Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

Phẩm 17: Phân tích thành quả

20 Tháng Năm 201100:00(Xem: 8915)
Phẩm 17: Phân tích thành quả

KINH PHÁP HOA
(Hoa Sen Của Chánh Pháp)
Phần CHÍNH VĂN – Thích Trí Quang dịch

CUỐN 5

Phẩm 17: Phân tích thành quả

Khi nghe đức Thế Tôn nói về thời lượng đời sống của ngài bất tận như vậy, đại hộivô lượng vô số chúng sinh được ích lợi lớn lao. Ngài bảo đức Di Lạc, Như Lai nói về sự bất tận như vậy của đời sống Như Lai thì có chúng sinh nhiều bằng rất nhiều con số trăm triệu hằng sa thực hiện tuệ giác Không sinh. Lại có bồ tát nhiều gấp ngàn lần số ấy được tổng trì Nghe nhớ, có bồ tát nhiều bằng bụi nhỏ nghiền một thế giới hệ được các tài hùng biện mà trong đó có sự Biện thuyết, có bồ tát nhiều bằng bụi nhỏ nghiền một thế giới hệ được tổng trì Xoay chuyển vô số; có bồ tát nhiều bằng bụi nhỏ nghiền một đại thiên quốc độ có thể chuyển đẩy bánh xe chánh pháp Không còn thoái chuyển, có bồ tát nhiều bằng bụi nhỏ nghiền một trung thiên quốc độ có thể chuyển đẩy bánh xe chánh pháp Hào quang trong sáng; có bồ tát nhiều bằng bụi nhỏ nghiền một tiểu thiên quốc độ chỉ tám đời nữa thì được Tuệ giác vô thượng, có bồ tát nhiều bằng bụi nhỏ nghiền bốn lần bốn đại lục nhân loại chỉ bốn đời nữa thì được Tuệ giác vô thượng, có bồ tát nhiều bằng bụi nhỏ nghiền ba lần bốn đại lục nhân loại chỉ ba đời nữa thì được Tuệ giác vô thượng, có bồ tát nhiều bằng bụi nhỏ nghiền hai lần bốn đại lục nhân loại chỉ hai đời nữa thì được Tuệ giác vô thượng, có bồ tát nhiều bằng bụi nhỏ nghiền một lần bốn đại lục nhân loại chỉ một đời nữa thì được Tuệ giác vô thượng. Lại có chúng sinh nhiều bằng bụi nhỏ nghiền tám thế giới hệ đều phát tâm Tuệ giác vô thượng.

Khi đức Thế Tôn phân tích chư vị bồ tát được lợi ích của Pháp vĩ đại như vậy thì trong không gian mưa xuống hoa mạn đà và hoa mạn đà lớn, rải trên chư Phật ngồi trên tòa sư tử ở dưới vô lượng trăm ngàn vạn ức cây ngọc, rải trên đức Thích Ca và trên đức Phật nhập diệt đã lâu là đức Đa Bảo cùng ngồi trên tòa sư tử ở trong bảo tháp, rải trên tất cả bồ tátbốn chúng. Trong không gian lại mưa xuống phấn của các hương liệu đại loại như đàn hương, trầm thủy. Cũng trong không gian, trống chư thiên tự kêu vang lên, âm thanh tuyệt diệu, nghe xa; lại mưa xuống cả ngàn loại vải chư thiên; và rủ xuống khắp cả chín phương hướng là những chuỗi ngọc đại loại như chuỗi chân châu, chuỗi ma ni, chuỗi như ý. Bao nhiêu là lư hương, làm bằng các thứ ngọc và ở trong đốt hương liệu vô giá, tự chuyển động đến khắp tất cả, hiến cúng toàn thể pháp hội lớn lao. Các bên ở trên mỗi đức Phật, các vị bồ tát cầm bảo cái có mắc phan phướn, tuần tự mà lên đến Phạn thiên; các vị bồ tát ấy còn đêm âm thanh tuyệt diệu, ngâm hát vô số thi catán dương chư Phật.

Vào lúc ấy, đức Di Lạc từ chỗ ngồi đứng đậy, trần vai bên phải, chắp tay hướng về đức Thế Tôn mà nói những lời chỉnh cú sau đây.

(1) Pháp Thế Tôn nói

thật là hiếm có!

xưa nay chúng con

chưa từng nghe đến!

Thần lực Thế Tôn

thật là vĩ đại!

Đời sống Thế Tôn

thật là bất tận!

(2) Vô số con Phật

hoan hỷ tràn ngập

khắp cả cơ thể,

khi nghe Thế Tôn

phân tích như sau,

về bao nhiêu người

đạt được lợi ích

của Pháp vĩ đại:

(3) Có số thành bậc

Không còn thoái chuyển,

có số thu hoạch

tổng trì Nghe nhớ,

có số thành tựu

về sự Biện thuyết,

số được tổng trì

Xoay chuyển vô số.

(4-Có số bồ tát

7) nhiều bằng bụi nhỏ

một cõi đại thiên

có thể chuyển đẩy

bánh xe chánh pháp

Không còn thoái chuyển,

có số bồ tát

nhiều bằng bụi nhỏ

một cõi trung thiên

có thể chuyển đẩy

bánh xe chánh pháp

Hào quang trong sáng.

Lại có bồ tát

nhiều bằng bụi nhỏ

một cõi tiểu thiên

chỉ tám đời nữa

thì được thực hiện

Tuệ giác Phật đà,

có số bồ tát

nhiều bằng bụi nhỏ

bốn ba hai lần

bốn châu đại lục

chỉ còn bốn đời

ba đời hai đời

thì được trở thành

một đức Phật đà,

có số bồ tát

nhiều bằng bụi nhỏ

một bốn đại lục

chỉ một đời nữa

thì được Tuệ giác

của đấng Toàn giác.

Các vị như vậy

nghe nói đời sống

bất tận của ngài,

cùng thực hiện được

thành quả trong suốt,

thuần khiết, vô hạn.

Lại còn chúng sinh

nhiều bằng bụi nhỏ

tám thế giới hệ

nghe đức Thế Tôn

nói về đời sống

bất tận của ngài,

ai cũng phát Tâm

tuệ giác vô thượng.

(8) Thế Tôn tuyên thuyết

đời sống bất tận,

thật đúng là Pháp

ngoài tầm nghĩ bàn,

Pháp làm nhiều người

được bao lợi ích,

Pháp như không gian

không có biên cương.

(9) Đế Thích, Phạn Vương,

số lượng nhiều như

cát của sông Hằng,

từ nơi vô số

quốc độ của Phật

cùng nhau đến đây,

rải như mưa xuống

hoa của chư thiên

như hoa mạn đà

mạn đà lớn.

(10) Họ như chim bay

di chuyển trong không;

phấn các hương liệu

đàn hương, trầm thủy,

được họ rải xuống

hoa mắt như mưa,

hiến cúng các đấng

Tuệ giác hoàn toàn.

(11) Trống của chư thiên

ở trong không gian

tự nhiên gióng lên

âm thanh tuyệt diệu.

Và vải chư thiên

cả ngàn vạn loại

xoay chuyển trong không

mà cùng rủ xuống.

(12) Những lư hương đẹp

và làm bằng ngọc,

ở trong lại đốt

hương liệu vô giá,

tự động di chuyển

đến khắp tất cả,

hiến cúng các đấng

Tôn cao nhất đời.

(13) Chư đại bồ tát

cầm những bảo cái

có mắc phan phướn

và được làm bằng

bảy chất liệu quí,

đã cao lại đẹp,

số lượng nhiều đến

vạn ức chủng loại,

tuần tự lên đến

tầng trời Phạn thiên.

(14) Trước mỗi đức Phật,

các ngài lại dựng

cột cờ cao đẹp,

trên mắc phan đẹp.

Lại đem ngàn vạn

những bài thi ca,

ngâm hát ca tụng

chư Phật Thế Tôn.

(15) Bao nhiêu sự trạng

đến như thế này,

thì gian trước đây

thật chưa từng có,

xuất từ bao người

cực kỳ hoan hỷ

khi nghe Thế Tôn

nói về thời lượng

đời sống vô lượng

của đức Thế Tôn.

(16) Tiếng nói Thế Tôn

vang cả mười phương,

ích lợi rộng lớn

cho bao chúng sinh,

làm cho tất cả

đủ những thiện căn

hỗ trợ phát Tâm

tuệ giác vô thượng.

Đức Thế Tôn bảo đức Di Lạc, người nào nghe đời sống Như Lai bất tận như vầy, thì dẫu đến nỗi chỉ phát sinh được một ý niệm tin hiểu mà thôi, công đức người ấy đã không có hạn lượng. Thiện nam hay thiện nữ nào vì cầu tuệ giác vô thượngtrải qua rất nhiều trăm triệu thời kỳ, thực hành năm pháp ba la mậtbố thí, trì giới, nhẫn nhục, tinh tiến, thiền định, ngoại trừ bát nhã, công đức của người này đem sánh với công đức của người trước, thì không bằng một phần trong trăm phần, ngàn phần, trăm ngàn vạn ức phần, cho đến toán số ví dụ cũng không có khả năng đem lại sự xác định. Thiện nam hay thiện nữ nào có công đức trước mà thoái chuyển đối với tuệ giác vô thượng là điều không thể có. Đức Thế Tôn muốn lặp lại ý nghĩa này nên nói những lời chỉnh cú sau đây.

(17) Những ai vì cầu

tuệ giác của Phật,

trải qua rất nhiều

trăm triệu thời kỳ

thực hành đủ cả

năm ba la mật -

(18-Bằng cách suốt cả

19) thì gian như vậy,

thực hành bố thí

hiến cho khắp cả,

lại hiến cúng Phật

đệ tử Phật

là chư thanh văn,

duyên giác, bồ tát,

đồ ăn đồ uống

loại quí và lạ,

đồ nằm đồ mặc

loại thượng hảo hạng.

(20) Đem gỗ đàn hương

mà cất tinh xá,

và lập vườn rừng

trang hoàng thêm.

(21) Hiến cúng như vậy

đã nhiều lại tốt,

và trọn thì gian

đã nói ở trên,

rồi đem xoay về

cầu tuệ giác Phật.

(22) Còn giữ tịnh giới

thì rất trong sạch,

không có thiếu sót

không hề lọt mất,

rồi đem xoay về

cầu tuệ vô thượng,

và được chư Phật

ca tụng tán dương.

(23) Thực hành nhẫn nhục

thì đứng vững vàng

ở nơi vị trí

thuần hóa, ôn nhu,

bao nhiêu điều ác

đổ đến nơi mình,

tâm trí người ấy

vẫn không dao động.

(24) Những kẻ tự xưng

là người đắc pháp,

trong lòng ôm giữ

sự tăng thượng mạn;

bị kẻ như vậy

khinh ngạo quấy phá,

sự tồi tệ này

cũng vẫn nhẫn được.

(25) Cần mẫn tinh tiến

thì chính trí nhớ

thường xuyên vững chắc,

vô lượng thời kỳ

chuyên tư duy tu

không hề nhác nghỉ.

(26) Vô số thời kỳ

ở chỗ trống vắng,

hoặc là tọa thiền

hoặc là kinh hành,

dẹp bỏ ngủ nghỉ

tập trung tâm trí.

(27) Nhờ nhân tố này

phát sinh thiền định,

trải qua tám chục

vạn ức thời kỳ,

tâm trí đứng yên

không có loạn động.

(28) Rồi đem cái phước

nhất tâm như vậy

nguyện cầu đạt được

tuệ giác vô thượng,

rằng khi đạt đuợc

sự toàn giác ấy

thì cũng cùng tận

biên cương thiền định.

(29) Người nào trải qua

vạn ức thời kỳ,

làm các pháp trên

mà được công đức,

(30) và người thiện nam

hay thiện nữ nào

nghe Như Lai nói

đời sống Như Lai,

thì dầu chỉ có

một lúc tin hiểu,

công đức người này

vẫn hơn người trên.

(31) Người này hoàn toàn

không có tất cả

những nỗi hoài nghi

những sự hối tiếc,

đem tâm sâu xa

mà tin chốc lát,

vẫn được công đức

đến như thế ấy.

(32) Các vị bồ tát

vô số thời kỳ

thực hành các pháp

đã nói như trên,

thì nghe Như Lai

nói về đời sống

bất tận của Phật

là tin nhận được.

(33) Các vị cúi đầu

kính nhận Pháp Hoa,

cầu nguyện rằng

trong thì vị lai

con cũng có được

đời sống vô tận

để mà hóa độ

vô tận chúng sinh.

(34) Và như Thế Tôn,

vị Sư tử chúa

của dòng họ Thích,

trong thì hiện tại,

đã đến mà ngồi

nơi bồ đề tràng,

cất tiếng vang lên

như sư tử gầm,

thuyết pháp một cách

không sợ hãi gì;

(35) nguyện con sau này

trong thì vị lai,

cũng được mọi người

ai cũng tôn kính,

cũng đến mà ngồi

nơi bồ đề tràng,

cũng nói đời sống

bất tận của Phật

với một phong cách

y như Thế Tôn.

(36) Ai có tâm trí

sâu xa, trong sáng,

thẳng tắp như vậy,

lại còn nghe nhiều

và nhớ đầy đủ,

và theo nghĩa ý

mà lý giải được

lời Như Lai nói,

những người như vậy

không nghi Pháp này.

Lại nữa, Di Lạc, nếu có người nào chỉ nghe Như Lai nói về sự bất tận của đời sống Như Lai mà hiểu được ý hướng của sự nói như vậy, thì người ấy được công đức vô hạn lượng, có năng lực phát khởi tuệ giác vô thượng của Như Lai; huống chi đối với toàn bộ Pháp Hoa mà tự nghe một cách đầy đủ và khuyên người nghe, tự nhớ và khuyên người nhớ, tự chép và khuyên người chép, tự đem hoa, hương, vòng hoa, cờ, phan, lọng dù bằng lụa dày, đèn dầu thơm và đèn bơ sữa bò mà hiến cúng cuốn kinh ấy, thì công đức người này vô hạn lượng, có năng lực phát sinh tuệ giác Biết tất cả.

Di Lạc, thiện nam hay thiện nữ nào nghe Như Lai nói sự bất tận của đời sống Như Lai mà tin hiểu bằng tâm trí sâu xa, thì như vậy là thấy Như Lai thường ở tại Linh sơn, thuyết pháp cho chư vị bồ tátthanh văn bao quanh; thấy thế giới hệ Kham nhẫn này đất bằng lưu ly, bằng phẳng ngay thẳng, dây vàng Diêm phù đàn phân ranh tất cả đường sá thành những đường ngã tám, cây ngọc có hàng có lối, lầu đài toàn do vàng ngọc hợp thành và có các bồ tát ở trong đó. Ai quán tưởng thấy được như vậy thì đại sĩ phải biết đó là sắc thái của sự tin hiểu sâu xa.

Thêm nữa, sau khi Như Lai nhập diệt, ai nghe Pháp Hoa mà không phỉ báng, biết tùy hỷ, thì đại sĩ phải biết như thế cũng đã là sắc thái của sự tin hiểu sâu xa; huống chi tùy hỷ rồi còn biết đọc tụng kính giữ kinh ấy, thì như vậy là đỉnh đầu người ấy đã đội Như Lai. Di Lạc, người như vậy, không kể thiện nam hay thiện nữ, đã không cần xây tháp làm chùa cho Như Lai, đã không cần kiến thiết tăng xá và đem bốn sựï mà hiến cúng chư Tăng. Tại sao, vì thiện nam hay thiện nữ ấy đọc tụng kính giữ Pháp Hoa là đã xây dựng chùa tháp mà hiến cúng Như Lai, đã kiến thiết tăng xá mà hiến cúng chư Tăng; là đã hiến cúng Như Lai bằng cách đem xá lợi của Như Lai mà xây tháp bằng bảy chất liệu quí báu, chu vi rất rộng, và vừa cao vừa nhỏ dần cho đến tận tầng trời Phạn thiên, treo những bảo cái mà ở dưới có mắc phan phướn, treo những chuông nhỏ quí báu, dâng các loại hoa, vòng hoa, các hương liệu, đánh các thứ trống và tấu các nhạc khí như ống tiêu ống sáo và đàn hầu, biểu diễn các vũ khúc và hý kịch, ca hát ngâm vịnhxưng tụng tán dương bằng âm thanh tuyệt diệu; là đã hiến cúng Như Lai bằng cách này trong vô lượng ngàn vạn ức thời kỳ. Di Lạc, sau khi Như Lai nhập diệt, ai nghe Pháp Hoa mà có thể tiếp nhận kính giữ, tự mình và khuyên người sao chép ấn hành, thì như vậy là đã tạo lập tăng xá bằng cách đem gỗ đàn hương đỏ mà làm ba mươi hai sở cung điện và nhà chính, cao bằng tám cây đa la, rộng rãi, tôn nghiêm và mỹ thuật, trong đó có thể ở đến hàng trăm ngàn tỷ kheo; lại có vườn rừng và hồ tắm, có đường để kinh hành, có động để tọa thiền; có đầy đủ đồ mặc, đồ nằm, đồ uống, đồ ăn, dược phẩm và mọi thứ tiện nghi _ đã tạo lập tăng xá như vậy có đến mấy trăm ngàn vạn ức, số lượng vô lượng, mà hiến cúng hiện diện cho Như Laitỷ kheo tăng. Do vậy mà Như Lai nói rằng, sau khi Như Lai nhập diệt, đối với Pháp Hoa, có ai tiếp nhận kính giữ, bằng cách đọc tụng, diễn giảng cho người, tự mình và khuyên người sao chép ấn hành, lại còn xây dựng chùa tháp mà hiến cúng Như Lai, còn tạo lập tăng xá mà hiến cúng với sự tán dương Thanh văn tăng, còn đem trăm ngàn vạn ức phong cách tán dươngtán dương Bồ tátcông đức của Bồ tát, còn vận dụng mọi thứ yếu tố, tùy theo nghĩa ý mà diễn giảng Pháp Hoa cho người, còn giữ giới thanh tịnh, ở chung với những người thuần hóa, còn ẩn nhẩn chứ không giận dữ, trí nhớ vững chắc, thường quí tọa thiềnthực hiện các định sâu xa, tinh tiến dũng mãnh mà thu thập các pháp lành, lợi căn, trí tuệ, khéo đáp mọi sự gạn hỏi _ Di Lạc, sau khi Như Lai nhập diệt, thiện nam hay thiện nữ nào kính giữ Pháp Hoa mà còn có những pháp lành như vậy, thì đại sĩ phải biết những người ấy đã bước mau đến nơi bồ đề tràng, sắp ngồi dưới bồ đề thọ mà hoàn mãn vô thượng giác. Di Lạc, những người ấy đứng ngồi hay kinh hành ở đâu, những chỗ ấy nên xây dựng bảo tháp mà hiến cúng Như Lai, và nhân loại với chư thiên nên hiến cúng bảo tháp này như hiến cúng bảo tháp tôn trí xá lợi của Như Lai.

Khi ấy đức Thế Tôn muốn lặp lại ý nghĩa đã nói, nên nói những lời chỉnh cú sau đây.

(37) Sau khi Như Lai

nhập niết bàn rồi,

ai có năng lực

kính giữ Pháp Hoa,

thì sự vô lượng

của phước người ấy

như Như Lai

đã nói ở trên.

(38) Người như thế ấy

là đã làm đủ

mọi sự hiến cúng

đối với Như Lai

bằng cách xây tháp

mà thờ xá lợi,

tháp ấy trang hoàng

bảy thứ quí báu,

(39) trụ vàng tiêu biểu,

chu vi rất rộng,

càng cao càng nhỏ

cao đến Phạn thiên,

(40) chuông nhỏ quí báu

có ngàn vạn ức,

gió động kêu lên

âm thanh tuyệt diệu;

(41-bằng cách trải qua

42) vô lượng thời kỳ,

hiến cúng tháp ấy

với hoa và hương,

các loại vòng hoa,

vải lụa chư thiên,

diễn tấu kịch nhạc,

đốt đèn dầu thơm

và bơ sữa bò

thường sáng quanh tháp.

(43) Thời kỳ dữ dội

mạt vận giáo pháp,

những ai có thể

kính giữ Pháp Hoa,

thì người như vậy

là đã làm đủ

các cách hiến cúng

đã nói trên đây.

(44) Ai kính giữ được

Diệu Pháp Liên Hoa,

thì như Như Lai

khi còn ở đời

họ đem đàn hương

tạo lập tăng xá

hiến cúng Như Lai

Tỷ kheo tăng.

Tăng xá như vậy

những ngôi nhà chính

mà đã có đến

ba mươi hai sở,

cao bằng tám cây

đa la đại thọ;

(45) thực phẩm hảo hạng,

đồ nằm đồ mặc

toàn loại tinh tế,

đủ mọi tiện nghi

thành nơi cư trú

trăm ngàn chư Tăng;

(46) có vườn có rừng

có những hồ tắm

có đường kinh hành

có động tọa thiền,

tất cả toàn là

tôn nghiêm mỹ thuật.

(47-Đối với Pháp Hoa,

51) những ai tin hiểu

một cách sâu xa,

kính giữ bằng cách

đọc tụng sao chép

khuyên người sao chép,

hiến cúng cuốn kinh

bằng cách dâng lên

các loại bông hoa

các thứ hương liệu,

đem các loại hoa

thích ý, kim sắc,

cùng hoa long thỉ,

ướp dầu mà đốt;

hiến cúng như vậy

được vô lượng phước.

(52) Ví như không gian

vô cùng vô tận,

cái phước như vầy

cũng vô cùng tận.

(53) Những người chỉ có

kính giữ Pháp Hoa

mà đã như vậy,

huống chi những người

kính giữ kinh ấy

mà còn làm cả

bố thí trì giới

nhẫn nhục thiền định;

(54) không có giận dữ

không có ác miệng,

hết lòng tôn kính

chùa tháp thờ Phật,

lại rất khiêm tốn

đối với tỷ kheo,

xa rời tính khí

tự cao tự đại;

(55) thường xuyên tu tập

tư duy, trí tuệ,

có ai gạn hỏi

thì không bực tức

mà lại tùy thuận

giải thích cho họ.

(56) Kính giữ Pháp Hoa

và làm như vậy,

công đức người ấy

không thể lượng định.

(57) Gặp được những người

kính giữ Pháp Hoa,

thành đạt công đức

đến như thế này,

(58) thì nên tung rải

hoa của chư thiên,

đem vải chư thiên

phủ mình người ấy,

đem cả đầu mặt

mà lạy ngang chân,

trong lòng nghĩ tưởng

người ấy như Phật.

(59) Lại nghĩ người ấy

không bao lâu nữa

đến bồ đề tràng

được tuệ giác Phật,

tuệ giác không còn

sơ hở, vọng động,

ích lợi sâu rộng

cho cả trời người.

(60) Và chỗ người ấy

cư trú, kinh hành,

cho đến giảng nói

một bài chỉnh cú,

(61) đều nên xây tháp

tôn nghiêm mỹ thuật

mà hiến Như Lai,

kế đó lại còn

dâng cúng tháp ấy

đủ cả mọi sự.

(62) Vì chỗ con Phật

cư trú như vậy

cũng chính là chỗ

Như Lai sử dụng,

thường xuyên cư trú,

kinh hành, nằm ngồi.

________

Kết thúc tụng kinh Pháp Hoa, chúng con xin hồi hướng:

Vạn ức thời kỳ

không thể nói được

mới được có lúc

Phật nói Pháp Hoa.

Vạn ức thời kỳ

không thể nói được

mới được có lúc

nghe nói Pháp Hoa.

Chúng con nương nhờ

Phật Pháp Tăng lực

mới được trì tụng

Diệu Pháp Liên Hoa.

Chúng con nguyện đem

công đức như vầy

hiến khắp tất cả

các loại chúng sinh,

cầu cho chúng con

cùng với chúng sinh

đều được thành tựu

tuệ giác chư Phật.

Kính lạy kinh Diệu Pháp Liên Hoa, bản kinh của tuệ giác bình đẳng vĩ đại, bản kinh dạy cho bồ tát và được Phật giữ gìn. Kính lạy tất cả Pháp bảo trong quốc độ này và trong mười phương quôác độ.

Kính lạy đức Thích Ca Mâu Ni, đức Phật giáo chủ bổn sư, đã tuyên thuyết kinh Pháp Hoa. Kính lạy đức Đa Bảo, đức Phật đã làm chứng cho kinh Pháp Hoa toàn là chân thật. Kính lạy đức Di Lạc, đức Phật đương lai, đã phát khởi kinh Pháp Hoatiếp dẫn những người hành trì Pháp Hoa vãng sinh Đâu suất tịnh độ. Kính lạy tất cả Phật bảo trong kinh Pháp Hoa, trong quốc độ này và trong mười phương quốc độ.

Kính lạy bồ tát Văn Thù, vị pháp sư Pháp Hoa. Kính lạy bồ tát Phổ Hiền, vị khuyến phát Pháp Hoa. Kính lạy bồ tát Quan Âm, vị đại sĩ toàn diện. Kính lạy tất cả Tăng bảo là các vị Bồ tát, các vị Duyên giác và các vị Thanh văn trong kinh Pháp Hoa, trong quốc độ này và trong mười phương quốc độ.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 11618)
Bài kinh không những chỉ dành riêng cho người cao tuổi mà cho tất cả những ai muốn tu tập, nhằm mang lại cho mình một tâm thức an bìnhtrong sáng.
(Xem: 11925)
Bài kinh được xem là tinh hoa tâm linh của người xuất gia, như ngón tay chỉ mặt trăng và như chiếc bè đưa sang bờ giải thoát.
(Xem: 11096)
Quá khứ không truy tìm Tương lai không ước vọng. Quá khứ đã đoạn tận, Tương lai lại chưa đến...
(Xem: 11331)
Trong bài kinh nầy, Đức Phật giảng về đời sống tốt đẹp cần phải có của một cư sĩ Phật tử.
(Xem: 12056)
Kinh này được dịch từ Tương Ưng Bộ của tạng Pali (Samyutta Nikàya IV, 380). Kinh tương đương trong tạng Hán là kinh số 106 của bộ Tạp A Hàm.
(Xem: 12546)
Đây là một bài kinh rất phổ thông tại các quốc gia Phật giáo Nam truyền và thường được chư Tăng tụng và thuyết giảng trong các dịp lễ.
(Xem: 10750)
Trong bản kinh này Đức Phật thuyết giảng về bản chất vô thường và vô thực thể của năm thứ cấu hợp gọi là ngũ uẩn tạo ra một cá thể con người.
(Xem: 17965)
"Chiếc bè này lợi ích nhiều cho ta, nhờ chiếc bè này, ta tinh tấn dùng tay chân để vượt qua bờ bên kia một cách an toàn"
(Xem: 11716)
Tánh không không nhất thiết chỉ là một luận thuyết đơn thuần triết học mà còn mang tính cách vô cùng thực dụngthiết thực, ứng dụng trực tiếp vào sự tu tập nhằm mang lại sự giải thoát.
(Xem: 9936)
Của cải kếch xù của một người như thế nếu không biết sử dụng thích đáng thì cũng sẽ bị vua chúa tịch thu, bị trộm cắp vơ vét, bị thiêu hủy vì hỏa hoạn...
(Xem: 10161)
Bồ Tát Thiện Giới, hiểu theo nghĩa Việt là những giới tốt lành, hay kheo, chơn chánh của Bồ tát.
(Xem: 12340)
Kinh Kim Cang thuộc hệ Bát Nhã, một trong ngũ thời giáođức Phật đã thuyết, và là quyển thứ 577 trong bộ kinh Đại Bát Nhã gồm 600 quyển.
(Xem: 15325)
Kinh Di Giáo là một tác phẩm đúc kết những gì cần thiết nhất cho người xuất gia. Đây là những lời dạy sau cùng của Đức Phật, đầy tình thương và sự khích lệ.
(Xem: 11225)
Kinh Đại Bát Niết Bàn (Maha-parinirvana-sutra), cũng được gọi tắt là Kinh Đại Niết Bàn, hoặc ngắn hơn là Kinh Niết Bàn
(Xem: 14316)
Đức Phật A Di Đà do lòng Đại từ bi, Đại nguyện lực, như nam châm hút sắt, nhiếp thọ hết tất cả chúng sanh trong mười phương vào trong cõi nước Tịnh độ của Ngài,
(Xem: 12085)
Kinh Sa-môn quả đã được đức Phật dạy cách đây trên hai mươi lăm thế kỷ. Nội dung tất cả các phương pháp Phật trình bày trong kinh này đều xoáy sâu vào ba vô lậu học là giới – định – tuệ.
(Xem: 15324)
Sáu chữ BÁT NHÃ BA LA MẬT ĐA sẽ được giải ở câu đầu tiên của phần nội văn, bây giờ giải đề Kinh chỉ giải hai chữ TÂM KINH
(Xem: 11988)
Đề cương kinh Pháp Hoa là học phần cương yếu, Thượng nhân Minh Chánh nêu lên cốt lõi của kinh qua cái nhìn của thiền sư Việt Nam...
(Xem: 12387)
Tên của bộ Kinh này là Kinh Lục Tổ Pháp Bảo Đàn, tên riêng là "Lục Tổ Pháp Bảo Đàn." "Kinh" là tên chung của các bộ Kinh
(Xem: 11152)
Duy ma trọng nhất là bồ đề tâmthâm tâm. Bồ đề tâm thì vừa cầu mong vừa phát huy tuệ giác của Phật. Thâm tâmchân thành sâu xa trong việc gánh vác chúng sinh đau khổ và hội nhập bản thể siêu việt.
(Xem: 12072)
Bài Bát-nhã Tâm kinh do ngài Huyền Trang đời Đường dịch vào năm 649 dương lịch, tại chùa Từ Ân. Toàn bài kinh gồm 260 chữ.
(Xem: 10596)
Thế Tôn đã để lại cho chúng ta một phương pháp để thẩm định đâu là giáo lý Phật Giáo, đâu không phải là những lời dạy của đức Phật.
(Xem: 12548)
Quyển Pháp Hoa Đề Cương là một tác phẩm thật có giá trị của một Thiền sư Việt Nam gần thời đại chúng ta.
(Xem: 13150)
Hội Phật Học Nam Việt - Chùa Xá Lợi Saigon Xuất Bản 1964, Trung Tâm Văn Hóa Phật Giáo Việt Nam-Hoa Kỳ Chùa Huệ Quang Tái Xuất Bản
(Xem: 14780)
Phật pháp không phải là một, không phải là hai, từ lâu truyền lại, ngoài tâm có pháp tức ngoại đạo. Người học đạo Phật ai ai cũng biết như thế.
(Xem: 12651)
Kinh Đại Bát Niết Bànbài kinh nói về giai đoạn cuối đời của đức Phật Thích Ca, từ sáu tháng trước cho tới khi ngài viên tịch, tức là nhập Bát Niết Bàn.
(Xem: 16530)
Nghĩa lý kinh Kim cương là ngoài tầm nghĩ bàn, phước đức kinh Kim cương cũng siêu việt như vậy.
(Xem: 19627)
Phật dạy tất cả chúng sanh đều sẵn có Trí huệ Bát Nhã (Trí huệ Phật) từ vô thỉ đến nay. Trí huệ Bát Nhã rất là quý báu và cứng bén, như ngọc Kim cương hay chất thép.
(Xem: 13099)
Giới bản tân tu này tuy cũng có 348 giới điều như giới bản cổ truyền nhưng đáp ứng được một cách thỏa đáng cho nhu yếu thực tập của người xuất gia trong thời đại hiện tại.
(Xem: 12645)
Giới bản tân tu này tuy cũng có 250 giới điều như giới bản cổ truyền nhưng đáp ứng được một cách thỏa đáng cho nhu yếu thực tập của người xuất gia trong thời đại hiện tại.
(Xem: 12239)
Tạng Kinh là bản sưu tập gồm tất cả những bài Kinh đều do Đức Phật thuyết vào những lúc khác nhau.
(Xem: 11824)
Bài kinh được bắt đầu bằng những điều ta cần làm để được bình an. Không phải là những điều ta cần làm cho tha nhân.
(Xem: 10882)
Pháp ấn này chính là ba cánh cửa đi vào giải thoát, là giáo lý căn bản của chư Phật, là con mắt của chư Phật, là chỗ đi về của chư Phật.
(Xem: 13478)
Thích Đức Nhuận, Viện Triết Lý Việt Nam & Triết Học Thế Giới California, USA Xuất bản 2000
(Xem: 11933)
Tam Tạng Pháp sư Cưu Ma La Thập, đời Dao Tần dịch. Sa môn Hám Sơn Thích Đức ThanhTào Khê, đời Minh soạn - Việt Dịch: Hạnh Huệ
(Xem: 11832)
Hán dịch: Thiên Trúc Tam Tạng Pháp Sư Bồ Đề Lưu Chi - Đời Nguyên Ngụy, Việt dịch: Tuệ Khai cư sĩ - Phan Rang - Chứng nghĩa: Tỳ Kheo Thích Đỗng Minh
(Xem: 11620)
Bồ tát Long Thọ ra đời khi các cánh cửa của Phật giáo Đại thừa được bắt đầu mở rộng.
(Xem: 12751)
Kinh Căn Bản Pháp Môn nêu lên hai cách tu tập: Chỉ (samātha) và Quán (vipassana). Đây là hai cách tu tập cần yếu trong hành trình dẫn đến giác ngộ.
(Xem: 14495)
Trong tác phẩm này, chúng tôi đã cố gắng giới thiệu một phần quan trọng của tạng kinh thuộc Nhất thiết hữu bộ (Sarv.) là kinh Trung A-hàm (Madhyama Àgama) trong hình thức toàn vẹn của nó.
(Xem: 12587)
Hòa thượng Tịnh Không giảng tại Tịnh Tông Học Hội Tân Gia Ba, bắt đầu từ ngày 28/5/1998, tổng cộng gồm năm mươi mốt tập (buổi giảng).
(Xem: 15652)
Bộ kinh này có mặt ở Trung Quốc từ đời nhà Đường (618-907). Ngài Bát Lạt Mật ĐếDi Già Thích Ca dịch từ Phạn văn ra Hán văn.
(Xem: 13598)
Kinh Pháp Cú là một trong 15 quyển kinh thuộc Tiểu Bộ Kinh trong Kinh tạng Pali. Đây là một quyển kinh Phật giáo phổ thông nhất và đã được dịch ra rất nhiều thứ tiếng trên thế giới.
(Xem: 12878)
Diệu Pháp Liên Hoa có thể nói là bộ kinh nổi tiếng nhất trong khu vườn kinh điển Phật giáo Đại thừa.
(Xem: 9853)
Phật pháp dạy mọi người lìa khổ được vui, điều này ai cũng đều biết. Nếu như Phật pháp dạy mọi người lìa vui được khổ thì có lẽ không có ai học.
(Xem: 17997)
Thế Tôn đã từng dạy, chỉ có từ bi mới có thể hóa giải được gốc rễ hận thù, tranh chấp, đối kháng và loại trừ lẫn nhau, ngoài từ bi không có con đường nào khác.
(Xem: 11148)
Kinh Kim Cương là một bộ kinh có một vị trí đặc biệt trong lịch sử học tập và tu luyện của Phật giáo nước ta. Từ giữa thế kỷ thứ 7, trước cả Lục tổ Huệ Năng, thiền sư Thanh Biện của dòng thiền Pháp Vân đã nhờ đọc kinh này mà giác ngộ.
(Xem: 9059)
“Ư bỉ nhị thập nhất câu chi Phật độ, công đức trang nghiêm chi sự, minh liễu thông đạt, như nhất Phật sát, sở nhiếp Phật quốc, siêu quá ư bỉ.” Chỉ một câu văn trong kinh Vô Lượng Thọ mà ta đã có ba chữ nói về cõi Phật.
(Xem: 12158)
Chúng ta biết rằng, lý do tồn tại của Thiền cốt ở tâm chứng, không phải ở triết luận có hệ thống. Thiền chỉ có một khi mọi suy luận được nghiền nát thành sự kiện sống hàng ngày và trực tiếp thể hiện sinh hoạt tâm linh của con người.
(Xem: 13031)
Bài kinh này được chọn trong bộ kinh Theragatha mà kinh sách Hán ngữ gọi là Trưởng Lão Tăng Kệ, thuộc Tiểu Bộ Kinh (Khuddaka).
(Xem: 10285)
Này người Bả-la-môn, ngay cả trước khi việc hiến sinh bắt đầu thì người đốt lửa, dựng đàn hiến sinh cũng đã vung lên ba thanh kiếm bất hạnh...
(Xem: 12174)
Mettâ-sutta là một bản kinh ngắn rất phổ biến trong các quốc gia theo Phật Giáo Nguyên Thủy cũng như các quốc gia theo Phật Giáo Đại Thừa. Tên quen thuộc bằng tiếng Việt của bản kinh này là "Kinh Từ Bi"
(Xem: 15286)
Câu “Ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm” không chỉ là yếu chỉ tu hành của những người tu Phật mà còn có công năng chuyển hóa những tâm hồn bi quan, khổ đau trong cuộc đời, giúp họ sống tỉnh giác và xả ly, tự tin, làm chủ bản thân trước mọi hoàn cảnh sống.
(Xem: 16578)
BÁT NHÃ TÂM KINH (Prajnaparamitahridaya Sùtra) là một bản văn ngắn nhất về Bát nhã ba la mật (Prajnaparamità).
(Xem: 12193)
Bát-nhã là tiếng Phạn, dịch sang tiếng Trung-hoa có nghĩa là trí-huệ, tiếng Việt-nam mình cũng giữ chữ đó là trí-huệ.
(Xem: 11455)
Giáo lý Tứ diệu đế với bốn chân lý vượt lên trên mọi tác động của điều kiện bên ngoài, bàn về bản chất của kiếp nhân sinh và khả năng vượt thắng mọi nỗi khổ niềm đau của con người đã trở thành động lựcniềm tin của nhân loại.
(Xem: 14256)
Đại Thừa Khởi Tín Luận - Con đường đưa đến giác ngộ, Tác Giả: Mã Minh - Dịch & Giải: Chân Hiền Tâm.
(Xem: 19664)
Tỳ Kheo GiớiTỳ Kheo Ni Giới do HT Thích Trí Quang dịch và giải
(Xem: 14136)
Hán dịch: Tam tạng Phật-đà Da-xá và Trúc-phật-niệm. Việt dịch: Tỳ-kheo Thích Đỗng Minh và Thích Đức Thắng. Hiệu chính và chú thích: Tỳ-kheo Thích Nguyên Chứng
(Xem: 24573)
600 câu hỏi và trả lời liên quan đến giáo lý, hành trì, sự phát triển của Phật Giáo; đến lịch sử, văn hóa của các nước thọ nhận Phật Giáo; đến các vấn đề văn hóa, xã hội, chính trị thời đại.
(Xem: 10670)
Kinh 42 Bài là dịch từ chữ Hán Tứ Thập Nhị Chương. Kinh nầy có nhiều bản chữ Hán. Bản lưu hành cho đến gần đây, theo sự ước đoán của Hòa Thượng Trí Quang
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant