì như thế nào? Người nhanh trí chỉ cần một lời, ngựa chạy nhanh chỉ cần một roi. Đúng vào lúc ấy, ai là người chủ động? Thử nêu lên xem.

CỬ: Trong nha môn ở Đinh Châu, Phong Huyệt thượng đường nói, “Tâm ấn của Tổ Sư giống như cái máy trong con trâu sắt, lấy đi thì ấn còn, trụ lại thì ấn phá. Còn như nếu không khử không trừ, thì ấn là đúng hay không ấn là đúng?

Lúc ấyTrưởng Lão Lư Pha bước ra hỏi, “Kẻ hèn này có cái máy của trâu sắt, xin thầy đừng đóng ấn.” Phong Huyệt nói, “ Quen câu kình ngư khuấy biển lớn, lại gặp nhái bén lội trong bìn.” Lư Pha đứng đó suy nghĩ. Phong Huyệt hét, “Trưởng Lão, sao không nói tiếp đi?” Lư Pha vừa toan biện bạch, Phong Huyệt đã lấy phất trần đánh cho một cái. Phong Huyệt nói, “Còn nhớ thoại đầu không? Thử nêu lên xem?” Lư Pha vừa định mở miệng, Phong Huyệt lại dùng phất trần đánh nữa.

Mục chủ nói, “Phật pháp là một với vương pháp.” Phong Huyệt nói, “Ngài thấy được đạo lý gì vậy?” Mục chủ nói, “Không đoạn cái phải đoạn, lại chỉ gây rối loạn.” Phong Huyệt bèn bước xuống khỏi tòa.

BÌNH: Phong Huyệt là bậc tôn túc trong giòng của Lâm Tế. Thuở ban đầu Lâm Tế cũng ở trong chúng hội của Hoàng Bá. (Một hôm) lúc Lâm Tế đang trồng cây tùng, Hoàng Bá nói, “Trong chốn thâm sơn như vầy trồng nhiều tùng như thế để làm gì?” Lâm Tế nói, “Thứ nhất là để làm cảnh cho tự viện, thứ hai là để làm bảng hiệu cho người đời sau.” Nói xong bèn lấy xuổng bới đất. Hoàng Bá nói,” Tuy sự thật là thế, song ông cũng đã ăn hai chục gậy rồi.” Lâm Tế lại bới đất một lần nữa rồi thở hổn hển. Hoàng Bá nói, “Tông môn của chúng ta đến ông là có thể hưng thịnh trong đời vậy.”

Quí Sơn Triết nói, “Lâm Tế giống như thể trên đất bằng gây sóng, tuy là như thế, nhưng mà chỉ khi nào người ta có thể bình tĩnh lúc lâm nguy mới đáng được gọi là bậc đại trượng phu chân chính.” Hoàng bá nói, “Tông môn của chúng ta đến ông là có thể hưng thinh trong đời vậy.” Tựa như thể thương con mà không biết xấu. sau đó Qui Sơn hỏi Ngưỡng Sơn, “Lúc ấy Hoàng Bá chỉ truyền cho một mình Lâm Tế hay còn có ai khác nữa?” Ngưỡng Sơn nói, “Có chứ, có điều thời đại xa xưa quá rồi cho nên đệ tử không muốn nói cho hòa thượng làm gì.” Qui Sơn nói, “Tuy là thế, song ta vẫn muốn biết, ông thử nói xem sao.” Ngưỡng Sơn nói, “Một người chỉ về phương nam, mệnh lệnh được thi hành ở Ngô Việt, gặp gió lớn mới hưng.” Đây chính là lời tiên tri về Phong Huyệt vậy.

Phong Huyệt thoạt tiên tham học với Tuyết Phong trong năm năm. Có lần xin chỉ thị về câu chuyện sau đây: “Lâm Tế bước vào sảnh đường, các thủ tòa hai bên đều hét lên cùng một lượt. Có ông tăng hỏi Lâm Tế, “Còn có chủ khách nữa hay không?” Lâm Tế nói, “ Chủ khách hiển nhiên ra đó.” Phong Huyệt nói, “Đệ tử chưa hiểu ý nghĩa của công án này là như thế nào?” Tuyết Phong nói, “Thuở xưa ta với Nham Đầu và Khâm Sơn đi gặp Lâm Tế, giữa đường nghe tin rằng thầy ta đã thiên hóa. Nếu như ông muốn hiểu công án về chủ khách này, cần phải tham kiến các bậc tôn túc trong tông phái của thầy ta.”

Sau đó Phong Huyệt lại gặp Thúy Nham. Thúy Nham thường tự gọi, “Này ông chủ!” Rồi lại tự đáp, ”Vâng!” Cũng lại nói, “Hãy tỉnh táo, sau này đừng để thiên hạ lừa.” Phong Huyệt nói, “Tự niêm tự lộng có gì là khó?” Sau đó cũng kiết hạ với Quách Thị Giả ở Lộc Môn, Tương Châu. Quách Thị Giả khuyên Phong Huyệt đến gặp Nam Viện. Phong Huyệt nói, “Vào nhà thì phải phân biện chủ khách, cho nên xin để thầy phân xử.”

Một hôm gặp Nam Viện, Phong Huyệt thuật lại công án trên rồi nói, “Kẻ hèn này đến chính là để tham khảo về việc đó.” Nam Viện nói, “ Tuyết Phong là bậc cổ Phật.”

Một hôm Phong Huyệt gặp Kính Thanh. Kính Thanh hỏi, “Thầy mới từ đâu đến vậy?” Phong Huyệt nói, “Từ phương đông đến.” Kính Thanh nói, “Thuyền lớn bay trên trời, sông nhỏ không qua được.” Kính Thanh nói, “Nước gương núi về, chim qua không được. Phải chăng ông nghe lén di ngôn?” Phong Huyệt nói, “ Biển xanh còn sợ thế tầu lớn, liệt hán dương buồm vượt năm hồ.” Kính Thanh dơ phất trần lên nói, “Còn cái này thì như thế nào?” Phong Huyệt nói, “Còn cái này thì như thế nào?” Phong Huyệt nói, “Cái này là cái gì vậy?” Kính Thanh nói, “Quả nhiên là ông không biết.” Phong Huyệt nói, “ Biến hiện cuốn mở, cùng một cái dụng với thầy.” Kính Thanh nói, “Đoán mò nghe lời rỗng, ngủ say nói mê man.” Phong Huyệt nói, “Đầm rộng chứa núi, cáo thắng được beo.” Kính Thánh nói, “ Tôi tha tội thứ lỗi cho ông, ông mau đi đi.” Phong Huyệt nói, “Đi là thua” Rồi bèn đi ra, đến Pháp Đường tự nói với mình, “Đại trượng phu, công án chưa xong , làm sao có thể bỏ ngang được?” Lại trở vào phương trượng, thấy Kính Thanh ngồi đó bèn hỏi, “Vừa rồi tự trình kiến giải thô lậu, xúc phạm đến tôn nhan, may mà được hòa thượng rủ lòng từ bi không trách phạt.” Kính Thanh nói, “ Vừa rồi ông bảo là từ phương đông đến, phải chăng là từ Thúy Nham đến?” Phong Huyệt nói, “ Tuyết Đậu ở phía đông của Bảo Cái.” Kính Thanh nói, “Đừng đuổi dê lạc hiểu lầm dứt, rồi lại đến đây ngâm bài thơ.” Phong Huyệt nói, “ Gặp bậc kiếm khách nên dâng kiếm, không phải thi nhân dừng tặng thơ.” Kính Thanh nói, “ Mau gạt thơ qua một bên, thử dùng kiếm xem sao.” Phong Huyệt nói, “ Kẻ bị chặt đầu đem kiếm đi rồi.” Kính Thanh nói, “Không những đã phạm phong hóa, còn lộ đầu mít đặc.” Phong Huyệt nói, “ Nếu không phạm phong hóa, sao hiểu cổ Phật tâm?” Kính Thanh nói, “ Cổ Phật tâm là gì?” Phong Huyệt nió, “Lại chấp nhận nữa, bây giờ thầy có gì?” Kính Thanh nói, “Ông tăng từ phương đông đến này không phân biệt được đậu và lúa mạch.” Phong Huyệt nói, “ Chỉ nghe không dứt mà dứt, làm sao có thể buộc nó dứt mà nó dứt được?” Kính Thanh nói, “Sóng lớn dâng ngàn trường, ba đào không lìa nước. Một câu cắt đứt dòng tư tưởng, vạn cơ lập tức tự tịch diệt.” Phong Huyệt bèn cúi lạy. Kính Thanh lấy phất trần điểm vào người Phong Huyệt ba lần rồi nói, “ Hùng vĩ thay, bây giờ ngồi xuống dùng trà đi.”

Lúc Phong Huyệt mới đến gặp Nam Viện, bước vào mà không cúi lậy. Nam Viện nói, “ Vào nhà phải biết nhìn xem ai là chủ nhân chứ!”Phong Huyệt nói, “ Xin mời thầy phân biện rõ ràng.” Nam Viện dùng tay trái vỗ lên đầu gối một cái. Phong Huyệt bèn hét. Nam Viện bèn dùng tay phải vỗ lên đầu gối một cái. Phong Huyệt cũng hét. Nam Viện bèn dơ tay trái lên rồi nói, “ Cái này xin theo thầy.” Rồi lại dơ tay phải lên nói, “Còn cái này thì như thế nào?” Phong Huyệt nói, “Mù!” Nam Viện bèn dơ gậy lên. Phong Huyệt nói, “ Hòa thượng làm gì vậy?Thế nào tôi cũng giựt gậy mà đánh cho, lúc ấy chớ có bảo là tôi không nói trước.” Nam Viện nói, “Hôm nay ta bị gã, mặt vàng miền Chiết Giang này chọc quê.” Phong Huyệt nói, “ Hòa thượng không ôm nổi bình bát, đừng giả bộ nói là mình không đói.” Nam Viện nói, “ Thầy có đến nơi này bao giờ chưa?” Phong Huyệt nió, “ Nói vậy là ngụ ý gì thế?” Nam Viện nói, “ Chỉ hỏi vậy mà thôi.”Phong Huyệt nói, “Vẫn chưa thể buông tha được.” Nam Viện nói, “Ngồi xơi trà đi.”

Các ông thử nhìn xem các bậc anh tuấn trong Thiền thường có cơ phong sắc bén như vậy đấy. Ngay cả Nam Viện cũng không nhìn ra được thầy ta ( Phong Huyệt). Đến hôm sau Nam Viện chỉ hỏi một câu hỏi bình thường, “Mùa hè này thầy ở đây?” Phong Huyệt nói, “Tôi quá hạ ở Lộc Môn cùng với Quách Thị Giả.” Nam Viện nói, “Té ra là troúc khi đến đây ông đã gặp một chuyên gia rồi.” Rồi lại nói, “Quách Thị Giả nói gì với ông vậy?” Phong Huyệt nói, “Thủy chung thầy ta chỉ dạy tôi lúc nào cũng phải đóng vai chủ.” Nam Viện bèn đánh và xô ra khỏi phương trượng vừa nói, “Kẻ chịu thua như vậy thì còn dùng được vào việc gì nữa!”

Phong Huyệt từ đó chịu phục và làm người làm vườn ở nơi chúng hội của Nam Viện. Một hôm Nam Viện vào vườn hỏi, “Ở phương nam thiên hạ thương lượng về một chiếc gậy như thế nào?” Phong Huyệt nói, “Thương lượng một cách hết sức đặc biệt.Còn ở đây thì như thế nào,bạch hòa thượng?” Nam Viện dơ gậy lên nói, “Dưới gậy vô sinh nhẫn,gặp cơ không nhường thầy.” Phong Huyệt nghe thế bèn hoát nhiên đại ngộ.

Lúc ấy là vào thời Ngũ Đại ly loạn. Vị châu mục của Đinh Châu mời Sư (Phong Huyệt) đến kiết hạ ở đó. Lúc ấy tông phái của Lâm Tế thịnh hành vô cùng. Bất cứ vấn đáp hay giảng dạy. lúc nào lời lẽ của Sư cũng sắc bén hết sức. Rải hoa kết gấm, mỗi chữ đều là cốt yếu. Một hôm châu mục mời sư thượng đường dạy chúng. Sư nói, “Tâm ấn của Tổ Sư giống như cơ thể cơ quan của con trâu sắt. Không có chỗ nào để cho các ông điều động cả. Ông vừa lấy đi thì ấn trụ, ông vừa để lại thì ấn phá, khiến các ông lúng túng vô cùng. Song nếu như các ông không lấy đi không để lại, thì có ấn cũng được mà không có ấn cũng được.” Tại sao lại không giống như cái máy của con trâu sắt? Không có chỗ để cho các ông điều động. Ông lấy đi thì ấn trụ, ông để lại thì ấn phá, khiến các ông lúng túng vô cùng. Còn nếu như các ông không lấy đi không để lại thì có ấn cũng thế mà không có ấn cũng thế. Nhìn xem cách Sư giảng dạy, đúng là đầu lưỡi câu có mồi.

Lúc ấy trong cử tọa có vị Trưởng lão tên là Lư Pha, cũng là bậc tôn túc trong dòng Lâm Tế. Lư Pha dám xuất đầu lộ diện để đối cơ với Phong Huyệt bằng một cách hết sức đặc sắc là chuyển thoại đầu của Sư thành câu hỏi rằng, “Tôi có cái máy của con trâu sắt, xin thầy đừng đóng ấn.” Ai dè Phong Huyệt là một tay chuyên gia cho nên bèn đáp rằng, “ Quen câu kình ngư khuấy biển lớn, lại gặp nhái bén lội trong bùn.” Cũng là trong lời nói có tiếng vọng. Vân Môn nói, “Thả câu bốn biển, chỉ câu mãnh long. Huyền cơ đặc biệt, chỉ tìm tri kỷ.”

Trong biển lớn dùng mưòi hai con trâu để làm mồi câu, song lại chỉ câu được mỗi con nhái.Lời này đã chẳng có gì là huyền diệu mà lại cũng chẳng có đạo lý gì để mà so đo. Cổ nhân nói, “Nếu chỉ nhìn nơi sự vật thì dể, còn nếu như đi so đo bằng ý căn ắt chẳng có gì là nhằm nhò cả. Lư Pha đứng đó mà suy tư. Trông thấy nó mà không biết nắm lấy, ngàn năm e khó gặp được nữa. Đáng tiếc thay! Cho nên mới có câu nói rằng, “Dù cho giảng được ngàn kinh luận, một câu hợp thời khó thốt ra.”

Kỳ thực Lư Pha toan tìm ra những lời hay đẹp để đáp lại Phong Huyệt, không muốn thi hành mệnh lệnh, song rốt cuộc lại bị Phong Huyệt bức bằng thứ cơ phong “cướp cờ đoạt trống.” Trưỡng Lão không còn biết phải làm gì. Giống như lời ngạn ngữ nói, “Bại trân không khỏi bị chổi cỏ quét sạch.” Thoạt đầu vẫn cần phải tìm thương pháp để đối địch, song đợi đến khi tìm được thì đầu đã bị rơi xuống đất rồi.

Vị châu mục cũng học Thiền với Phong Huyệt rất lâu, ông ta biết nói, “Phật pháp với Vương pháp là một.” Phong Huyệt nói, “Ông thấy được cái gì?” Châu mục nói, “Không đoán định được những cái phải đoán định rốt cuộc chỉ gây loạn.” Phong Huyệt là cả một khối tâm linh giống như thể một hồ lô trên mặt nước, ấn nó xuống thì nó quay vòng, đè nó xuống thì nó động. Phong Huyệt biết tùy cơ thuyết Pháp, nếu như không hợp với cơ thì rốt cuộc chỉ là những lời loạn ngữ mà thôi. Phong Huyệt bèn xuống khỏi tòa.

TỤNG

Bắt được Lư Pha cưỡi trâu sắt,

Thương giáp tam huyền khó chống cứ.

Bên thành vua Sở nước triều lên,

Hét lên làm nước chảy ngược chiều.

BÌNH: Tuyết Đậu biết Phong Huyệt có tông phong như thế cho nên mới tụng rằng, “ Bắt được Lư Pha cỡi trâu sắt, thương giáp tam huyền khó chống cự.” Trong tông phái của Lâm Tếtam huyền tam yếu. Trong một câu phải có đủ cả tam huyền, trong một huyền phải có đủ cả tam yếu. Có ông tăng hỏi Lâm Tế, “Thế nào là câu thứ nhất?” Lâm Tế nói, “ An tấm ấn mở điểm son hẹp, không để so đo chủ khách phân.” Thế nào là câu thứ nhì?” Lâm Tế nói, “Diệu biện há không dùng câu hỏi, phương tiện không phụ cơ cắt dòng.” Thế nào là câu thứ ba?” Lâm Tế nói, “Cứ nhìn người nộm trên sân khấu, kéo giựt đều nơi kẻ ở trong.”

Trong một câu của Phong Huyệt đã có đầy đủ cả thương giáp của tam huyền, thật sự tùy thân cho nên không dễ gì ai chống cự được. Nếu như Sư không như thế thì làm gì được Lư Pha? Sau cùng Tuyết Đậu muốn nêu ra cái cơ phong của Lâm Tế, đừng có nói là Lư Pha,cho dù là bên thành của Sơ vương, sóng cả chập chùng, ba đào lồng lộng, tất cả đều quay về nguồn. Chỉ cần một tiếng hét thôi cũng đủ khiến chúng chảy ngược lại.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 19703)
Hạnh phúc hay khổ đau trong kiếp sống hiện tại và tương lai đều là kết cục của những ý nghĩ và hành động trong kiếp sống quá khứ hay bây giờ của chúng ta...
(Xem: 23962)
Tôi nghe như vầy, một thuở nọ đức Phậttịnh xá Trúc Lâm, thành Vương Xá, xứ Ma Kiệt Ðà, cùng với năm trăm vị đại tỳ kheo, đều là các bậc A La Hán...
(Xem: 41220)
Khi ấy đức Thế tôn vì các Tỳ-khưu mà nói Pháp Tứ Đế, thời các Tỳ-khưu đầy đủ Tam minhLục thần thông. Bấy giờ các Tỳ-khưu khuyến thỉnh đức Thế tôn chuyển Pháp luân.
(Xem: 19694)
Một khi chúng ta chấp nhận một truyền thống tôn giáo, thì điều ấy phải trở thành một bộ phận trong đời sống hằng ngày của chúng ta.
(Xem: 23984)
Những ai đó có thái độ yêu mến người khác nhìn những người khác quan trọng hơn hẳn chính mình và đánh giá sự giúp đỡ người khác trên tất cả những thứ khác.
(Xem: 21747)
Bắt đầu quan sát những hoạt động trong tâm ta - những ý nghĩ, cảm xúccảm giác. Chỉ quan sát những hoạt động tinh thần này mà không dính líu vào điều nào cả...
(Xem: 23312)
Đức Quan Thế Âm Bồ Tát vô cùng hoan hỷ về sự tu tậptâm thành của ta, Ngài tan thành một luồng ánh sáng trong suốt đi vào đỉnh đầu ta và an trú nơi tim ta.
(Xem: 27505)
Vi Diệu Pháp giúp chúng ta thấy rõ chơn tướng của các pháp và nhờ đó ta có thể dẹp đi những kiến thức sai lầm về con ngườithế gian.
(Xem: 26574)
Kinh Pháp Hoa tuyên thuyết hai thông điệp chính: (i) Tất cả chúng sanh đều có thể thành Phật, và (ii) Chỉ có một con đường tu học duy nhấtPhật thừa. Tam thừa chỉ là phương tiện dẫn dắt chúng sanh buổi ban đầu.
(Xem: 29317)
Thắng Pháp Tập Yếu Luận - Tỳ kheo Thích Minh Châu (dịch và giải) Viện Đại Học Vạn Hạnh 1973
(Xem: 33199)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Bảo Tích, Kinh số 0366 - HT Thích Trí Tịnh dịch
(Xem: 20195)
Luận về giáo ngữ đều có ba câu liền nhau là sơ thiện, trung thiện và hậu thiện. Sơ là dạy họ phát thiện tâm, trung là phá thiện tâm, hậu mới là thiện tốt.
(Xem: 25776)
Cái nhân bồ tát hạnh của Phật làm cho sự sống lâu của Phật đã không bao giờ hết. Phật ở bên ta... HT Thích Trí Quang dịch
(Xem: 20915)
Kinh Pháp hoa là kinh nói về pháp chân thực, hiện thực, vi diệu, nguyên vẹn của chư Phật, ví như hoa sen, nên Ngài La thập dịch là Diệu pháp liên hoa kinh.
(Xem: 31319)
Kinh Tăng Chi Bộ là một bộ kinh được sắp theo pháp số, từ một pháp đến mười một pháp, phân thành 11 chương (nipàtas). Mỗi chương lại chia thành nhiều phẩm (vaggas).
(Xem: 38578)
Hai mươi tám phẩm kinh Pháp-Hoa chan chứa tâm hạnh của Phật và đại Bồ-Tát, trải dài những con đường phương tiện giáo hóa thênh thang ngõ hầu mang chúng sanh từ phàm đến thánh...
(Xem: 21439)
Những ai hữu duyên đọc được kinh này, sẽ có chính kiến thấy được cuộc sống hiện tại là tấm gương phản chiếu quá khứ vị lai. Đúng như lời Phật dạy, mình không cần phải nhờ thầy xem bói mà chính mình là vị thầy bái cho mình hơn ai hết.
(Xem: 44264)
Lễ quy y theo Phật giáo là một buổi lễ tổ chức đơn giản cho cá nhân hay tập thể, xin gia nhập vào hàng ngũ Phật tử. Lễ này có thể tổ chức tại gia, chùa chiền...
(Xem: 29830)
Chủ đích của Thập Nhị Môn Luận là lý giải nhằm làm sáng tỏ giáo nghĩa thâm sâu cùng cực của Đại thừa. Cốt lõi quan trọng của giáo nghĩa này chính là đạo lý tánh Không...
(Xem: 42212)
Hán dịch: Tam Tạng Sa Môn Thật-Xoa Nan-Đà (Siksananda), người xứ Vu Điền (Khotan), phiên dịch vào đời nhà Đường của Trung Hoa; Việt dịch: Ban Việt Dịch Vạn Phật Thánh Thành
(Xem: 22141)
Kinh Ðịa Tạng được xem là một bộ "Hiếu Kinh" của Phật Giáo. Bồ Tát Ðịa Tạng là một vị Bồ Tát thực hành hiếu đạo, và là vị Bồ Tát hiếu thảo với cha mẹ nhất.
(Xem: 45760)
Khi đức Phật phát ra bất-khả-thuyết bất-khả-thuyết tiếng vi diệu như thế xong, thời có vô lượng ức hàng Trời, Rồng, Quỉ, Thần ở trong cõi Ta-bà...
(Xem: 32111)
Địa tạng chú trọng cả sinh và chết. Địa tạng rất trọng thị hạnh phúc nhân loại. Địa tạng hay nói Phật giáo, nhưng chữ ấy không có nghĩa tôn giáo của Phật, mà là giáo huấn của Ngài... HT Thích Trí Quang
(Xem: 23959)
Yếu chỉ của Kinh này là dùng nghĩa Duy Thức để phá kiến chấp của ngoại đạo, vì danh từ và nghĩa lý của ngoại đạo cũng tựa như lời Phật, xem thì ngoại đạo với Phật hai ý khác hẳn...
(Xem: 24392)
Giới là nghĩa uy nghi. Định là chẳng loạn động. Huệ là sự hiểu biết. Giải thoát là lìa khỏi các dây ràng buộc. Vô thượngvô lậu, dứt hết các phiền não.
(Xem: 29281)
Trong sách này Ngài Sayadaw diễn tả đầy đủ phương pháp quán niệmgiải thích với đầy đủ chi tiết đường lối suy tư về lý vô ngã có thể dẫn đến mức độ thành tựu Niết Bàn.
(Xem: 33920)
Hãy tu hành một pháp. Hãy quảng bá một pháp. Các ngươi sẽ thành tựu thần thông, loại bỏ các loạn tưởng, đạt được quả Sa-môn... TT Thích Đức Thắng dịch
(Xem: 27683)
Tăng Nhất A-hàm là so sánh sự mạch lạc của pháp rồi dùng số mà xếp thứ tự. Số tận cùng là mười, thêm vào một, nên gọi là Tăng Nhất... HT Thích Thanh Từ dịch
(Xem: 32135)
Đức Phật Thích Ca đã dạy rằng: “Đức Phật chân thật không ở bên ngoài mà nơi Tâm mỗi chúng ta”. Cũng như thế, chư Thiên hay Quỷ thần không ở bên ngoài mà ngay nơi tâm chúng ta...
(Xem: 21066)
Đạo là con đườngđạo Phậtcon đường đi đến giác ngộ. Có vô số cách đi trên con đường ấy – vô lượng pháp môn tu – tùy theo căn cơ, tính giác của từng cá thể...
(Xem: 28852)
Thanh Quy cũng như luật ngoài đời, do Tổ thuật mà giữ gìn đúng nghi cách. Nhưng Thanh Quy khởi đầu từ ngài Pháp Vân đời Lương (thế kỷ 5) ở chùa Quang Trạch.
(Xem: 21583)
Tập sách nhỏ này do các Thiền sinh tại Tu Viện Chơn Không ghi lại các buổi nói chuyện của Thầy Viện Chủ trong những buổi chiều tại Trai đường hoặc ở nhà khách.
(Xem: 28065)
Vào năm 1986-1987 Hòa Thượng giảng Kinh Nguyên Thủy; đối chiếu Kinh Pali (dịch ra Việt Ngữ) và A Hàm tại Thường Chiếu giúp cho Thiền sinh thấy rõ nguồn mạch Phật Pháp từ Nguyên Thủy đến Đại ThừaThiền Tông.
(Xem: 22074)
Thiện nam tử, nếu có ngữ nghiệp của thân, miệng, ý thì không phải Phật ngữ. Thiện nam tử, nếu khôngngữ nghiệp của thân, miệng, ý thì gọi là Phật ngữ.
(Xem: 21441)
Sa môn hỏi Phật, lành là gì? lớn nhất là gì? Phật nói, đi theo đường đạo, giữ đúng lẽ chân, là lành. Chí nguyện phù hợp với đạo là lớn nhất.
(Xem: 19502)
Phật dạy: Người có nhiều tội lỗi, không biết tự ăn năn sửa đổi, tội ấy chồng chất vào mình, chẳng khác gì nước dồn về biển, càng ngày càng nhiều... HT Thích Thanh Cát
(Xem: 19470)
Đức Phật dạy: "Những người xuất gia làm Sa-môn đoạn dục, khứ ái, nhận biết nguồn tâm của mình, thông đạt đạo lý thâm sâu của Phật và tỏ ngộ pháp Vô-vi.
(Xem: 19835)
Sau khi thành đạo, đức Thế-Tôn suy nghĩ rằng: “Lìa bỏ sự ham muốn, an- trụ trong vẳng-lặng, là điều cao hơn cả!”. Ngài an-trụ trong đại-định và hàng-phục các ma-đạo.
(Xem: 19249)
Đức Thế-Tôn nói qua về hành-tướng của nhân-duyên rằng: Do duyên kia sinh ra quả, nên dù Như-Lai xuất-hiện ra đời hay không xuất-hiện ra đời đi nữa, tính của mọi pháp (sự-vật) vẫn thường-trụ.
(Xem: 29188)
Giáo - Lý - Hạnh - Quả là cương tông của Phật pháp. Nhớ Phật, niệm Phật thực là đường tắt để đắc đạo. Thời xưa, cứ tu một pháp thì cả bốn (Giáo - Lý - Hạnh - Quả) đều đủ.
(Xem: 20625)
Để có một đời sống hạnh phúc an lạc – những ngày hạnh phúc và những đêm an lạc – điều cực kỳ quan trọng là phối hợp sự thông tuệ của con người với những giá trị căn bản của nhân loại.
(Xem: 28300)
Nếu ai nấy chẳng làm các điều ác thì những sự tổn hại chúng sanh đều sẽ chẳng ai làm, tham-sân chẳng đủ để tạo thành tai họa vậy!
(Xem: 23650)
Thiền Sư Phổ Chiếu thật đã ngộ Chơn Tâm thấy được bản tánh. Vì lòng từ bi vô lượng, Ngài chẳng tiếc những sợi lông mày, mở cửa phương tiện để dẫn dắt kẻ hậu lai.
(Xem: 33186)
Thiền Tông nhấn mạnh vào mặt kinh nghiệm cá nhân, nhắm đưa từng con người chúng ta giáp mặt trực tiếp với chân lý trong ngay chính hoàn cảnh hiện tiền của chúng ta.
(Xem: 31844)
Các pháp thế gian đều kỵ chấp trước, chỗ qui kính của Thích tử không ai bằng Phật mà có khi vẫn phải quở. Bởi có ta mà không kia, do ta mà không do kia vậy.
(Xem: 21377)
Giới luậtuy nghi không phải là những yếu tố hạn chếbó buộc, trái lại đó là những phương tiện bảo vệ tự do cá nhân và tạo nên sự hòa hợpan lạc cho đoàn thể tu học mình.
(Xem: 39626)
Quả thật, chân lý thiền vốn ở ngay nơi người, ngay trong tự tâm chúng ta đây thôi. Vậy ai có tâm thì chắc chắc có thiền, không nghi ngờ gì nữa.
(Xem: 21551)
Nhân Giới sinh Định, nhân Định phát Tuệ– ba môn học liên kết chặt chẽ vào nhau, nhờ vậy mới đủ sức diệt trừ tham ái, đẩy lùi vô minh, mở ra chân trời Giác ngộ.
(Xem: 19378)
Tâm bồ-đề cũng như hư-không. Tâm và hư-không, không có hai tướng. Đây nói, tâm và hư-không, là nói về trí chân-không bình-đẳng.
(Xem: 26397)
Kinh Nghĩa Túc đã bắt đầu dạy về không, vô tướng, vô nguyệnbất khả đắc. Kinh Nghĩa Túc có những hình ảnh rất đẹp về một vị mâu ni thành đạt.
(Xem: 24830)
"Không" nếu làm "không" được thì chẳng phải chơn không, "sắc" nếu làm "sắc" được thì chẳng phải chơn sắc; Chơn sắc vô tướng, chơn không vô danh...
(Xem: 21757)
Khi niệm Phật dụng công chặt chẽ kín đáo thì vọng tưởng thô cố nhiên phải lặng chìm, nhưng rất khó nhận được tướng qua lại của phần vọng tưởng vi tế.
(Xem: 22387)
Kinh Hoa Nghiêm nói: “Giới là gốc của Vô thượng Bồ đề”. Do đó, tinh thần căn bản của Phật giáo là ở sự tôn nghiêm của giới luật, tức là đệ tử của Phật phải tôn trọng và tuân giữ giới luật.
(Xem: 29135)
TRUNG LUẬN có năm trăm bài kệ, là tác phẩm của Long Thọ. Lấy chữ Trung mà nêu Danh, là để soi tỏ cái Thật, lấy chữ Luận mà gọi tên, là để suốt cùng ngôn ngữ.
(Xem: 22559)
Hệ thống Kalachakra hay “bánh xe thời gian” hay ‘thời luân’ của Mật Pháp Tương Tục Du Già Tối Thượng bổ sung thêm xa hơn những sự song hành nội tại và ngoại tại.
(Xem: 20471)
Một trong những phương pháp tu tập của bồ tát hay động cơ chính khiến bồ tát hành bồ tát hạnh (Boddhisattvā-cāryā) không mệt mỏituệ giác tánh không.
(Xem: 23517)
Các pháp vốn không có tự tánh (vô tự tánh) nên không có tướng Hữu, thế mà bảo rằng có sự việc như thế, vì vậy nên cái việc (cho rằng) có đó hoàn toàn không hợp lý.
(Xem: 21239)
Trung Quán Luận gồm 27 phẩm, mặc dù có quán có phá, kỳ thực quán cũng là phá. Bất cứ hữu vi pháp, vô vi pháp, tất cả đều phá.
(Xem: 35327)
Cuốn sách này giới thiệu với độc giả cách thọ trì đúng đắn thiền Samatha-Vipassanā (Định-Tuệ) như đã được Đức Phật giảng dạy, tu tập chánh định và thấu suốt vào các pháp chân đế...
(Xem: 24547)
Chơn tâm, Phật tánh thì lúc nào cũng như như bình đẳng, không cột mà cũng không cởi, nhưng con ngườichấp trước mê lầm nên thấy có ràng buộc và cởi mở để được giải thoát.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant