Đại sư Tông Bổn - Nguyễn Minh Tiến dịch và chú giải,
Nguyễn Minh Hiểnhiệu đính Hán văn
QUYỂN THƯỢNG
PHỤ LỤC 1
Trăm bài thơ vịnh Tây phương
Ngài Tông Bổn trong khi biên soạn sách này có trước tác 100 bài thơ vịnh Tây phương, mỗi bài đều bắt đầu bằng hai chữ Tây phương nên gọi là Tây phương bách vịnh, được đưa vào làm phụ lục của quyển thượng này.
1.
Pháp xưa Phật dạy tại Tây thiên,
Sang Đông lập giáo hiệu Bạch Liên.
Mười tám bậc hiền cùng tiếp nối,
Khe Cọp cười vang, tích lưu truyền.
2.
Đạo lớn Tây phương lý rộng sâu, Công đứcvô biên dễ biết đâu!
Nào phải Thích tôn riêng chỉ lối,
Chư Phật đều khen pháp nhiệm mầu.
3.
Ơn sâu Phật chỉ hướng về Tây,
Chư Phật ngợi khen rõ pháp này.
Mười sáu phép quán, kinh ghi rõ, Niệm Phật Di-đà, tối thượng thay!
4.
Tây phương Sơ quán phải tinh chuyên,
Hình mặt nhật rơi tợ trống huyền.
Chỉ hướng tâm về An Lạc quốc,
Là pháp thâm sâuVô thượng thiền.
5.
Tây phương Nhị quán rõ ràng thay,
Nước đứng trong veo chẳng sóng lay. Tâm nguyệt tròn vành toàn thể hiện,
Ngồi ngay quán tưởng lớp băng dày.
6.
Tây phươngTam quán: đất lưu ly,
Nhạc pháp vang rền, khắp liễu tri.
Mọi tướng trang nghiêm đều sáng suốt,
Một lòng quyết định dứt hẳn nghi.
7.
Tây phương Tứ quán: cây thành hàng,
Trăm báu trang nghiêm tỏa hào quang. Thọ dụnghiện thành thường khoái lạc,
Ai ơi sao chẳng sớm thừa đang?
8.
Tây phươngNgũ quán thảy làu làu,
Ao thất bảo khai hoa bốn màu.
Nước đức, chim thiêng rền tiếng pháp,
Tiêu phiền, chứng đạo, pháp thêm mầu.
9.
Tây phương Lục quán thảy bao hàm,
Cõi tục hoa phiền chớ đắm tham.
Tánh thật Di-đà đầy đủ cả, Hiện thànhcông án chẳng cần tham.
10.
Tây phương Thất quán vừa tương ưng:
Tòa báu nguy nga, nguyện lực thành. Đại Thánh ngồi trên thường tự tại, Thanh văn quả thấp, sức chẳng thành.
11.
Tây phương Bát quán cần rõ phân,
Chư Phật đều từ tâm tưởng sanh.
Mượn tượng gửi chân, hòa sự lý,
Lo gì Tịnh độ chẳng viên thành?
12.
Tây phương Cửu quán thânvàng ròng, Tướng hảoquang minh chẳng chi bằng.
Nhiếp độ chúng sanh về Cực Lạc,
Tình thân như thể đấng cha lành.
13.
Tây phương Thập quán nhờ tâm thành. Thường niệmQuán Âm đấng Đại từ,
Vừa nghe danh, được vô lượng phước, Lành thayĐại sĩ nguyện rộng sâu!
14.
Tây phương Thập nhất quán khôn lường, Thế Chíhào quangPhật tán dương.
Vì chúng bắc cầu qua biển khổ, Phân thângiáo hóa khắp muôn đường.
15.
Tây phươngThập nhị quán dung thông,
Một niệm tinh thành tự thành công.
Nên tưởng tự thân sanh Cực Lạc. Nghiêm trang ngồi tịnh giữa sen hồng.
16.
Tây phươngHóa Phậtphóng hào quang, Phân thânvô số độ chúng sanh.
Y, chánh trang nghiêm đều đủ cả,
Phép quán mười ba lý viên thành.
17.
Tây phươngGiáo chủđại từ bi. Đạo sưtiếp dẫnchúng sanh quy.
Chín phẩm đều cho lên Bến giác,
Mãi không thối chuyển, chứng Bồ-đề.
18.
Một nẻo Tây phương thẳng bước nhanh,
Trọn phát ba tâm, chân lý thành. Thượng phẩm thượng sanh trong chớp mắt,
Sanh ra gặp Phật, chứng Vô sanh.
19.
Tây phương khoái lạc thật kỳ thay! Quán tưởngtinh thành, hoa nở ngay, Thượng phẩm trung sanh, tùy nguyện đến, Trang nghiêm ngồi tịnh, đóa sen bày.
20.
Tây phương lòng đạo nếu kiên trì. Thượng phẩm hạ sanh có khó chi,
Nguyện thảy cùng lên thuyền Bát-nhã.
Sen vàng đã sẵn đợi người đi.
21.
Tây phương sáng rõ chẳng mơ hồ, Kiên trìtrai giới, thấu Khổ, Không. Trung phẩm thượng sanh, nhờ sức Định,
Quả A-la hán được thần thông.
22.
Tây phương tu Giới được trọn lành,
Một niệm hoa khai, Thánh quả thành. Trung phẩm trung sanh, chờ nửa kiếp, Diệu quảVô sanh ắt tự thành.
23.
Tây phương giúp Đạo: hiếu làm đầu,
Xử thế nhân từ: ruộng phước mầu. Trung phẩm hạ sanh, nghe diệu pháp,
Nhờ duyên đời trước gặp bạn lành.
24.
Tây phươngHóa chủ, nguyện vô biên:
Một niệm qui y, diệt tội khiên. Hạ phẩm thượng sanh, nghe hiệu Phật.
Nhờ thầy chỉ bảo, đại nhân duyên.
25.
Tây phương Đạo lớn từ xưa nay,
Chẳng bỏ người tạo nghiệp sâu dày. Hạ phẩm trung sanh nhờ chỉ dạy,
Vừa nghe pháp Phật vững tin ngay.
26.
Tây phươngquyết định lúc lâm chung:
Nhờ gặp bạn lành đường mở thông, Hạ phẩm hạ sanh trong mười niệm,
Tội trừ bao kiếp, phước vô cùng.
27.
Tây phươngtinh tấn chớ trì diên, Nghi thành chờ đợi nửa nghìn năm. Hào quangĐại Thánh soi chiếu đến,
Được về Tịnh độ lễ Kim Tiên.
28.
Tây phương, Sơ địaphát tâm kiên, Bố thí lòng vui, gieo phước điền. Thân mạng, của tiền đều bỏ hết,
Được lên thượng phẩm giữa tòa sen.
29.
Tây phương, Nhị địa phải tâm thành, Niệm Phật trước nên quán lý minh. Trì giới tinh nghiêm, lìa cấu uế,
Ruộng tâm thanh tịnh, đạo viên thành.
30.
Tây phương, Tam địaý căn thành, Nhẫn nhục nhu hòa, dạy chúng sanh.
Mọi phép thần thông đều đủ cả,
Tướng thân vàng rực tỏa quang minh.
31.
Tây phương, Tứ địa thể không hư, Phiền não, lòng ma, thảy quét trừ. Tinh tấn, tự nhiên sanh trí tuệ, Xưa nay không khác, chứng chân như.
32.
Tây phương, Ngũ địa khó tựu thành,
Thấy biết hai thừa đâu dễ sánh. Pháp thân thanh tịnh, rõ ý chính,
Tu sâu thiền định, lộ chân tình.
33.
Tây phương, Lục địa đạt viên dung,
Bốn phía toàn chân, mọi việc thông.
Bát-nhã hiện tiền không vướng mắc, Toàn thân tay mắt mở toang dòng.
34.
Tây phương, Thất địa vừa rõ phân, Bồ Tát vượt xa nhờ lòng lành.
Mỗi niệm rõ thông, sai biệt trí, Nếu khôngphương tiện, chẳng viên thành.
35.
Tây phương, Bát địa ngộ Vô sanh, Chư Phật Như Lai thảy chứng thành.
Chẳng động Pháp thân qua biển khổ,
Nguyện sâu rộng cứu khắp chúng sanh.
36.
Tây phương, Cửu địa pháp vô biên, Đại sĩ hoằng dương chí lực kiên.
Tông, thuyết đều thông, xưng Thiện huệ, Biện tài bốn đức thảy châu viên.
37.
Tây phương, Thập địa trí trước tiên,
Mưa pháp mây từ khắp Đại thiên. Sư tử gầm vang, muông thú phục. Nhất sanh bổ xứ, quả Phật thành.
38.
Tây phươnggiác ngộ, Phật sánh vai, Vô biên hạnh nguyện xứng Phổ Hiền. Đối diệnNhư Lai nhận giao phó, Lợi sanh tiếp vật, khởi Vô duyên.
39.
Tây phươngDiệu giác, quả châu viên,
Đủ mắt Văn-thù phước trí nguyên.
Thân Lô-xá-na, đủ công đức.
Bỏ lành, mặc rách, phương tiện truyền.
40.
Tây phươngViên giác, bậc thánh sư, Đồng ThểQuán Âm đủ đại bi.
Mười hiệu, Ba thân đều trọn vẹn,
Ấy ngôi Vô thượng Phật Bồ-đề.
41.
Tây phương Viễn tổ sớm tiên tri,
Còn hướng về non lễ sáu thì.
Một hội trăm hai mươi ba vị,
Cùng sanh Tịnh độ, chứng Bồ-đề.
42.
Tây phươngĐại Thánh, vua các pháp, Tiếp dẫn chúng mê, phóng hào quang.
Mỏi nhọc chẳng nề hoằng nguyện nặng.
Thường chơi biển khổ, cưỡi thuyền từ.
43.
Tây phương dễ tới, đừng ngần ngại,
Chỉ cốt người tu phải quyết tâm.
Chớp mắt vượt qua dòng sanh tử,
Có duyên ắt gặp việc khó tầm.
44.
Tây phương gần đó, chớ cầu xa,
Một niệm Di-đà hãy thiết tha,
Giữ được suốt đời không niệm khác, Hoa sen nước Phật đợi người qua.
45.
Tây phương chẳng phải phí sức nhiều,
Mười niệm viên thành, chốc lát siêu. Phật tổchỉ đường nhanh bước tới,
Đời này ắt được thoát trầm phiêu.
46.
Tây phươngTừ phụcảm thương đời, Tiếp dẫn chúng mê về tận nơi.
Sớm tới tòa sen vui gửi thể,
Đừng vào cõi tục gá bào thai.
47.
Tây phươngtin chắc, chớ ngờ đây, Niệm Phậttu hành mau kịp ngày.
Ngày qua ngắn ngủi nên sớm liệu.
Xương khô vùi đất, mấy người hay!
48.
Tây phương cội rễ, giới trước tiên, Giới luật tinh nghiêm, định cũng kiên,
Sức định chẳng khô, sanh trí sáng,
Trí sáng, tâm thông, tức Kim tiên.
49.
Tây phương chẳng đợi học đa đoan:
Một tiếng Di-đà trở mối sang.
Thấy được ban sơ mày mặt thật,
Mới hay sanh tử tức Niết-bàn.
50.
Tây phương thẳng đến, chớ lân la, Thành bại nay đều do chính ta.
Chỉ cần niệm Phật không xen tạp, Hoa senCực Lạc sẵn chờ ta.
51.
Tây phương ao báu nở hoa sen, Vật báutrang nghiêm tựhóa thành.
Hiện giữa hào quang, tự thấy Phật, Trang nghiêm ngồi giữa đóa sen lành.
52.
Tây phương Tịnh độ diệu kỳ thay!
Hoa ưu-bát-la khắp cõi khai.
Muôn việc hiện thành nền phú quí,
Mỗi đài hoa báu, mỗi Như Lai.
53.
Tây phươngdanh hiệu Phật đồng mình,
Nghe biết tin sâu chẳng khiếp kinh.
Nếu nhân một niệm bừng tỉnh dậy,
Nhọc chi mười vạn tám ngàn trình.
54.
Tây phươngHóa chủ độ mê tình,
Sức Phật gia trì đạo dễ thành.
Buông tay thẳng tiến không đường khác, Bước đầu phải thấu rõ ý kinh.
55.
Tây phươnggiáo pháp đã đành rành,
Một niệm Di-đà cất bước nhanh. Quyết định sớm lên tòa Sư tử,
Đồng danh, đồng hiệu chứng Vô sanh.
56.
Tây phương chớp mắt ngộ Vô sanh, Lên ngôiThượng phẩm, quả Phật thành. Từ phụ Di-đà, thân thọ ký,
Về sau thuyết pháp độ chúng sanh.
57.
Tây phươngnghiêm tịnh chốn an vui,
Vật dùng tùy ýhóa hiện thôi.
Các cõi trời, người không sánh kịp, Trang nghiêm tòa báu hiện ngồi trên.
58.
Tây phươngcõi Phật vượt chư thiên,
Hơn cả Bồng Lai cõi chư tiên;
Hơn cả giàu sang cùng vua chúa.
Và hơn cả hạng ngu si thiền.
59.
Tây phương vui khoái vượt Thiên cung,
Tuổi thọ khôn lường, phước chẳng cùng.
Kẻ thiếu niềm tinnghịch báng bổ, Phật tử đủ duyên được về chung.
60.
Tây phươngPhật tử đủ thần thông,
Thâu lại, buông ra phút chốc xong. Tùy loạihiện thân, dùng phép lạ,
Mở quyền, hiển thật, dậy tông phong.
61.
Tây phươngcảnh trí vượt Bồng Lai,
Uống khí, ăn mây, nuôi họa thai.
Đừng học xuất thần, tu luyện phép,
Cây khô há khiến được hoa khai?
62.
Tây phương Tịnh độ sen hóa sanh,
Khuyên khắp chúng sanhniệm Phật danh.
Hoa nở tức thời được thấy Phật,
Dứt trừ mãi mãi điều chẳng lành.
63.
Tây phươngphú quí vượt vương hầu,
Mọi thứ trang nghiêm, tự đủ đầy.
Chỉ quyết một lòng cầu Tịnh độ,
Dứt ngay nẻo dữ chốn trầm luân.
64.
Tây phương đường trước sớm tu trì,
Muôn việc thị phi chẳng lo chi. Buông xảthân tâm, chuyên niệm Phật,
Đã không phiền não, dứt lo âu.
65.
Tây phươngthọ dụng kém ai đâu, Ao bảy báu đầy bốn sắc hoa. Thức ăn, y phục tự hóa hiện,
Vẹn toàn tướng hảo với quang minh.
66.
Tây phương nhìn khắp thảy hoa sen,
Trăm báu trang nghiêm trọn phô bày.
Chư thượng thiện nhân cùng hội tụ,
Số nhiều vô lượng vượt cát sông.
67.
Tây phương lối tắt vượt tham thiền,
Một niệm Di-đà, pháp trước tiên.
Chớp mắt vượt qua mười vạn ức,
Chỉ e người chẳng nhận tin liền.
68.
Tây phương chỉ sợ thiếu kiên trì, Gắng sứcchuyên cần thẳng bước đi.
Như thuyền xuôi nước, chèo lái đủ,
Di-đà tiếp dẫn có khó chi!
69.
Tây phương chẳng luận kẻ nghèo, giàu,
Sang, hèn, khôn, dại chẳng khác nhau.
Chẳng luận gái, trai, già với trẻ,
Chẳng phân tăng, tục, oán hay thân.
70.
Tây phươngquyến thuộc cùng dòng pháp,
Cùng tu niệm Phật, kết tình thân.
Cùng phát nguyện sanh về nước Phật,
Nên cùng gieo cấy vãng sanh nhân.
71.
Tây phương mở đạo cảm Thích-ca,
Gieo nhân Tịnh độ niệm Di-đà. Ba cõisáu đường đều trải khắp,
Mới hay quả Phật, cõi người ta.
72.
Tây phươngcông đức nước trong ngần, Thấu triệt cội nguồn niệm Phật nhân.
Không chỉ riêng người sanh Tịnh độ,
Muôn loài bay chạy cũng nhờ ân.
73.
Tây phươngkim cổ mãi thường còn,
Cha lành thương xót độ cháu con.
Tám vạn bốn ngàn phương tu tập,
Di-đà một tiếng vượt trội hơn.
74.
Tây phương Cực Lạcvượt trội hơn,
Rộng khuyên hết thảy tu pháp này. Giữ miệng chớ nên bàn chuyện nhảm, Niệm Phật sớm chiều chẳng đổi thay.
75.
Tây phương có Phật hiệu Di-đà,
Sông mê độ hết chúng sanh qua. Bốn mươi tám nguyện bày chín phẩm,
Sẵn đợi muôn người, chớ luống qua.
76.
Tây phương duy một nẻo không xa,
Một niệm vững tin phút chốc qua.
Chạm mắt, gặp duyên đều Cực Lạc,
Gió lay, nước chảy giảng Ma-ha.
77.
Tây phươngđường tắt khéo tu hành, Dũng mãnhchuyên cần tiến bước nhanh.
Chín phẩm đài sen đều sẵn đợi, Hoa khaichắc chắn ngộ Vô sanh.
78.
Tây phương mau tắt dễ cầu sanh,
Chỉ tại đời nay một niệm thành. Tinh tấn lại thêm tu phước, huệ,
Đài vàng thượng phẩm được nêu danh.
79.
Tây phương mỗi bước đạp liên hoa,
Tạ đức Thích-ca mở lối qua.
Ba lần thuyết giảng, không sai khác,
Một lòng niệm Phật, sớm về nhà.
80.
Tây phương đích thật ấy nhà ta,
Một niệm Di-đà đúng nẻo qua.
Tin sâu, niệm vững, được quả thật,
Dẫu cho cây sắt cũng nở hoa.
81.
Tây phương dễ đến mấy ai hay? Đường tắt chớ ngờ, quyết tu ngay. Chân kinh sáu chữ khi thuần thục,
Trên đài sen báu lễ Di-đà.
82.
Tây phươngTừ phụ hiệu Di-đà,
Chín phẩm hoa sen dẫn người qua. Tu tập dễ dàng, nhanh chóng đến,
Đáng thương kẻ nghi ngại thành xa!
83.
Khuyên tu Tịnh độ, lập Liên tông, Tôn sưHuệ Viễn hoằng cõi Đông. Niệm Phật, tham thiền chung một đích, Xưa naydiệu hữu tức chân không.
84.
Tây phương nguyện lớn khắp mênh mông,
Một niệm Di-đà khéo dụng công. Niệm niệm đành rành không dứt đoạn,
Lời lời thức tỉnh Chủ nhân ông.
85.
Tây phương thẳng hướng dễ tu trì,
Mấy ai rõ biết tánh A-di? Ba cõisáu đường mê sanh tử,
Suy cùng, sao chẳng xót thương chi?
86.
Tây phươngcông án sớm hành trì, Lẳng lặngngồi yên, khởi tâm nghi,
Nghi đến tình quên, tâm dứt tuyệt,
Hiểu ra, ta vốn thật Di-đà.
87.
Tây phương một tiếng ấy riêng truyền,
Chẳng mượn tu hành, tâm hiện tiền,
Các bậc thiện nhân nếu thấy tánh,
A-di-đà Phật sánh vai liền.
88.
Tây phương đạo lớn chẳng pháp riêng,
Một niệm Di-đà, sự, lý kiêm.
Thấu rõ ý mầu tinh tế ấy,
Mới hay niệm Phật tức tham thiền.
89.
Tây phương muôn khổ não không còn,
Người tu cần thấu triệttự tâm. Trước mắt thấy liền chân Cực Lạc,
Biết đất nơi đây thật vàng ròng.
90.
Tây phương mặt đất thật vàng ròng,
Vang trời cây báu giảng Pháp Không.
Như thế xưng danh là Cực Lạc ,
Bao nhiêu nạn khổ hóa thành không.
91.
Tây phươngniệm Phật: pháp tối cao,
Chớ tin tà thuyết lòng động xao. Thuở trướcThế Tônân cần nhắc, Đường tắt là đây, đúng lối vào.
92.
Tây phươngcông đức thật khôn lường,
Không tin, báng bổ chuốc tai ương. Địa ngục đọa vào vô số kiếp,
Biết bao giờ thoát khỏi đau thương?
93.
Tây phương đường rộng ít người qua,
Vì pháp môn này rất cao xa.
Kẻ chẳng chịu đi, ai kéo được?
Chỉ người tin chắc mới giao hòa.
94.
Tây phương dễ tới, khá tu hành,
Mười niệm tinh chuyên, ắt vãng sanh.
Khuyên khắp thế gian nam cùng nữ,
Hãy mau sớm liệu việc tu hành.
95.
Tây phương quê cũ sớm về thôi,
Mạng sống vô thường, thở một hơi!
Ngày tháng có chừng, nên tiếc lấy,
Đời nay bỏ luống, khó trông vời.
96.
Tây phương chẳng tới khó lòng thay,
Sức tợ dời non, lỡ kiếp này.
Nhắn nhủ thế gian người trí thức,
Sẵn kho báu vật, chớ về không!
97.
Tây phươngtrở lại, chớ trì nghi,
Một tiếng Di-đà sớm thọ trì.
Nhướng mắt lên cao, tay xuống vội,
Chẳng nhọc, không lâu, chứng Bồ-đề.
98.
Tây phương gấp gấp sớm tu trì, Sống thácvô thường, chớ hẹn chi.
Ngày tháng qua nhanh như tia chớp.
Thân người há dễ được mấy khi?
99.
Tây phương một nẻo chớ dần dà, Tinh thần phấn chấn thẳng đường qua.
Đào giếng đừng chờ khi khát nước,
Lên thuyền Tịnh độ sớm đi xa.
100.
Thơ vịnh trăm bài đã trọn vần,
Rộng khuyên tất cả sớm tu thân.
Đừng sá thân mình tìm kế sống, Tây phương về được, hưởng Phật ân.
8. Khuyên người phát nguyện chân chánh, quyết địnhvãng sanh
Ngài Từ Chiếu Tông chủ dạy rằng: “Có hạnh, không nguyện, hạnh ấy ắt là không thành. Có nguyện, không hạnh, nguyện ấy ắt là yếu ớt. Không hạnh, không nguyện, ở mãi chốn Diêm-phù vô nghĩa. Có hạnh, có nguyện, thẳng nhập vào cõi vô vi. Đó là cái căn bản tu nghiệp thanh tịnh của chư Phật Tổ.
Vì sao vậy? Lý do trí dẫn đường, hạnh do nguyện khởi lên. Hạnh và nguyện được như nhau thì lý và trí đều gồm đủ.
Nguyện tức là điều ưa thích, mong muốn. Như mong muốn được sanh về cõi Tịnh độ phương tây; ưa thích được thấy đức Phật A-di-đà. Cần phảiphát nguyện, sau mới được vãng sanh. Nếu không có tâm nguyện, căn lành rồi sẽ tiêu mất.
Kinh Hoa Nghiêm dạy rằng: “Nếu chẳng phát nguyện lớn, ắt bị ma dắt dẫn.” Hết thảy quả Phật đều do từ nguyện lớn khởi lên, nên muốn được quả Vô thượng Bồ-đề, phải có nguyện ba-la-mật. Vì vậy, ngài Phổ Hiền khơi rộng biển nguyện vô biên, đức Di-đà mở ra bốn mươi tám cửa nguyện. Cho nên biết rằng mười phương chư Phậtcho đếnthánh hiềnxưa nay đều do nơinguyện lực mà thành tựu Bồ-đề.
Luận Trí độ, quyển tám, có câu hỏi rằng: “Chư Bồ-đề hạnh nghiệp thanh tịnh, tự nhiên được báo phần hơn, cần gì phải lập thệ nguyện, rồi sau mới được thọ báo? Vả lại, như người làm ruộng tất có lúa, há phải đợi có nguyện hay sao?”
Đáp rằng: “Làm phước không có nguyện, không có chỗ hướng về. Nguyện là sức dẫn dắt, quy hướng, nhờ đó mà thành tựu. Như Phật có dạy rằng: Như người tu hành ít phước, ít giới, chẳng rõ biết chánh nhân giải thoát, nghe nói về sự vui sướng ở cõi người, cõi trời nên thường mong cầu. Sau khi thác đều sanh về những cõi ấy. Đó đều là do nguyện lực dẫn dắt đến. Bồ Tát cầu sanh Tịnh độ là nhờ ở chí nguyệnbền vững mạnh mẽ, mới được vãng sanh.” Lại dạy rằng: “Tuy tu ít phước, nhưng nhờ có nguyện lực nên được thọ báoĐại thừa.”
Luận Đại trang nghiêm dạy rằng: “Sanh về cõi Phật là chuyện lớn, nếu chỉ nhờ vào công đức thì không thể thành tựu được. Cần phải có nguyện lực giúp vào mới được vãng sanh, do nơi nguyện mà được thấy Phật.”
Kinh A-di-đà dạy rằng: “Như người có lòng tin, nên phát nguyện sanh về cõi ấy.”
Kinh Hoa nghiêm, phẩm Hạnh nguyện có dạy rằng: “Vào thời khắccuối cùng trước lúc mạng chung, hết thảy các căn đều hoại mất, hết thảy thân thuộc đều lìa bỏ, hết thảy oai thế đều không còn, cho đến voi, ngựa, xe cộ, của báu, kho tàng đều không còn nữa. Duy chỉ có nguyện lớn là không lìa bỏ, luôn luôn dẫn đường phía trước, nên chỉ trong khoảnh khắc liền được vãng sanh về thế giới Cực Lạc.”
Do đó mà suy ra, nên thường xuyênphát nguyện, mong muốn được vãng sanh, ngày ngày đều cầu mong, đừng để thối mất chí nguyện.
Cho nên nói rằng: Pháp môn dù rộng lớn, không có nguyện cũng chẳng theo. Do đó mà Phật tùy theo lòng người, giúp người được như nguyện.
Than ôi! Nhìn khắp những người đời nay có lòng tin theo về cửa Phật, hoặc vì bệnh tật khổ não mà phát tâm, hoặc vì báo ơncha mẹ mà khởi ý, hoặc vì muốn giữ lấy cửa nhà, hoặc vì sợ tai họa mà ăn chay. Dầu cho có lòng tin, nhưng chẳng có hạnh nguyện; tuy nói là niệm Phật, nhưng không đạt đến chỗ cội gốc của chính mình.
Phàm những kẻ làm việc thiện đều là mong được thỏa sự mong cầu, hiếm hoi lắm mới có người vì luân hồi sanh tử mà phát nguyệnniệm Phật cầu sanh Tịnh độ. Thường khi người ta dâng hương đèn nơi đạo tràng, những lời cầu nguyện đều là hướng đến chỗ bộc bạch với thần minh để cầu cho được tai qua nạn khỏi, tuổi thọ dài lâu. Do đó mà trái ngược với ý nghĩakinh sám, không phù hợp với bản nguyện của chư Phật. Dầu cho trọn đờitu hànhtụng niệm cũng chẳng rõ lý thú, vận dụng công phu sai lầm. Cho nên mới nói là: “Suốt ngày tính đếm châu báu của người, còn tự mình chẳng được lấy nửa đồng tiền!” Đến khi lâm chung chẳng được vãng sanh Tịnh độ, đều chỉ là do chẳng có hạnh nguyện mà thôi!
Lại có những kẻ ngu si, khi về thọ giới theo Phật liền đối trước Tam bảo mà dâng hương phát lời thề rằng: “Nếu tôi phá giới, xin chịu bệnh dữ đeo đuổi nơi thân, mãi mãi đọa nơi địa ngục.” Hoặc thề rằng: “Nếu tôi phá giới, xin chịu nơi mắt trái chảy máu, mắt phải chảy mủ; tự mình cam chịuthọ báo.”
Đã từng thấy nhiều người miệng nói ra như vậy mà lòng không nhớ nghĩ, vẫn phá trai, phạm giới, rồi phải chịu tai ương hoạn họa, thọ các ác báo. Hoặc trong hiện tại chịu sự trừng trị của pháp luật, hoặc khi chết rồi phải đọa vào ba đường dữ: địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh.
Than ôi! Thật chẳng biết rằng Phật Tổ khởi lòng đại từ bi, có bao giờ dạy người những chuyện như vậy? Đó đều là chỗ lầm lỗi của bọn tà sư, lẫn lộn những thuật chú phạt mà cho là phát nguyện, thật là lầm lẫn biết bao!
Nghĩ mà thương xót, xin khuyên hết thảy mọi người đồng phát chánh nguyện, cầu sanh Tịnh độ, cùng nhau thẳng đến quả Phật.
Hẳn có người nói rằng: “Tôi là phàm phu, đâu dám mong cầu sanh về Tịnh độ, được làm Phật hay sao? Nếu mong cầu như vậy, lại thành ra hoang tưởng mà thôi.”
Xin thưa rằng: “Không phải vậy. Này quý vị! Phật tức là giác, Tịnh độ là tâm. Tâm này, ai mà chẳng có? Nếu tâm giác ngộ tức tự mình là Phật, còn khi tâm mê, ấy là chúng sanh. Người đời vì trái với giác, hợp với trần, cho nên phải luân hồi trong ba cõi, sanh ra theo bốn cách trong sáu đường. Nghiệp duyênthiện ác, thọ báo tốt xấu, đều do nhận lầmbốn đại là thân, sáu trần thật có. Vì thế mà nương theo những cảnh huyễn ảo bên ngoài, ngày đêm lưu chuyển, chẳng lúc nào chịu quay lại quán chiếu, ăn chayniệm Phật.
Suốt đời từ trẻ đến già chỉ lo việc nhà chẳng xong, tiền bạc của cải chưa được như ý, nhưng càng được nhiều lại càng mong cầu, lòng tham không thỏa! Dầu cho cũng có làm lành làm phước, thờ Phậtthắp hươnglễ bái, nhưng chỉ mong cầu được phú quívinh hoa, sống lâu không chết. Vừa làm được đôi chút việc tốt đã khởi tâm mong cầu nhiều việc, muốn cho lúa gạo đầy kho, con cháu hiển đạt, trâu ngựa sanh nhiều... Vừa có một điều không như ý, liền oán trách Phật chẳng phù hộ. Còn như ngày ngày được thêm của cải, gặp nhiều chuyện vui, họ mới gọi là được cảm ứng! Tính toán tham lam như vậy, quả thật là những ý tưởng sai quấy.
Còn nói ngược lại rằng niệm Phật cầu sanh Tịnh độ là ý tưởng sai quấy, há chẳng phải là điên đảo lắm sao? Phàm những việc làm phước hằng ngày đều thuộc về pháp hữu vi, đó là cái nhân hữu lậu thế gian, chẳng phải đạo vô vixuất thế.
Người Phật tửtu hành nên khéo suy xét. Ngày nay có duyên gặp được Phật pháp, nên tham cứu đến tận cội gốc, đừng vướng nơi những cành nhánh nhỏ nhặt. Chỉ trong một niệmquay vềquán chiếutự tâm, tu theo pháp xuất thế, phát nguyệnlìa bỏ cõi Ta-bà, cầu sanh về Tịnh độ. Khác nào như người khách tha hương đã lâu, nay nhớ nghĩ muốn quay về quê cũ. Cái tâm nguyện muốn sanh về Tịnh độ, muốn thành quả Phật, sao có thể đồng với những ý tưởng sai quấy của kẻ phàm phu?
Trong bài sám Tịnh độ có nói rằng:
Nguyện khi tôi xả bỏ thân này,
Trừ được hết thảy mọi chướng ngại. Trước mắt thấy Phật A-di-đà,
Liền được vãng sanh về Tịnh độ.
Nên có lời rằng:
Một khi thẳng bước trên đường chánh,
Mới hay từ trước dụng tâm tà.
Các tác phẩm của Thầy phần lớn được dịch từ Hán tạng, gồm giới kinh và các nguồn văn họcPhật giáoĐại thừa với tư tưởnguyên thâm về triết học và tâm lý học.
Đã phát khởichí nguyệnĐại thừa, lại kiên quyếtthực hiệnchí nguyện ấy, đó thực sự là cung cách hùng dũng của con sư tử đang vươn mình, và do đó phải được nhìn đến bằng cung cách của con voi chúa.
Vua và phu nhân gởi thơ cho Thắng Man, đại lượcca ngợicông đức vô lượng của Như Lai, rồi sai kẻ nội thị tên Chiên Đề La đem thư đến nước A Du Xà... HT Thích Thanh Từ dịch
Tất cả các nhà đạo học và thế học muốn thành tựu kết quả tốt đẹp trong cuộc đời, thì trước hết, họ phải trải qua quá trình kham nhẫn, nỗ lực, tu, học, rèn luyện tự thân, giúp đỡ, và đem lại lợi ích cho tha nhân.
Có lần Đức Phật sống tại Rajagaha (Vương Xá) trong Khu Rừng Tre gần Nơi Nuôi Những Con Sóc. Lúc bấy giờ, vị Bà La Môn tên là Akkosa Bharadvaja đã nghe người ta đồn đãi như sau:
Tôi nghe như vầy. Có lần Đức Phật, trong khi đi hoằng pháp ở nước Kosala nơi có một cộng đồng rất đông Tỳ Kheo, ngài đi vào một tỉnh nhỏ nơi cư trú của người Kalama
Nguyên xưa ngài Quán Nguyệt Pháp sư đem hai thời kinh khóa tụng: Mai đóng chung và chiều nhập chung lại làm một đại thể làm một tập lớn. - Chú giải: Ngài Quán Nguyệt; Dịch giả: HT Thích Khánh Anh
Khi khảo sát về PHÁT BỒ-ĐỀ TÂM, chúng tôi tự nghĩ, chúng tacần phải biết Bồ-Đề là gì? Bồ-Đề Tâm là thế nào? Phát Bồ-Đề Tâm phải học theo những Kinh, Luận nào?
Nếu tính từ thời điểm vua Lương Vũ Đế tổ chức trai hội Vu lan ở chùa Đồng Thái vào năm Đại Đồng thứ tư (538), thì lễ hội Vu lan của Phật giáo Bắc truyền đã có lịch sử hình thành gần 1.500 năm.
Sa-môn Thích Đàm Cảnh dịch từ Phạn văn ra Hán văn, tại Trung-quốc, vào thời Tiêu-Tề (479-502). Cư sĩ Hạnh Cơ dịch từ Hán văn ra Việt văn, tại Canada, năm 2018.
Đức PhậtA Di Đà tự thân có ánh sáng vô lượng, chiếu khắp cả mười phương mà không có vật gì có thể ngăn che. Vì vậy nên Phật A Di Đà có nghĩa là Vô Lượng Quang Phật.
Ngài Buddhaghosa sanh ra và lớn lên nước Magadha, thuộc Trung Ấn Độ, vào thế kỷ thứ V trong ngôi làng Ghosa, gần địa danh nơi đức Phậtthành đạo Bodhigaya
Kinh Địa Tạng là một trong các kinh Đại thừa được phổ biếnrộng rãi trong quần chúngViệt Nam từ hơn nửa thế kỷ nay song song với các kinh Kim Cương, Di Đà, Phổ Môn...
Đức Phật Thích-Ca Mưu-Ni, bắt đầu chuyển pháp-luân, độ cho năm vị Tỳ-Khưu là Tôn-giả Kiều-Trần-Như v.v... Sau cùng, Ngài thuyết pháp độ cho ông Tu-bạt-đà-la.
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0434; Dịch Phạn - Hán: Tam Tạng Cát-ca-dạ, Dịch Hán - Việt và chú: Tỳ-kheo Thích Hạnh Tuệ; Hiệu đính: HT Thích Như Điển
Phật giáo được khai sáng ở Ấn-độ vào năm 589 trước kỉ nguyên tây lịch (năm đức Thích Ca Mâu Nithành đạo), và đã tồn tạiliên tục, phát triển không ngừng trên ...
Những gì xảy ra trong thế giới này đều bị qui luật Nhân quảchi phối. Mọi thứ xuất hiện ở đời đều có nhân duyên. Hạnh phúc ở thế gian hay Niết bàn của người tu đạo không ra ngoài qui luật ấy.
Bản dịch này được trích ra từ Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh Vol. 48, No. 2010. Bởi vì lời dạy của Tổ Tăng Xán quá sâu sắc, súc tích, và bao hàm trong 584 chữ Hán,
Xin dâng hết lên Tam Bảochứng minh và xin Quý Ngài cũng như Quý Vị tùy nghi xử dụng in ấn tiếp tục hay trì tụng cũng như cho dịch ra những ngôn ngữ khác...
Viết ra các bài Phật học thường thức này, chúng tôi không có tham vọnggiới thiệutoàn bộPhật pháp và chỉ cốt giúp cho các bạn sơ cơ hiểu được một cách đúng đắn, đạo lý năm thừa trong Phật giáo mà thôi.
We use cookies to help us understand ease of use and relevance of content. This ensures that we can give you the best experience on our website. If you continue, we'll assume that you are happy to receive cookies for this purpose.