Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Tắc thứ Sáu Mươi: Cây Gậy Của Vân Môn

21 Tháng Tư 201100:00(Xem: 16427)
Tắc thứ Sáu Mươi: Cây Gậy Của Vân Môn

BÍCH NHAM LỤC
(MỘT TRĂM CÔNG ÁN THIỀN TÔNG)
Thích Mãn Giác dịch
Chùa Việt Nam Trung Tâm Văn Hoá Phật Giáo Việt Nam tại Hoa Kỳ 1988

Phần 6

TẮC THỨ SÁU MƯƠI

CÂY GẬY CỦA VÂN MÔN

 

THÙY: Chư Phật chúng sinh vốn chẳng dị biệt, núi sông và mình há có sai khác? Tại sao lại có sự phân chia thành hai như thế? Dù cho các ông có thể xoay chuyển thoại đầu, cắt đứt câu nói, chỉ buông tha thôi cũng không đủ. Nếu như các ông không buông bỏ, cả trời đất này cũng chẳng đáng để nắm giữ. Song thế nào là chỗ để xoay chuyển thoại đầu? Thử nêu lên xem.

CỬ: Vân Môn đưa gậy ra dạy chúng rằng, “Cây gậy đã hóa thành rồng, nuốt trọn cả trời đất rồi. Sơn hà đại địa, còn đâu mà có nữa?”

BÌNH: Như câu nói của Vân Môn rằng “cây gậy đã hóa thành rồng, nuốt trọn cả trời đất rồi. Sơn hà đại địa còn đâu mà có nữa?” Nếu như các ông bảo là có thì các ông mù, nếu như các ông bảo là không thì các ông chết. Các ông có thấy chỗ vì người của Vân Môn chăng? Trả lại cây gậy cho tôi đi. Người bây giờ không hiểu được chỗ độc lộ của Vân Môn. Lại đi bảo rằng Vân Môn dựa vào sắc mà minh giải tâm, nương vào vật mà xiển minh lý. Thích Ca Mâu Ni thuyết Pháp bốn mươi chín năm, không thể không biết lối nghị luận này. Tại sao lại còn cần phải niêm hoa để Ca Diếp mỉm cười? Lão hán này lại gây lúng túng đi nói rằng, “Ta có chính pháp nhãn tạng, niết bàn diệu tâm, nay trao lại cho Ma Ha Ca Diếp.” Tại sao lại phải đơn truyền tâm ấn? Các ông đã là khách trong môn hạ của Tổ sư, song có hiểu được việc đơn truyền tâm ấn này không?

Nếu như trong lòng các ông mà có một vật, lập tức sơn hà đại địa hiển hiện, còn nếu trong lòng không chấp một vật gì thì bên ngoài chẳng có tơ hào gì cả. Còn gì mà phải nói đến nào lý với trí đối tượng rõ ràng cùng sự hiểu biết thần diệu. Tại sao vậy? Bởi vì hiểu một là hiểu tất cả, rõ một là rõ tất cả. Trường Sa nói, “ Những người học đạo không biết cái Thật, chỉ cứ lo đi nhận cái thần thức, cái gốc sinh tử vô lượng kiếp, kẻ mê gọi là bổn lai nhân.” Nếu như các ông hốt nhiên đả phá được ấm giới, thân tâm nhất như, ngoài thân không có gì cả, các ông vẫn chưa đạt được nữa kia. Nói gì đến việc dựa vào sắc để minh giải tâm, nương vào vật để xiển minh lý?

Cổ nhân nói, “Một hạt bụi vừa khởi lên, cả vũ trụ đã được bao gồm trong đó.” Song thử nói xem, một hạt bụi nào vậy? Nếu như các ông biết được hạt bụi này thì các ông biết được cây gậy của Vân Môn. Ngay khi Vân Môn vừa dơ gậy lên, chúng ta đã thấy ngay được các diệu dụng của thầy ta. Nói như vậy cũng đã là dây dưa rồi, hà huống đến chuyện hóa thành rồng. Khánh Tàng Chủ nói, “ Năm ngàn bốn mươi tám quyển, há từng có nói gì sao?” Vân Môn mỗi lần dơ gậy ra là niêm lên được cả toàn cơ đại dụng, vì người một cách sống động thay.

Ba Tiêu dạy chúng rằng, “Lỗ mũi của nạp tăng ở cả trên cây gậy này.” Vĩnh Gia nói, “ Không phải chỉ là hình thức bề ngoài, mà đúng thật là dấu vết của Như Lai bảo trượng.” Xưa dưới thời Phật Nhiên Đăng, Phật Thích Ca xõa tóc ra để che bùn cho Phật Nhiên Đăng. Phật Nhiên Đăng nói, “Nên xây một tự viện ở chỗ này.” Có một thiên tử bèn cắm một cọng cỏ xuống nói rằng, “ Tự viện đã được xây xong.” Các ông thử cho tôi biết xem, chuyện này ở đâu mà có vậy?

Tổ sư nói, “Đầu gậy chứng đắc, dưới hét đảm đương.” Song thử nói xem. Đảm đương cái gì cơ? Hốt nhiên có người hỏi, “Thế nào là gậy?” Các ông sẽ lộn nhào sao? Sẽ vỗ tay sao? Tất cả những thứ này chỉ là trò ma quỉ, may mà chẳng có gì là nhằm nhò cả. Tuyết Đậu tụng rằng:

TỤNG

Cây gậy nuốt trọn trời đất,

Nói mãi hoa đào trên sóng.

Kẻ cháy đuôi không nói nắm mây bắt sương,

Kẻ hụt hơi sao phải thất kinh hồn vía?

Nêu lên rồi,

Có nghe không?

Cân phải tiêu sái tự tại

Chớ nên bối rối phân vân.

Bảy mươi hai gậy vẫn tha thứ,

Một trăm năm mươi khó tha ông.

Sư bỗng dơ gậy rồi hạ tòa,

Đại chúng lập tức tẩu tán.

BÌNH: Vân Môn vì người một cách vòng vo, Tuyết Đậu vì người một cách trực tiếp. Cho nên Tuyết Đậu mới gạt bỏ cái chuyên hóa thành rồng , cho là chẳng đáng nói, chỉ có việc “ cây gậy nuốt trọn trời đất mà thôi.” Ý của Tuyết Đậu chỉ là sao để thiên hạ đừng chấp voà thiên kiến. Thầy ta tiếp tục nói, “ Nói mãi hoa đào trên sóng.” Không còn cần phải hóa thành rồng nữa. Ở Ngu Môn có ba đợt sóng, cứ mỗi độ đến tháng ba khi hoa đào nở và sóng dâng, những con cá nào có thể bơi ngược dòng nước rồi vượt qua các lớp sóng thì sẽ hóa thành rồng. Tuyết Đậu nói dù có hóa thành rồng đi nữa cũng chỉ là những lời nói vô ích mà thôi.

“Kẻ cháy đuôi không nói nắm mây bắt sương.” Khi cá vượt qua Vũ Môn tự nhiên có lửa trời đốt chày đuôi chúng; cá nắm mây bắt sương mà đi. Tuyết Đậu ý muốn nói rằng dù cho là hóa thành rồng đi nữa cũng không phải là việc nắm mây bắt sương. “ Kẻ hụt hơi sao phải thất kinh hồn vía?” Thanh Lương Sớ nói trong lời tựa rằng, “Dù cho là bậc Bồ Tát tích hạnh đi nữa cũng cứ hụt hơi ở Vũ Môn.” Ý của Thanh Lương muốn nói rằng Hoa Nghiêm cảnh giới không phải là chỗ mà tiểu đức tiểu trí có thể đạt đến được. Giống như những con cá muốn vượt qua Long Môn, những con vượt không được bị điểm lên đỉnh đầu mà quay về, rồi bị mắc cạn nơi vũng nước trên bãi cát, nằm đó mà thở dốc. Tuyết Đậu ý muốn nói rằng những con cá bị điểm lên đầu đuổi về ắt là đều thất kinh hồn vía.

“Nêu lên rồi, có nghe không?” Tuyết Đậu lại bỏ thêm cước chú, trong một lúc quét sạch cả cho các ông. Cho nên các ông cần phải “tiêu sái tự tại, cho nên bối rối phân vân.” Nếu như các ông vẫn tiếp tục bối rối phân vân, thì các ông mất đi cây gậy. “Bảy mươi hai gậy vẫn tha thứ, một trăm năm mươi khó tha ông.” Tuyết Đậu đã vì các ông mà bỏ nặng theo nhẹ. Cổ nhân nói, “Bảy mươi hai gậy biến thành một trăm năm mươi.” Người thời nay hiểu lầm chỉ lo đi tính toán con số, nói rằng, “Lẽ ra phải là bảy mươi lăm gậy chứ tại sao lại chỉ có bảy mươi hai?” Đâu có biết rằng ý của cổ nhân nằm ở ngoài ngôn ngữ. Cho nên mới có câu nói rằng, “Việc này không nằm trong ngôn ngữ.” Tuyết Đậu sở dĩ dẫn dụng việc này là cốt để cho người đời sau đừng xuyên tạc. Dù cho các ông có tiêu sái tự tại thực đi nữa, các ông vẫn cứ đáng ăn bảy mươi hai gậy như thường. Đây vẫn là tha thứ cho các ông một cách dễ dàng. Cho dù là các ông không được như vậy, cũng khó tha cho các ông một trăm năm mươi gậy.

Tuyết Đậu kể như đã tụng xong rồi, lại vẫn dơ gậy lên mà làm lại một lần nữa. Tuy là thế, song thầy ta vẫn không phải là một kẻ có máu dưới da.
 
 

[1] “Đầu vàng” ngụ ý chỉ đức Phật.

[2] “Mắt xanh” (bích nhan) ngụ ý chỉ ngài Bồ Đề Đạt Ma.

[3] Về tiểu sử xin xem thêm trong Cảnh Đức Truyền Đăng lục, cùng một dịch giả, sẽ xuất bản.

[4] Ngụ ý nói ngài Bồ Đề Đạt Ma.

[5] Tức là viên ngọc quí có thể thực hiện tất cả các ước nguyện của người tín đồ.

[6] Ý nói Tổ Bồ Đề Đạt Ma từ Tây Trúc qua.

[7] Nạp tử có nghĩa là tăng.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 19703)
Hạnh phúc hay khổ đau trong kiếp sống hiện tại và tương lai đều là kết cục của những ý nghĩ và hành động trong kiếp sống quá khứ hay bây giờ của chúng ta...
(Xem: 23962)
Tôi nghe như vầy, một thuở nọ đức Phậttịnh xá Trúc Lâm, thành Vương Xá, xứ Ma Kiệt Ðà, cùng với năm trăm vị đại tỳ kheo, đều là các bậc A La Hán...
(Xem: 41221)
Khi ấy đức Thế tôn vì các Tỳ-khưu mà nói Pháp Tứ Đế, thời các Tỳ-khưu đầy đủ Tam minhLục thần thông. Bấy giờ các Tỳ-khưu khuyến thỉnh đức Thế tôn chuyển Pháp luân.
(Xem: 19695)
Một khi chúng ta chấp nhận một truyền thống tôn giáo, thì điều ấy phải trở thành một bộ phận trong đời sống hằng ngày của chúng ta.
(Xem: 23987)
Những ai đó có thái độ yêu mến người khác nhìn những người khác quan trọng hơn hẳn chính mình và đánh giá sự giúp đỡ người khác trên tất cả những thứ khác.
(Xem: 21747)
Bắt đầu quan sát những hoạt động trong tâm ta - những ý nghĩ, cảm xúccảm giác. Chỉ quan sát những hoạt động tinh thần này mà không dính líu vào điều nào cả...
(Xem: 23312)
Đức Quan Thế Âm Bồ Tát vô cùng hoan hỷ về sự tu tậptâm thành của ta, Ngài tan thành một luồng ánh sáng trong suốt đi vào đỉnh đầu ta và an trú nơi tim ta.
(Xem: 27507)
Vi Diệu Pháp giúp chúng ta thấy rõ chơn tướng của các pháp và nhờ đó ta có thể dẹp đi những kiến thức sai lầm về con ngườithế gian.
(Xem: 26575)
Kinh Pháp Hoa tuyên thuyết hai thông điệp chính: (i) Tất cả chúng sanh đều có thể thành Phật, và (ii) Chỉ có một con đường tu học duy nhấtPhật thừa. Tam thừa chỉ là phương tiện dẫn dắt chúng sanh buổi ban đầu.
(Xem: 29319)
Thắng Pháp Tập Yếu Luận - Tỳ kheo Thích Minh Châu (dịch và giải) Viện Đại Học Vạn Hạnh 1973
(Xem: 33199)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Bảo Tích, Kinh số 0366 - HT Thích Trí Tịnh dịch
(Xem: 20196)
Luận về giáo ngữ đều có ba câu liền nhau là sơ thiện, trung thiện và hậu thiện. Sơ là dạy họ phát thiện tâm, trung là phá thiện tâm, hậu mới là thiện tốt.
(Xem: 25777)
Cái nhân bồ tát hạnh của Phật làm cho sự sống lâu của Phật đã không bao giờ hết. Phật ở bên ta... HT Thích Trí Quang dịch
(Xem: 20915)
Kinh Pháp hoa là kinh nói về pháp chân thực, hiện thực, vi diệu, nguyên vẹn của chư Phật, ví như hoa sen, nên Ngài La thập dịch là Diệu pháp liên hoa kinh.
(Xem: 31320)
Kinh Tăng Chi Bộ là một bộ kinh được sắp theo pháp số, từ một pháp đến mười một pháp, phân thành 11 chương (nipàtas). Mỗi chương lại chia thành nhiều phẩm (vaggas).
(Xem: 38578)
Hai mươi tám phẩm kinh Pháp-Hoa chan chứa tâm hạnh của Phật và đại Bồ-Tát, trải dài những con đường phương tiện giáo hóa thênh thang ngõ hầu mang chúng sanh từ phàm đến thánh...
(Xem: 21442)
Những ai hữu duyên đọc được kinh này, sẽ có chính kiến thấy được cuộc sống hiện tại là tấm gương phản chiếu quá khứ vị lai. Đúng như lời Phật dạy, mình không cần phải nhờ thầy xem bói mà chính mình là vị thầy bái cho mình hơn ai hết.
(Xem: 44264)
Lễ quy y theo Phật giáo là một buổi lễ tổ chức đơn giản cho cá nhân hay tập thể, xin gia nhập vào hàng ngũ Phật tử. Lễ này có thể tổ chức tại gia, chùa chiền...
(Xem: 29832)
Chủ đích của Thập Nhị Môn Luận là lý giải nhằm làm sáng tỏ giáo nghĩa thâm sâu cùng cực của Đại thừa. Cốt lõi quan trọng của giáo nghĩa này chính là đạo lý tánh Không...
(Xem: 42212)
Hán dịch: Tam Tạng Sa Môn Thật-Xoa Nan-Đà (Siksananda), người xứ Vu Điền (Khotan), phiên dịch vào đời nhà Đường của Trung Hoa; Việt dịch: Ban Việt Dịch Vạn Phật Thánh Thành
(Xem: 22141)
Kinh Ðịa Tạng được xem là một bộ "Hiếu Kinh" của Phật Giáo. Bồ Tát Ðịa Tạng là một vị Bồ Tát thực hành hiếu đạo, và là vị Bồ Tát hiếu thảo với cha mẹ nhất.
(Xem: 45766)
Khi đức Phật phát ra bất-khả-thuyết bất-khả-thuyết tiếng vi diệu như thế xong, thời có vô lượng ức hàng Trời, Rồng, Quỉ, Thần ở trong cõi Ta-bà...
(Xem: 32113)
Địa tạng chú trọng cả sinh và chết. Địa tạng rất trọng thị hạnh phúc nhân loại. Địa tạng hay nói Phật giáo, nhưng chữ ấy không có nghĩa tôn giáo của Phật, mà là giáo huấn của Ngài... HT Thích Trí Quang
(Xem: 23960)
Yếu chỉ của Kinh này là dùng nghĩa Duy Thức để phá kiến chấp của ngoại đạo, vì danh từ và nghĩa lý của ngoại đạo cũng tựa như lời Phật, xem thì ngoại đạo với Phật hai ý khác hẳn...
(Xem: 24393)
Giới là nghĩa uy nghi. Định là chẳng loạn động. Huệ là sự hiểu biết. Giải thoát là lìa khỏi các dây ràng buộc. Vô thượngvô lậu, dứt hết các phiền não.
(Xem: 29281)
Trong sách này Ngài Sayadaw diễn tả đầy đủ phương pháp quán niệmgiải thích với đầy đủ chi tiết đường lối suy tư về lý vô ngã có thể dẫn đến mức độ thành tựu Niết Bàn.
(Xem: 33920)
Hãy tu hành một pháp. Hãy quảng bá một pháp. Các ngươi sẽ thành tựu thần thông, loại bỏ các loạn tưởng, đạt được quả Sa-môn... TT Thích Đức Thắng dịch
(Xem: 27683)
Tăng Nhất A-hàm là so sánh sự mạch lạc của pháp rồi dùng số mà xếp thứ tự. Số tận cùng là mười, thêm vào một, nên gọi là Tăng Nhất... HT Thích Thanh Từ dịch
(Xem: 32136)
Đức Phật Thích Ca đã dạy rằng: “Đức Phật chân thật không ở bên ngoài mà nơi Tâm mỗi chúng ta”. Cũng như thế, chư Thiên hay Quỷ thần không ở bên ngoài mà ngay nơi tâm chúng ta...
(Xem: 21066)
Đạo là con đườngđạo Phậtcon đường đi đến giác ngộ. Có vô số cách đi trên con đường ấy – vô lượng pháp môn tu – tùy theo căn cơ, tính giác của từng cá thể...
(Xem: 28855)
Thanh Quy cũng như luật ngoài đời, do Tổ thuật mà giữ gìn đúng nghi cách. Nhưng Thanh Quy khởi đầu từ ngài Pháp Vân đời Lương (thế kỷ 5) ở chùa Quang Trạch.
(Xem: 21585)
Tập sách nhỏ này do các Thiền sinh tại Tu Viện Chơn Không ghi lại các buổi nói chuyện của Thầy Viện Chủ trong những buổi chiều tại Trai đường hoặc ở nhà khách.
(Xem: 28065)
Vào năm 1986-1987 Hòa Thượng giảng Kinh Nguyên Thủy; đối chiếu Kinh Pali (dịch ra Việt Ngữ) và A Hàm tại Thường Chiếu giúp cho Thiền sinh thấy rõ nguồn mạch Phật Pháp từ Nguyên Thủy đến Đại ThừaThiền Tông.
(Xem: 22075)
Thiện nam tử, nếu có ngữ nghiệp của thân, miệng, ý thì không phải Phật ngữ. Thiện nam tử, nếu khôngngữ nghiệp của thân, miệng, ý thì gọi là Phật ngữ.
(Xem: 21441)
Sa môn hỏi Phật, lành là gì? lớn nhất là gì? Phật nói, đi theo đường đạo, giữ đúng lẽ chân, là lành. Chí nguyện phù hợp với đạo là lớn nhất.
(Xem: 19502)
Phật dạy: Người có nhiều tội lỗi, không biết tự ăn năn sửa đổi, tội ấy chồng chất vào mình, chẳng khác gì nước dồn về biển, càng ngày càng nhiều... HT Thích Thanh Cát
(Xem: 19470)
Đức Phật dạy: "Những người xuất gia làm Sa-môn đoạn dục, khứ ái, nhận biết nguồn tâm của mình, thông đạt đạo lý thâm sâu của Phật và tỏ ngộ pháp Vô-vi.
(Xem: 19835)
Sau khi thành đạo, đức Thế-Tôn suy nghĩ rằng: “Lìa bỏ sự ham muốn, an- trụ trong vẳng-lặng, là điều cao hơn cả!”. Ngài an-trụ trong đại-định và hàng-phục các ma-đạo.
(Xem: 19250)
Đức Thế-Tôn nói qua về hành-tướng của nhân-duyên rằng: Do duyên kia sinh ra quả, nên dù Như-Lai xuất-hiện ra đời hay không xuất-hiện ra đời đi nữa, tính của mọi pháp (sự-vật) vẫn thường-trụ.
(Xem: 29188)
Giáo - Lý - Hạnh - Quả là cương tông của Phật pháp. Nhớ Phật, niệm Phật thực là đường tắt để đắc đạo. Thời xưa, cứ tu một pháp thì cả bốn (Giáo - Lý - Hạnh - Quả) đều đủ.
(Xem: 20625)
Để có một đời sống hạnh phúc an lạc – những ngày hạnh phúc và những đêm an lạc – điều cực kỳ quan trọng là phối hợp sự thông tuệ của con người với những giá trị căn bản của nhân loại.
(Xem: 28302)
Nếu ai nấy chẳng làm các điều ác thì những sự tổn hại chúng sanh đều sẽ chẳng ai làm, tham-sân chẳng đủ để tạo thành tai họa vậy!
(Xem: 23651)
Thiền Sư Phổ Chiếu thật đã ngộ Chơn Tâm thấy được bản tánh. Vì lòng từ bi vô lượng, Ngài chẳng tiếc những sợi lông mày, mở cửa phương tiện để dẫn dắt kẻ hậu lai.
(Xem: 33187)
Thiền Tông nhấn mạnh vào mặt kinh nghiệm cá nhân, nhắm đưa từng con người chúng ta giáp mặt trực tiếp với chân lý trong ngay chính hoàn cảnh hiện tiền của chúng ta.
(Xem: 31844)
Các pháp thế gian đều kỵ chấp trước, chỗ qui kính của Thích tử không ai bằng Phật mà có khi vẫn phải quở. Bởi có ta mà không kia, do ta mà không do kia vậy.
(Xem: 21378)
Giới luậtuy nghi không phải là những yếu tố hạn chếbó buộc, trái lại đó là những phương tiện bảo vệ tự do cá nhân và tạo nên sự hòa hợpan lạc cho đoàn thể tu học mình.
(Xem: 39628)
Quả thật, chân lý thiền vốn ở ngay nơi người, ngay trong tự tâm chúng ta đây thôi. Vậy ai có tâm thì chắc chắc có thiền, không nghi ngờ gì nữa.
(Xem: 21551)
Nhân Giới sinh Định, nhân Định phát Tuệ– ba môn học liên kết chặt chẽ vào nhau, nhờ vậy mới đủ sức diệt trừ tham ái, đẩy lùi vô minh, mở ra chân trời Giác ngộ.
(Xem: 19380)
Tâm bồ-đề cũng như hư-không. Tâm và hư-không, không có hai tướng. Đây nói, tâm và hư-không, là nói về trí chân-không bình-đẳng.
(Xem: 26397)
Kinh Nghĩa Túc đã bắt đầu dạy về không, vô tướng, vô nguyệnbất khả đắc. Kinh Nghĩa Túc có những hình ảnh rất đẹp về một vị mâu ni thành đạt.
(Xem: 24831)
"Không" nếu làm "không" được thì chẳng phải chơn không, "sắc" nếu làm "sắc" được thì chẳng phải chơn sắc; Chơn sắc vô tướng, chơn không vô danh...
(Xem: 21759)
Khi niệm Phật dụng công chặt chẽ kín đáo thì vọng tưởng thô cố nhiên phải lặng chìm, nhưng rất khó nhận được tướng qua lại của phần vọng tưởng vi tế.
(Xem: 22394)
Kinh Hoa Nghiêm nói: “Giới là gốc của Vô thượng Bồ đề”. Do đó, tinh thần căn bản của Phật giáo là ở sự tôn nghiêm của giới luật, tức là đệ tử của Phật phải tôn trọng và tuân giữ giới luật.
(Xem: 29135)
TRUNG LUẬN có năm trăm bài kệ, là tác phẩm của Long Thọ. Lấy chữ Trung mà nêu Danh, là để soi tỏ cái Thật, lấy chữ Luận mà gọi tên, là để suốt cùng ngôn ngữ.
(Xem: 22559)
Hệ thống Kalachakra hay “bánh xe thời gian” hay ‘thời luân’ của Mật Pháp Tương Tục Du Già Tối Thượng bổ sung thêm xa hơn những sự song hành nội tại và ngoại tại.
(Xem: 20471)
Một trong những phương pháp tu tập của bồ tát hay động cơ chính khiến bồ tát hành bồ tát hạnh (Boddhisattvā-cāryā) không mệt mỏituệ giác tánh không.
(Xem: 23518)
Các pháp vốn không có tự tánh (vô tự tánh) nên không có tướng Hữu, thế mà bảo rằng có sự việc như thế, vì vậy nên cái việc (cho rằng) có đó hoàn toàn không hợp lý.
(Xem: 21241)
Trung Quán Luận gồm 27 phẩm, mặc dù có quán có phá, kỳ thực quán cũng là phá. Bất cứ hữu vi pháp, vô vi pháp, tất cả đều phá.
(Xem: 35327)
Cuốn sách này giới thiệu với độc giả cách thọ trì đúng đắn thiền Samatha-Vipassanā (Định-Tuệ) như đã được Đức Phật giảng dạy, tu tập chánh định và thấu suốt vào các pháp chân đế...
(Xem: 24548)
Chơn tâm, Phật tánh thì lúc nào cũng như như bình đẳng, không cột mà cũng không cởi, nhưng con ngườichấp trước mê lầm nên thấy có ràng buộc và cởi mở để được giải thoát.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant